Văn nghị luận văn học Tập 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây

Đề bài: Phân tích tác phẩm truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.

Bài văn mẫu

   Nhà thơ Đỗ Trung Quân từng có một định nghĩa bằng thơ rất hay về quê hương:

   “Quê hương là chùm khế ngọt

   Cho con trèo hái mỗi ngày

   Quê hương là đường đi học

   Con về rợp bướm vàng bay…”

   Thực vậy, trên thế gian này có bao nhiêu con người thì có bây nhiêu cách định nghĩa khác nhau về quê hương. Nhưng hiểu một cách chung nhất, quê hương là điểm đến của tâm linh, điểm về của mọi xáo trộn tâm hồn và là nơi để ta có thể nương tựa sau những vấp ngã, khó khăn trên đường đời. Bởi đơn giản quê hương chính là nơi lưu giữ những kỉ niệm ngọt ngào và là nơi luôn tồn tại những tấm lòng giàu tình yêu thương, sẵn sàng dang rộng vòng tay để đón chúng ta vào lòng. Cũng nhận ra được điều đó, Nguyễn Minh Châu – một nhà văn luôn có những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời đã viết lên truyện ngắn “Bến quê” (1985) nhằm thức tỉnh người đọc biết nhận ra và biết trân trọng những vẻ đẹp gần gũi, bình dị, vững bền và quý giá của gia đình, quê hương.

   Truyện được kể theo ngôi thứ ba nhưng toàn bộ diễn biến câu chuyện được nhìn qua lăng kính tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật Nhĩ với một hoàn cảnh đặc biệt: sắp giã từ cuộc đời. Vì thế, làm cho dòng trần thuật chuyển hóa thành dòng độc thoại nội tâm với những suy ngẫm, triết lí khái quát về con người và cuộc đời của Nhĩ. Từ đó, giúp cho câu chuyện trở nên chân thực, sinh động, đồng thời toàn bộ tư tưởng, chủ đề của truyện được truyền tải một cách dễ dàng, tự nhiên, gần gũi và sâu sắc.

   Trước hết, truyện ngắn “Bến quê” đã được nhà văn tạo dựng bằng một tình huống truyện độc đáo mang đầy những nghịch lí, éo le. Nhĩ – một con người đã từng chu du đi khắp nơi trên trái đất với bất kể xó xỉnh nào anh cũng đã từng đặt chân tới nhưng đến phút giây cuối đời anh lại phải cột chặt thân mình bên giường bệnh. Và khi phải bó mình trên chiếc giường chật hẹp, không đi lại được anh mới chợt nhận ra vẻ đẹp giàu có của bãi bồi bên kia sông Hồng – nơi mà anh chưa từng đặt chân đến và vẻ đẹp tâm hồn của người vợ nhưng tiếc thay đã quá muộn màng. Tạo ra một tình huống nghịch lí ấy, tác giả muốn hướng tới một nhận thức mang tính chiêm nghiệm: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định và ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của con người. Do không thể trực tiếp thực hiện được khát vọng đi tới “miền đất mơ ước” ấy, nên Nhĩ đã nhờ vả đứa con trai thay mình đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Nhưng cậu bé đã không hiểu được ý cha nên nó chịu đi một cách miễn cưỡng và rồi bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế bên dọc đường, có thể làm lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Anh nhớ lại thời trai trẻ của mình cũng ham chơi như thế, vả lại nó cũng chưa nhận ra sự hấp dẫn bên kia sông, nên anh không hề trách cậu bé. Từ đó, anh rút ra một triết lí có tính chất tổng kết, chiêm nghiệm về qui luật của cuộc đời con người: “Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Nhĩ một con người của thời đại mới chỉ biết chạy theo những ước vọng xa vời mà lãng quên đi những vẻ đẹp bình dị, thân quen mà mình đang có. Để rồi khi vấp ngã, khi phải sắp chia xa với cuộc sống này vĩnh viễn thì anh mới chịu nhận ra quê hương, gia đình, người vợ mới là bến đậu, là nơi nương tựa bình yên và vững chắc nhất cho con người sau hành trình đi xa trở về. Mặc dù nhận thức của Nhĩ dẫu có chút muộn màng nhưng dù sao anh cũng đã kịp nhận ra trước sự sai lầm của mình, giúp anh cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng.

   Cuối truyện, nhà văn miêu tả chân dung và hành động của Nhĩ với vẻ không bình thường: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai con mắt long lanh chứa một nỗi say mê đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động đó của Nhĩ thể hiện sự nôn nóng, thức giục con trai hãy mau mau đi đi không lại lỡ mất chuyến đò. Hay đó chính là điều mà tác giả muốn gửi gắm cho chúng ta đừng để mất thời gian vô ích cho những cái “chùng chình”, “vòng vèo” trên đường đời mà hãy hướng tới những giá trị đích thực, giản dị, bền vững quanh ta.

   Trong truyện, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng rất nhiều những hình ảnh, chi tiết mang tính biểu tượng, có sức chứa đựng khái quát về tư tưởng, chủ đề của truyện với hai lớp nghĩa: tả thực và tượng trưng. Mở đầu truyện là hình ảnh thiên nhiên rất đẹp, thơ mộng với bãi bồi bên kia sông Hồng của tiết trời đầu thu trong buổi sớm bình minh. Đó chính là vẻ đẹp đời sống bình dị, thân thuộc, gần gũi quanh ta như bãi bồi, bến sông mà mở rộng ra là quê hương, làng xóm. Những bông hoa bằng lăng cuối mùa còn sót lại trên cành xòe nở ra một màu tím thẫm; tiếng đất đá lở bên bờ sông, những cơn lũ đầu nguồn đổ về lúc gần sáng… có ý nghĩa biểu tượng cho sự sống của Nhĩ rất mong manh, lóe lên rồi vụt tắt trong những ngày cuối cùng của cuộc đời….Hình ảnh đứa con trai sà vào trò chơi phá cờ thế trên dọc đường biểu tượng cho sự “chùng chình”, “vòng vèo” trong cuộc sống mà con người khó có thể tránh khỏi, rứt ra được….

   Có thể nói, với truyện ngắn “Bến quê”, Nguyễn Minh Châu đã sử dựng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thật tinh tế, thấm đượm tinh thần nhân đạo. Nếu như các nhà văn xưa, khi đặt nhân vật trong hoàn cảnh phải đối diện giữa sự sống và cái chết thường hướng tới sức mạnh tinh thần, ý chí nghị lực để vươn lên, chiến thắng nỗi sợ hãi thông thường hay biểu trưng cho sự hi sinh lớn lao, cao cả , thiêng liêng như “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen – ri, “Tình yêu cuộc sống” của Giắc Lân – đơn … thì Nguyễn Minh Châu lại không đi theo cái lối mòn ấy mà lại lựa chọn và xây dựng lên một tình huống khác lạ, độc đáo: đặt nhân vật vào hoàn cảnh sắp từ giã cõi đời để hướng tới sự chiêm nghiệm triết lí về con người và cuộc đời. Bởi khi con người từng trải đang sống nốt những giây phút ít ỏi còn lại của mình thì mới đủ chín chắn và trưởng thành để có thể đưa ra những bài học có tính chất tổng kết một cách sâu sắc về cuộc đời con người được. Cách tư duy đó của nhà văn từ đó cũng giúp cho câu chuyện không chỉ tự nhiên mà còn trở nên thuyết phục, giàu tính nhân văn, nhân đạo hơn. Hay nói cách khác là nhà văn không trực tiếp giao giảng, áp đặt chân lí vào người đọc mà ngược lại thông qua một cuộc đời, một số phận con người để tự rút ra những suy ngẫm của riêng mình nhưng đó lại là suy nghĩ chung, phù hợp với tất cả mọi người. Vì vậy, tuy nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng nhưng đã không bị biến thành “cái loa phát thanh” cứng nhắc cho tác giả mà ngược lại số phận, hoàn cảnh của nhân vật lại là “công cụ” đắc lực hợp tình hợp lí để truyền tải tư tưởng của Nguyễn Minh Châu.

   Tóm lại, truyện ngắn “Bến quê” rất tiêu biểu cho nghệ thuật trần thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu, có sự kết hợp khéo léo giữa tự sự, trữ tình và triết lí. Đồng thời cho thấy tài năng dựng truyện tự nhiên, hợp lí, cách miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo, thể hiện được những suy ngẫm của nhân vật, kết hợp với những hình ảnh, chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng. Từ đó, làm nổi bật tư tưởng, chủ đề mà tác giả gửi gắm. Khép lại “Bến quê” cũng như biết bao nhiêu những trang văn khác của Nguyễn Minh Châu, người đọc nhận ra những điều gửi gắm của nhà văn: con người cần phải nhìn lại mình, cần biết trân trọng những giá trị vững bền, bình dị của gia đình và quê hương mà ta đang có.

Đề bài: Phân tích tác phẩm truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu

Bài văn mẫu

   Nguyễn Minh Châu cây bút tài năng trong làng văn học Việt Nam, ông được mệnh danh là một trong những nhà văn mở đường “tinh anh và tài năng nhất” của Văn học nước ta. Ông trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, các tác phẩm của ông sáng tác sau 1975 thể hiện những quan niệm mới mẻ về nghệ thuật và nhân sinh. Bến quê là một trong những tác phẩm như vậy, tác phẩm được coi là bản di chúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

   Tác phẩm xoay quanh tình huống: Nhĩ là người đã từng đi nhiều nơi trên thế giới, chẳng còn thiếu xó xỉnh nào, vậy mà cuối đời, vì bệnh nặng nên anh phải nằm một chỗ. Nhưng cũng chính trong những ngày cận kề cái chết anh mới bất chợt nhận những vẻ đẹp giản dị, gần gũi vốn quen thuộc nhưng hóa ra lại quá xa vời với anh. Đây tình là tình huống truyện nhận thức vô cùng độc đáo, thể hiện được những suy tư, chiêm nghiệm của nhân vật.

   Câu chuyện hầu hết xoay quanh nhân vật Nhĩ, về tình cảnh, về những mong muốn và suy tư của nhân vật trong những ngày cuối đời. Nhĩ là một người đã đi nhiều nơi, nhưng cuối đời lại có cảnh ngộ hết sức đặt biệt: phải nằm bẹp một chỗ, những sinh hoạt hàng ngày đều do vợ con, hoặc hàng xóm giúp đỡ chăm sóc, việc di chuyển của anh cũng vô cùng khó khăn, chỉ 50cm mà như tưởng chừng như đi được nửa vòng trái đất. Nhưng cũng chính ở hoàn cảnh ấy anh có thời gian tĩnh tâm, cảm nhận và suy ngẫm về cuộc sống về những người quanh mình.

   Một trong những cảm nhận đầu tiên của anh chính là về khung cảnh thiên nhiên quanh mình. Khung cảnh được miêu tả theo cảm nhận của Nhĩ từ xa đến gần, từ thấp đến cao. Trước hết là những cành hoa bằng lăng cuối mùa “những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt” “mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn”; dòng sông hồng “màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra”; hướng mắt ra xa hơn là khung cảnh bầu trời bỗng cũng như rộng thêm, các bãi bồi bên kia sông phô ra màu vàng thau xen lẫn xanh non, ấy là màu của đất đai màu mỡ, màu của sự sống sinh sôi. Khung cảnh thiên nhiên qua con mắt của Nhĩ vừa có chiều rộng lại vừa có chiều sâu, đó là những cảm nhận hết sức tinh tế, phong phú. Những hình ảnh đó thật quen thuộc, thật gẫn gũi mà cũng biết bao xa lạ bởi có lẽ đây là lần đầu tiên Nhĩ cảm nhận thấy hết vẻ đẹp của nó. Nhĩ bỗng nhận ra, biết bao thứ đẹp đẽ, giản dị quanh mình, mà bản thân đã bỏ lỡ từ rất nhiều năm qua.

   Anh không chỉ cảm nhận về sự thay đổi của khung cảnh thiên nhiên, Nhĩ còn phát hiện ra biết bao điều đẹp đẽ, phẩm chất tốt đẹp của người vợ bên mình – chị Liên. Chung sống với nhau biết bao nhiêu năm, nhưng đây là lần đầu tiên anh thấy chị mặc áo vá, nhận ra đôi bàn tay gầy guộc, tần tảo cả một đời lam lũ, vất vả của chị. Cho đến tận bây giờ anh mới cảm nhận được hết nỗi khổ chị phải chịu đựng, tình yêu thương mà chị dành cho anh: “có hề sao đâu … Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này…”. Qua những cử chỉ, hành động của chị, anh càng trân trọng hơn vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn vợ, đồng thời cũng xót xa, ân hận vì những tháng ngày đã bỏ bê vợ con, cũng vì thế mà anh càng yêu chị hơn nữa.

   Trong những ngày này anh cũng cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của tình làng, nghĩa xóm. Đó là những đôi bàn “chua lòm mùi nước dưa”, sự ngộ nghĩnh đáng yêu của những đứa trẻ khi chúng giúp Nhĩ đi nốt nửa vòng trái đất còn lại. Rồi cả cụ giáo Khuyến, sau khi mua báo sáng về thế nào cũng hỏi han tình hình sức khỏe của anh. Đó chính là vẻ đẹp của tình cảm mà bấy lâu nay cuộc sống bộn bề đã che khuất mất. Và anh cũng nhận ra rằng thì ra bến đậu bình yên, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người không phải là những chân trời mới mẻ xa lạ mà chính ngay đây, nơi có tình làng nghĩa xóm “tắt lửa tối đèn” có nhau.

   Đây cũng là lần đầu tiên Nhĩ phát hiện và cảm nhận đầy đủ nhất vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, những suy tư về hình ảnh bãi bồi cũng chính là sự bừng tỉnh của Nhĩ về cuộc sống. “Cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông Hồng lúc này phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen lẫn xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa nhà mình”. Bãi bồi bên kia sông là hiện thân cho những giá trị gia đình, quê hương bền vững, bình dị mà vô cùng sâu sắc của cuộc sống. Nhĩ khao khát được một lần đặt chân lên bãi bồi vốn thân thuộc mà lại xa cách ấy. Nhưng anh lại vấp phải một nghịch lí: anh không còn đủ khả năng và cơ hội để thực hiện mong muốn ấy nữa. Chính trong khoảnh khắc đó anh đã có một đề nghị thật bất ngờ với cậu con trai: hãy sang bờ bên kia sông Hồng. Có lẽ người con trai không hiểu được bởi vậy đã sa vào ván cờ thế ven đường và bỏ lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Anh không trách con trai bởi tuổi trẻ người ta thường bỏ qua những gì đẹp đẽ quanh mình, bỏ qua những giá trị đích thực trong cuộc sống. Xây dựng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu gửi gắm nhiều triết lí, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Nhân vật đã trở thành người cảnh tỉnh đối với mỗi chúng ta, đó là không được sa vào những cái vòng vèo, chùng chình mà phải biết tìm về với nguồn cội, quê hương.

   Ngoài nhân vật Nhĩ chúng ta còn thấy hiện lên một người vợ tảo tần, chịu thương chịu khó là chị Liên. Chị là một người phụ nữ tinh tế, nhạy cảm, rất quan tâm và cảm thông với chồng. Trước những câu hỏi của anh chị chỉ im lặng lảng tránh hoặc nói những lời âu yếm, động viên chồng : “anh cứ yên tâm. Vất vả tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được”; “sang tháng mười nhất định anh đi lại được”. Chị là người giàu đức hi sinh, tảo tần: chị chăm lo cho anh từng miếng ăn, ấm thuốc; tấm áo vá đã bao năm, những ngón tay gầy guộc càng chứng minh rõ hơn sự hi sinh thầm lặng của chị. Đặc biệt những bước châm rất nhẹ, rất êm của chị đã nói lên muôn nỗi vất vả, lòng vị tha , tình yêu thương và đức hi sinh của chị Liên. Chị là biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, bên ngoài vẻ khắc khổ là một tâm hồn bao dung, độ lượng, giàu đức hinh sinh, là bến đỗ an toàn và bình yên trong cuộc đời. Vẻ đẹp của chị cũng như bãi bồi bên kia sông Hồng, trải qua bao bão tố vẫn giữ vẹn nguyên sự ấm áp, chân tình.

   Để tạo nên sự thành công cho tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công tình huống truyện nhận thức đầy tính nghịch lí, để từ đó đưa ra những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời: “con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Nghệ thuật trần thuật qua dòng nội tâm, khắc họa được tính cách, nội tâm phong phú của nhân vật. Ngoài ra hệ thống các hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: bến quê, bãi bồi bên kia sông,… làm tác phẩm sâu sắc, giàu ý nghĩa hơn. Bên cạnh đó ngôn ngữ phong phú, giản dị, giọng điệu thấm đẫm chất suy tư cũng góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm

   Với nghệ thuật xây dựng tình huống hấp dẫn, ngôn ngữ đậm chất suy tư tác phẩm mang đến những thông điệp ý nghĩa, sâu sắc: nhận ra những nghịch lí trong cuộc đời từ đó trân trọng, tìm về với gia đình, quê hương. Trong cuộc đời không tránh khỏi những vòng vèo phải tỉnh táo để tránh được những điều đó tìm đến những giá trị đích thực trong cuộc đời.

Đề bài: Phân tích truyện “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.

Bài văn mẫu

   Truyện Bến quê thấm một nỗi buồn và tình thương khi ta bắt gặp một nhân vật ốm đau bệnh tật nằm liệt giường. Nhĩ là người chồng, người cha, người láng giềng, người bạn bị bệnh đã nặng, không có thể đi lại được nữa, muốn ngồi dậy cũng phải có người nâng đỡ; có lúc anh phải “thu hết tàn lực” mới “lết dần lết dần” ra khỏi phiến nệm nằm, mà anh cảm thấy “như mình vừa bay được một nửa vòng Trái Đất”. Ốm nặng liệt giường đã nhiều tháng ngày, cơ thể anh bị tàn phá nặng nề “phiến lưng đã có nhiều mảng da thịt vừa chai cứng, vừa lở loét”.

   Truyện Bến quê ghi lại những gì nhìn, nghe thấy, những suy ngẫm và mơ ước, những mối quan hệ của Nhĩ khi nằm trên giường bệnh, qua 4 cảnh: Nhĩ được Liên săn sóc; Nhĩ sai thằng Tuấn đi sang bên kia sông; Nhĩ được các cháu nhỏ (Huệ, Vân, Tam, Hùng…) đến nương nhẹ, lót chăn, kê gối cho anh; ông giáo Khuyến chống gậy đi qua tạt vào hỏi thăm Nhĩ.

   Cốt truyện của Bên quê rất bình dị, “bằng phẳng” nhưng lại mang hàm nghĩa triết lí sâu sắc. Qua nhân vật Nhĩ, một bệnh nhân “sắp từ giã cõi đời”, Nguyễn Minh Châu nói lên những suy ngẫm về con người, về cuộc đời và cách sống, thức tỉnh, khơi dậy ở đồng loại hãy biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp, những giá trị bình dị, gần gũi, quen thuộc của cuộc sống, của quê hương.

   Nhĩ là một con người từng trải và có địa vị, đi rộng biết nhiều: “Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên Trái Đất”; “anh đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ… mới 2 năm trước đây, anh còn đi công tác sang một nước bên Mĩ La-tinh. Có thể nói, bao cảnh đẹp những nơi phồn hoa đô hội gần xa, những miếng ngon nơi đất khách quê người, anh đều được thường thức, được hưởng thụ. Nhưng những cảnh đẹp gần gũi, những con người tình nghĩa thân thuộc, thân yêu nơi quê hương cho đến những tháng ngày ốm đau nằm trên giường bệnh khi sắp từ giã cõi đời, anh mới cảm thấy một cách sâu sắc, cảm động.

   Hoa bằng lăng quê kiểng có gì là đẹp? Lúc mới nở “màu sắc đã nhạt nhạt”. Vòm trời và con sông Hồng, bờ bãi, bến đò… có gì xa lạ đối với nhiều người trong chúng ta, nhất là đối với Nhĩ, khi nhà anh ở gần dòng sông ấy. Sớm nay, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ: Anh cảm thấy hoa bằng lăng trong tiết lập thu đẹp hơn, “đậm sắc hơn”. Sông Hồng “màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra”. Bãi bồi phù sa lâu đời ở bên kia sông Hồng dưới những tia nắng sớm đầu thu đang phô ra “một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”. Và bầu trời, vòm trời quê nhà “như cao hơn”.

   Nhìn qua cửa sổ ngôi nhà mình, Nhĩ xúc động trước những cảnh đẹp bình dị của quê nhà. Tại sao trước đây, anh ít nhìn thấy, cảm thấy? Phải chăng vì cuộc sống bận rộn tất tả ngược xuôi? Hay tại bởi vô tình? Qua đoạn miêu tả thiên nhiên ở phần đầu truyện, Nguyễn Minh Châu muốn nhắc khẽ mọi người đừng vô tình mà phải biết gắn bó, trân trọng cảnh vật quê hương xứ sở vì những cái đó là máu thịt, là tâm hồn của mỗi chúng ta. Phải biết phát hiện ra vẻ đẹp bình dị, thân thuộc của quê nhà để nâng niu, yêu quý.

   Bị ốm đau nằm liệt giường đã lâu ngày, được vợ con săn sóc, trong lòng anh nảy nở bao ý nghĩ, bao tình cảm đàm thắm, sâu nặng, thiết tha. Nghe Liên nói: “Anh cứ yên tâm. Vất vả, tốn kém đến bao nhiêu em với các con cũng chăm lo cho anh được”, thì Nhĩ “lần đầu tiên để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá”. Hình ảnh người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh làm cho Nhĩ cảm động, thoáng ân hận về sự vô tình của mình: “Suốt đời anh chi làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh “.

   Chưa bao giờ mà Nhĩ nghe rõ thế, những tiếng bình dị thân thương: tiếng vợ đi lại dọn dẹp và dặn dò con…, Liên hãm nưóc thuốc và tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào nhà, “tiếng bước chân rón rén quen thuộc” của người vợ hiền thảo trên “những bậu gỗ mòn lõm”. Đó là tiếng lòng, tiếng thân thương, không phải lúc nào Nhĩ cũng nghe được, Nhĩ cũng cảm được!

   Tuấn là đứa con trai thứ hai của vợ chồng Nhĩ và Liên. Một năm nay vắng nhà. Tuấn đi học xa, tận một thành phố phía Nam và vừa mới trở về đêm qua. Bố ốm nặng, Tuấn về thăm bố, thăm mẹ và thăm nhà? Nằm trên giường bệnh ngắm con Nhĩ xúc động “thấy càng lớn thằng con anh càng có nhiều nét giông anh”. Nhĩ sai con đi sang bên kia sông “qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh., một lát rồi về”. Với Tuấn thì đó là “cái việc gì lạ thế” mà bố sai làm, khi cậu đang mải mê xem cuốn truyện dịch. Đứa con trai chưa hiểu được “cãi điều ham muốn cuối cùng” của đời bố, mà Nhĩ muốn nói ra. Nhĩ muốn đứa con trai thân thương thay mặt mình đi dạo bước qua sông, để ngắm nhìn những cảnh vật thân quen, bình dị mà hầu như suốt cuộc đời bố đã lãng quên.

   Qua khung cửa sổ ngôi nhà, Nhĩ dõi theo hình bóng đứa con đội cái mũ cói vành rộng, mặc chiếc áo sơ mi màu trứng sáo, cắp cuốn sách bên nách “đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố”. Cái say mê của con bây giờ cũng giống như cái say mê của bố ngày xưa: “Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được”. Nhĩ trầm ngâm suy nghĩ, lo lắng vẩn vơ “Không khéo thằng con trai anh lại trễ mất một chuyến đò trong ngày”. Những trò chơi phá cờ thế, những việc làm vô vị nhạt nhẽo sẽ làm tốn mất bao thời gian, bao tâm trí, bao sức lực… Những trò chơi ấy, viêc làm ấy sẽ làm cho tuổi trẻ của nhiều người “trễ mất chuyến đò trong ngày”, sẽ làm chậm bước, làm lỡ nhịp một thời trai trẻ. Bằng kinh nghiệm xương máu của mình, “Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, và lại nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu?”. Ý nghĩ ấy mang hàm nghĩa một triết lí nhân sinh sâu sắc về đường đời và mục tiêu cuộc sống. Người xưa có nói: “Thế lộ nan” (Lý Bạch), “người ta đi mãi mà thành đường” (Lỗ Tấn) v.v… Con đường trong tâm thức của Nhĩ là “vòng vèo”, là “chùng chình”, vì nhiều người bị lạc đường, lạc hướng, thiếu trí tuệ, không bền chí, hay nản lòng. Tuổi trẻ và thời gian bị lãng phí. Tâm hồn nông cạn, sống thiếu lí tưởng, không có mục tiêu tầm nhìn hạn hẹp, sao không khỏi vòng vèo, chùng chình, và sẽ không bao giờ tin thấy cái “hấp dẫn” ở phía trước trên đường đời.

   Cuộc sống và cảnh vật ở quanh ta, ở quê ta rất đẹp rất đáng yêu, đó là “sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp”, thậm chí cả “những nét tiêu sơ”, nhưng phải trải nghiệm, phải sống hết mình mới có thể khám phá, mới có thể phát hiện, mới tìm thấy. Và còn phải có một tấm lòng gắn bó yêu thương.

   Có người do tài trí, thời cơ, vận may mà thành đạt. Có người sớm phát hiện ra sự lạc hướng, lạc đường mà điều chỉnh, mà khắc phục. Có nhiều người, rất nhiều người đi suốt hành trình cuộc đời mới nhận ra cái vòng vèo, cái chùng chình, sự lạc đường, lạc hướng của mình, nhưng quỹ thời gian đã vung phí, đã gần đất xa trời… Đời người đầy bi kịch, vì thế, một con người như Nhĩ “đã từng in gót chân khắp mọi chân trời”, mãi đến lúc nằm liệt trên giường bệnh, trong những “điều riêng mới khám phá” anh cảm thấy “như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn” mà “lời lẽ không bao giờ giải thích hết”. Cuộc đời là một ẩn số, đường đời là một bài toán khó, nên “không bao giờ giải thích hết”. Thế lộ nan, hành lộ nan là như vậy. Vì thế, phải có trí tuệ, có chí khí, giàu lòng kiên nhẫn, sống có lí tưởng đẹp, mới bớt được rủi ro, mới tránh được vòng vèo, chùng chình, thất bại.

   Những cảm nhận, những suy nghĩ của Nhĩ về Liên thật sâu sắc, đầy ân tình ân nghĩa. Từ một cô gái chân quê “mặc áo nâu chít khăn mỏ quạ” rồi thành “một người đàn bà thị thành “.Thế nhưng “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tào và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa “. Nhĩ đã trải qua những ngày tháng “bôn tẩu, tìm kiếm “, nếm trải bao ngọt bùi, cay đắng, Nhĩ “đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình”, là vợ con mình. Với Nhĩ, gia đình là bến đậu, bến tình thương, bến hạnh phúc.

   Cảnh những đứa trẻ (Huệ, Vân, Tam, Hùng) xinh tươi, ngoan ngoãn, nghe Nhĩ gọi, chúng ríu rít chạy lên, xúm vào, nương nhẹ giúp anh xê dịch từ mép tấm nệm ra mép tấm phản, lấy gối đặt sau lưng Nhĩ, làm cho anh như trẻ lại “toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chăm sóc và chơi với”. Hạnh phúc đâu phải cái gì cao siêu, mà rất bình dị, rất nho nhỏ, có khi chỉ là một ánh mắt, một nụ cười trẻ thơ, một bàn tay nhỏ bé “chua lòm mùi nước dưa”,…

   Hình ảnh ông cụ giáo Khuyến sáng nào đi qua cũng tạt vào thăm Nhĩ là một hình ảnh ân tình ân nghĩa nuôi dưỡng tâm hồn. Một câu hỏi thăm về sức khỏe, một lời an ủi, động viên ân cần: “Hôm nay ông Nhĩ có vẻ khỏe ra nhỉ?”. Còn gì cao quý hơn, ấm áp hơn, tình nghĩa hơn? Được sống trong tình yêu thương của đồng loại mới thật hạnh phúc. Và đó là sắc màu ý vị trong cuộc đời mỗi chúng ta, là “bến quê” của tâm hồn mỗi chúng ta.

   Cụ Khuyến hốt hoảng khi phát hiên ra mặt mũi Nhĩ “đỏ rựng một cách khác thường”, hai mắt thì “long lanh chứa một mê say đầy đau khổ”, và mười đầu ngón tay Nhĩ “đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy”,… Đó là “chút sức lực cuối cùng còn sót lại… “của Nhĩ. Nhĩ sắp ra đi. Con đò chở khách trên sông Hồng cập bến, mang ý nghĩa biểu tượng, con đò sẽ đưa Nhi tới cõi hư không của một kiếp người…

   Bến quê là một truyện ngắn thấm đẫm ý vị triết lí về con người và cuộc đời. Những năm cuối đời, Nguyễn Minh Châu đã trải qua nhiều tháng ngày đau ốm. Bến quê ít nhiều mang tính tự truyện và dự báo nên rất chân thật chân thành. Bài học về tình yêu và lẽ sống được đặt ra một cách cảm động. Có gì hạnh phúc hơn khi được sống trong tình thương với gia đình, quê hương. Phải biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, thân thuộc của cuộc sống, của quê hương. Như thế mới thật sự hạnh phúc. Đó là tiếng lòng trang trải của Nguyễn Minh Châu.

Đề bài: Dàn ý Phân tích nhân vật Nhĩ trong truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu.

Dàn ý mẫu

1, Mở bài:

   – Giới thiệu tác phẩm: Truyện ngắn “Bến quê” thuộc dòng những sáng tác sau 1975 của tác giả Nguyễn Minh Châu, chứa đựng nhiều triết lí sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời.

   – Nhân vật Nhĩ: nhân vật chính trong truyện, thể hiện sự thức tỉnh muộn màng của con người về những vẻ đẹp bình dị trong cuộc sống.

2, Thân bài

a, Hoàn cảnh đối lập giữa quá khứ và hiện tại của nhân vật:

   – Quá khứ: anh Nhĩ đi rộng hiểu nhiều, “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”.

   – Hiện tại: anh bị bệnh liệt giường, nằm một chỗ, cảnh vật duy nhất anh thấy là bãi bồi bên kia sông Hồng nhìn từ cửa sổ nhà mình.

⇒ Tác giả xây dựng một hoàn cảnh nghịch lí, đau đớn, cho thấy sự vô thường của cuộc sống. Nhân vật từng đi nhiều nơi, đam mê khám phá, nhưng hiện tại lại chịu cảnh nằm 1 chỗ. Từ hoàn cảnh ấy, những suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc sống, về tình cảm mới vỡ lẽ trong lòng nhân vật.

b, Những cảm nhận của Nhĩ sau khi bị bệnh:

   – Suy nghĩ về vợ, con:

   + Thấy thương vợ vì luôn lo lắng, chăm sóc cho anh, luôn dịu dàng an ủi anh; thấy đúng đắn khi đã lấy được chị Liên; thấy biết ơn vì chị Liên từ cô gái thôn quê trở thành người đàn bà thành thị nhưng không mất đi những phẩm chất đẹp, tần tảo, chịu khó, yêu thương chăm sóc chồng con.

   + Qua hình ảnh con trai nhớ về thời niên thiếu của bản thân: mê cờ thế; mong ngóng, hi vọng con trai đừng như anh, ham mê những vẻ đẹp hào nhoáng mà quên đi những giá trị đích thực của cuộc sống.

   – Tình cảm với hàng xóm

   + Yêu mến những đứa trẻ bầu bạn với anh, giúp nâng đỡ anh ngồi dậy, nằm xuống.

   + Trò chuyện cùng cụ giáo Khuyến, người ngày nào cũng sang hỏi thăm sức khỏe anh

   – Những suy nghĩ về vẻ đẹp đích thực của cuộc sống:

   + Vẻ đẹp của quê hương: hoa bằng lăng “đậm sắc hơn”, sông Hồng “màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra”, bãi bồi bên kia sông trông như “một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non…”, bầu trời “như cao hơn”. Tất cả đều tươi đẹp trong tiết trời mùa thu.

   + Nhĩ khao khát được đặt chân sang bãi bồi bên kia sông để ngắm nhìn cho thỏa thích vẻ đẹp quê hương.

⇒ Nhân vật xúc động trước vẻ đẹp của quê hương mà trước đây anh ta không quan tâm tới, vô tình quên lãng vẻ đẹp hồn hậu, bình dị đó để mải mê chạy theo những vẻ đẹp hào nhoáng, phồn hoa khác.

c, Những triết lí được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật Nhĩ:

   – Nơi nương tựa của con người chính là gia đình.

   – Những người hàng xóm bấy lâu ta không mấy quan tâm, thì khi ta gặp nạn họ luôn ở bên: khẳng định thêm quan niệm “Bán anh em xa mua láng giềng gần” của ông cha ta, khẳng định giá trị của tình người, tình làng nghĩa xóm.

   – “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái vòng vèo quanh co”: triết luận về cuộc đời, khi còn trẻ ai cũng mải miết theo đuổi đam mê, công danh mà có thể quên đi những giá trị đích thực như gia đình, quê hương; có thể vì những thú vui mà làm sao nhãng đi mục đích của cuộc sống phấn đấu.

3, Kết bài:

   – Thông qua nhân vật Nhĩ, tác giả nhắc nhở người đọc phải biết gắn bó, trân trọng những cảnh vật quê hương, những tình cảm gần gũi như tình gia đình, tình làng nghĩa xóm, đó mới là những giá trị đích thực của cuộc sống.

   – Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: chú trọng khắc họa nội tâm nhân vật, thể hiện những suy nghĩ, sự giác ngộ muộn màng của nhân vật.

Đề bài: Phân tích nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.

Bài văn mẫu

   Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là một trong số những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Cách sáng tác trước năm 1975 của ông là những bức tranh hiện thực sinh động về con người và cuộc sống của nhân dân ta trong những năm chống Mĩ cứu nước. Với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn huyền ảo, những trang văn của Nguyễn Minh Châu đã từng tạo nên vẻ đẹp rực rỡ trong các tác phẩm như: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Dấu chân người lính”, “Cửa sông”… Những năm sau 1975, ông là nhà văn sớm nhất có sự trăn trở, khao khát đổi mới văn học, bởi ông coi “văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Vì thế, từ khuynh hướng sử thi lãng mạn – “sự kiện lấn át con người”, ông chuyển sang đề tài “thế sự đời tư” (cuộc sống đời thường) với tính triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá bản chất con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983) và “Bến quê” (1985)với những bài tiểu luận phê bình văn học đã đưa Nguyễn Minh Châu lên vị trí “người mở đường tinh anh và tài năng” của văn học nước ta sau 1975. Đoạn trích “Bến quê” in trong tập truyện cùng tên của nhà văn, xuất bản năm 1985, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ “thế sự đời tư” ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp cho nhà văn nhận ra những quy luật mang đầy tính nghịch lí, mâu thuẫn khó có thể lường hết được trong cuộc sống này. Điều đó đã được tác giả thể hiện qua việc khắc họa hình tượng nhân vật Nhĩ – một nhân vật tư tưởng gắn liền với những suy ngẫm, chiêm nghiệm triết lí về con người và cuộc đời.

   Truyện được kể theo ngôi thứ ba nhưng toàn bộ diễn biến câu chuyện được nhìn qua lăng kính tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật Nhĩ với một hoàn cảnh đặc biệt: sắp giã từ cuộc đời. Từ đó, giúp cho câu chuyện trở nên chân thực, sinh động, đồng thời toàn bộ tư tưởng, chủ đề của truyện được truyền tải một cách dễ dàng, tự nhiên, gần gũi và sâu sắc.

   Nhĩ – một con người đã từng chu du đi khắp nơi trên trái đất với bất kể xó xỉnh nào anh cũng đã từng đặt chân tới nhưng đến phút giây cuối đời anh lại phải cột chặt thân mình bên giường bệnh. Và khi phải bó mình trên chiếc giường chật hẹp, không đi lại được anh mới chợt nhận ra vẻ đẹp giàu có của bãi bồi bên kia sông Hồng – nơi mà anh chưa từng đặt chân đến và vẻ đẹp tâm hồn của người vợ nhưng tiếc thay đã quá muộn màng.

   Trước hết câu chuyện mở ra với những cảm nhận thật tinh tế của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên, nơi bãi bồi bên kia sông vào buổi sáng sớm đầu thu. Khung cảnh được tạo dựng trong cái nhìn từ gần tới xa, từ thấp tới cao, từ mặt đất lên bầu trời của Nhĩ, rất đẹp, bình yên, thơ mộng, mang đậm hơi thở của làng cảnh quê hương. Cảnh như chất chứa, thấm thía cảm xúc, tâm trạng của con người nhân vật. Những bông hoa bằng lăng cuối mùa còn sót lại trên cành trở nên đậm sắc hơn; con sông Hồng như nhuốm một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng ra thêm; vòm trời cũng như cao hơn với những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bên kia sông. Và tất cả như “đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt hơi thở của đất màu mỡ”. Không gian cảnh quê ấy với Nhĩ sao mà vừa thân thương, quen thuộc lại vừa lạ lẫm, mới mẻ đến vậy. Vẻ đẹp ấy ngày nào chẳng có, vẫn luôn thường trực quanh anh nhưng sao bây giờ sắp phải rời xa nó mãi mãi anh mới chợt nhận ra sự giàu có trù phú mĩ lệ của miền đất ấy. Vì thế, trong lòng Nhĩ dâng lên một niềm xót xa, pha lẫn sự nuối tiếc, ân hận: “từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất” nhưng ” chưa hề bao giờ đi đến cái bờ bên kia sông Hồng, ngay trước cửa sổ nhà mình”. Vì thế trong lòng anh rực lên một niềm khát khao cháy bỏng muốn được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông Hồng để chiêm ngưỡng và tận hưởng vẻ đẹp bình dị và gần gũi ấy. Nhưng tiếc thay, niềm hi vọng đó song hành cùng sự tuyệt vọng, bởi trong tình cảnh bệnh tật của bản thân, giờ đây anh không thể thực hiện được ước muốn tưởng chừng nhỏ bé, giản đơn đó nữa. Đây chính là sự thức tỉnh những giá trị bền vững, bình dị nhưng vô cùng sâu sa trong cuộc sống, những giá trị thường bị con người lãng quên, nhất là khi còn trẻ trước những ham muốn, khát vọng lôi cuốn. Sự thức này chỉ đến với những con người từng trải, đến với Nhĩ khi mà anh đang sắp giã từ cuộc đời này để trở về cõi hư vô. Cho nên, Nhĩ cảm thấy ân hận, xót xa: “Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận, đau đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích hết…”.

   Do không thể trực tiếp thực hiện được khát vọng đi tới “miền đất mơ ước” ấy nên Nhĩ đã nhờ vả đứa con trai thay mình đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Nhưng cậu bé đã không hiểu được ý cha nên nó chịu đi một cách miễn cưỡng và rồi bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế bên dọc đường, có thể làm lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Anh nhớ lại thời trai trẻ của mình cũng ham chơi như thế, vả lại nó cũng chưa nhận ra sự hấp dẫn bên kia sông, nên anh không trách cậu bé. Từ đó, anh rút ra một triết lí có tính chất tổng kết, chiêm nghiệm về qui luật của cuộc đời con người: “Con người ta trên đường đời khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình”.

   Trong lúc cậu con trai của anh bắt đầu ra đi thực hiện ước mơ của mình thì cũng là khi anh dùng chút tàn lực cuối cùng còn sót lại xê mình ra khỏi tấm nệm, lên chiếc phản gỗ để tới gần bên cửa sổ nhiều hơn. Việc làm ấy khiến anh “mệt lử”, “đau nhức” như vừa đi “được nửa vòng trái đất”. Còn nửa vòng nữa, anh buộc lòng phải nhờ cậy mấy bọn trẻ con hàng xóm giúp đỡ. Và anh cảm thấy mình thật buồn cười, y như một đứa trẻ toét miệng cười khi đang được tận hưởng sự chăm sóc và chơi với. Đến bên cửa sổ, Nhĩ nhìn thấy xa xa một cánh buồn trên mặt sông. Anh cảm tưởng như chính mình trong tấm áo màu xanh trứng sáo hay chiếc mũ nan rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dính phù sa. Nhĩ xúc động: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai con mắt long lanh chứa một nỗi say mê đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động đó của Nhĩ thể hiện sự nôn nóng, thức giục con trai hãy mau mau đi đi không lại lỡ mất chuyến đò. Hay đó chính là điều mà tác giả muốn gửi gắm cho chúng ta đừng để mất thời gian vô ích cho những cái “chùng chình”, “vòng vèo” trên đường đời mà hãy hướng tới những giá trị đích thực, giản dị, bền vững quanh ta.

   Bằng ngòi bút đào sâu đến tận cùng cái thật chứa đầy bí ẩn, với tư tưởng “đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”, Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công vẻ đẹp trong sáng, dịu dàng của người phụ nữ giàu lòng yêu thương, đức hi sinh, tận tụy vì chồng, vì con của một người vợ, người mẹ. Đó chính là Liên (vợ Nhĩ). Tất cả điều này đã được Nhĩ cảm nhận trong những giầy phút cuối cùng của cuộc đời khi bên cạnh gia đình, trong vòng tay chăm sóc, vỗ về, động viên của vợ con. Lần đầu tiên Nhĩ mới để ý thấy Liên mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai của anh và Nhĩ chợt nhận ra tình yêu thương, sự tần tảo cùng sự hi sinh một cách thầm lặng của vợ. Anh đã nói với Liên: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm mà em vẫn nín thinh”. Và Liên đáp lại câu trả lời ấy: “Có hề sao đâu, miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian phòng này”. Và thực sự giờ đây, Nhĩ mới thấm thía hết được vẻ đẹp tâm hồn đó của Liên với lòng biết ơn sâu nặng: “Cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia sông, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa và cũng nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”. Nhĩ một con người của thời đại mới chỉ biết chạy theo những ước vọng xa vời mà lãng quên đi những vẻ đẹp bình dị, thân quen mà mình đang có. Để rồi khi vấp ngã, khi phải sắp chia xa với cuộc sống này vĩnh viễn thì anh mới chịu nhận ra quê hương, gia đình, người vợ mới là bến đậu, là nơi nương tựa bình yên và vững chắc nhất cho con người sau hành trình đi xa trở về. Mặc dù nhận thức của Nhĩ dẫu có chút muộn màng nhưng dù sao anh cũng đã kịp nhận ra trước sự sai lầm của mình, giúp anh cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng hơn.

   Nhân vật Nhĩ là kiểu nhân vật tư tưởng, chứa đựng ý đồ sáng tác nghệ thuật của nhà văn. Tuy nhiên nhân vật không phải là “cái loa phát thanh” của nhà văn mà Nguyễn Minh Châu đã khéo léo dựng lên một cuộc đời, một số phận với một hoàn cảnh éo le, nghịch lí. Để rồi, nhân vật tự đúc rút, chiêm nhiệm ra những chân lí, bài học có tính tổng kết về con người và cuộc đời. Qua đó, ta thấy được tài năng dựng truyện, khắc họa miêu tả tâm lí nhân vật và nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu thật tài tình, độc đáo. Khép lại “Bến quê”, hình ảnh nhân vật Nhĩ cứ lần lượt hiện lên với biết bao nhiêu những bài học triết lí sâu sắc giàu tính nhân văn của cuộc sống con người. Từ đó, ta càng thấm thía hơn và biết trân trọng hơn những giá trị vững bền, bình dị, gần gũi quanh ta như gia đình, quê hương.

Đề bài: Phân tích nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu.

Bài văn mẫu

   Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Những tác phẩm của ông thiên về chiêm nghiệm, triết lí về cuộc đời. Bến quê thể hiện rất rõ đặc trưng phong cách đó của ông. Với tình huống truyện nhận thức đã giúp tác giả thể hiện những suy nghĩ, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh ở mọi người cần trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình của quê hương. Những suy tư, trải nghiệm đó được thể hiện rõ nét qua nhân vật Nhĩ, cũng là nhân vật chính trong tác phẩm.

   Trước hết về hoàn cảnh sống của Nhĩ, cuộc sống hiện tại của anh hết sức đáng thương. Anh ở trong một căn hộ tập thể chật hẹp trên tầng hai. Cuộc sống có phần nghèo túng vất vả thể hiện rõ nhất qua chiếc áo vá, đôi tay gầy guộc của người vợ. Càng đáng thương hơn khi anh vốn là người không bỏ sót “một xó xỉnh nào trên trái đất” nay lại phải nằm liệt giường, bất cứ hoạt động nào cũng cần có sự trợ giúp của những người xung quanh. Ốm yếu bệnh tật bủa vây lấy anh: những mảng da sau lưng lở loét, da mặt đỏ dựng lên, ngồi dậy một chút đã thấy nhọc,… Dường như trong chính bản thân anh cũng cảm nhận được sức khỏe của mình ngày một đi xuống. Tuy thuốc thang ngày nào cũng uống nhưng anh thấy bệnh tình vẫn không thuyên giảm, nhấc mình ra khỏi chỗ ngồi anh có cảm tưởng như vừa bay được nửa vòng trái đất; rồi cả đêm qua những tiếng đất lở của bên kia sông “cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ òa vào giấc ngủ” khiến anh hoảng hốt hỏi vợ “hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ”. Sức khỏe ngày một đi xuống nhưng tinh thần anh lại tỉnh táo hơn bao giờ hết, bởi vậy, dù những lời động viên của vợ “sang tháng mười, nhất định anh đi lại được” cũng chẳng thể làm anh an lòng, bởi anh hiểu rõ nhất cơ thể mình ra sao.

   Nhĩ là người có tâm hồn nhạy cảm, giàu trải nghiệm nên suy nghĩ thâm trầm, sâu xa và triết lí. Trái tim nhạy cảm được thể hiện trong chính những cảm nhận của anh về vẻ đẹp quê hương, về bãi bồi bên kia sông. Những bông hoa bằng lăng đã nhạt màu vì vào cuối mùa, nhưng những cánh hoa còn sót lại dường như lại sẫm màu hơn, thứ ánh nắng chói lóa của mùa hè đã biến mất; con sông Hồng màu đỏ nhạt, “lòng sông như rộng thêm ra”, di chuyển điểm nhìn lên cao Nhĩ nhận thấy bầu trời cũng cao và rộng ra hơn. Trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, anh đem tất cả các giác quan để cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn vẻ đẹp của quê hương. Và để hoàn chỉnh bức tranh quê hương anh còn nhận thấy vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông, tưởng gần mà hóa ra đến cuối cuộc đời anh mới nhận ra vẻ đẹp bình dị ấy: “sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của màu đất mỡ”. Thiên nhiên dưới con mắt tinh tế của Nhĩ hiện lên thật đầy đủ, thật rõ nét mà cũng hết sức đẹp đẽ, nên thơ. Cảnh vừa có bề rộng, vừa có bề sâu. Đó là những hình ảnh vốn quen thuộc, gần gũi nhưng giờ đây bỗng trở nên đặc biệt bởi lần đầu tiên Nhĩ cảm nhận được vẻ đẹp của nó. Nó nhắc nhở Nhĩ về những điều quý giá mà anh đã bỏ qua bấy lâu nay.

   Trong những ngày trên giường bệnh anh còn hiểu ra và trân trọng người vợ luôn bên cạnh mình; anh thêm yêu những người hàng xóm thân thiện, luôn bên hỏi han, giúp đỡ anh. Chị Liên là người vợ tảo tần, luôn yêu thương và quan tâm đến anh. Những ngày anh bị bệnh chị luôn tìm cách động viên “sang tháng mười, nhất định anh đi lại được”; chị tinh tế tránh những câu hỏi của anh để làm Nhĩ bớt lo lắng. Anh còn nhận thấy sự khổ cực vất vả trên người phụ nữ của mình: chiếc áo vá, đôi bàn tay gầy guộc, anh càng thương và cảm thấy có lỗi: “suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm … mà em vẫn nín thinh”. Tất cả những điều ấy càng làm anh thêm hiểu yêu và trân trọng hơn người vợ của mình. Không chỉ vậy, anh còn nhận ra vẻ đẹp của tình làng nghĩa xóm, mùi mồ hôi chua lòm của lũ trẻ, sự quan tâm hỏi han của bác hàng xóm không khỏi làm anh xúc động. Cái bến quê bình dị, đẹp đẽ ấy chính là nơi mà con người ta phải đến cuối đời mới hiểu, mới thấu hết giá trị và ý nghĩa của nó.

   Sự sâu sắc, thâm trầm trong anh còn được thể hiện trong ước nguyện giản dị mà có phần kì cục theo ý nghĩ của người con trai đó là sang được cái bờ bên kia của một khúc sông Hồng. Dưới mắt Nhĩ đó là bến quê, hay rộng ra đó chính là chân trời mà cả cuộc đời anh chưa một lần khám phá. Nhưng mơ ước của anh lại vấp phải nghịch lí, anh không thể di chuyển đi đâu khỏi chiếc giường này, anh đặt hết hi vọng vào đứa con trai của mình: “Bây giờ con sang bên kia sông hộ bố…” “Chẳng để làm gì cả. Con hãy qua đò đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về …”. Người con làm sao có thể hiểu được những ước mong, suy nghĩ của anh, bởi vậy đáp lại cậu con trai miễn cưỡng cầm mấy đồng tiền lẻ rồi đi. Phát hiện ra vẻ đẹp ở bên kia sông nhưng lại không thể đặt chân sang, anh đặt hết hi vọng vào con nhưng Tuấn lại làm chẳng mấy hào hứng, thấm chí lơ đễnh, sa vào ván cờ thế ven đường, để lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Trong nỗi tuyệt vọng xen lẫn xót xa, Nhĩ đâm ra hoang tưởng, nghĩ chính bản thân mình trên con đò sang sông với “tấm áo màu xanh trứng sáo và chiếc mũ nan rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa”. Đó là miền đất anh mơ ước, miền đất ấy cũng gợi ra trong Nhĩ biết bao suy nghĩ về cuộc đời. Nơi đẹp đẽ nhất trên thế giới này chính là bến quê thân thuộc, vẻ đẹp không lung linh, rực rỡ, thậm chí có nét tiêu điều, nhưng ấy là nơi đẹp nhất mà người ta phải đi qua rất nhiều nơi mới nhận ra vẻ đẹp khuất lấp ấy. Trên đường đời có rất nhiều biến cố, chùng chình, vòng vèo chúng ta phải tính tảo để nhận ra và tránh khỏi những vòng vèo đó để đến với những giá trị bền vững, đích thực trong cuộc sống.

   Nghệ thuật xây dựng nhật vật đặc sắc, đi sâu vào diễn biến tâm lí, nội tâm nhân vật từ đó đưa ra những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời. Nhân vật Nhĩ chính là hóa thân của tác giả nên giọng điệu của văn bản như những lời tự thoại, nhờ đó mà tác phẩm trở nên chân thực và có chiều sâu hơn. Ngoài ra cũng cần nói đến nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, chứa nhiều nghịch lí giúp nhân vật thể hiện được những suy nghĩ, chiêm nghiệm của mình.

   Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Nhĩ, một nhân vật tư tưởng để gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Nhân vật này đã trở thành một lời cảnh tính đối với mỗi chúng ta, đó là không được sa vào những cái vòng vèo, chùng chình mà phải biết tìm về với bến quê, trân trọng và nâng niu những vẻ đẹp giản dị, gần gũi đó.

Đề bài: Phân tích nhân vật Nhĩ trong truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu.

Bài văn mẫu

    Nguyễn Minh Châu một trong những nghệ sĩ đổi mới âm thầm mà quyết liệt nhất của văn học Việt Nam sau năm 1986. Bởi vậy ông được đánh giá là người mở đường tinh anh và tài hoa của văn học nước nhà. Cả cuộc đời ông là hành trình khám phá, tìm tòi không ngừng nghỉ trong việc đổi mới cách viết. Bến quê chính là một trong những tác phẩm như vậy. Với nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những triết lí sâu sắc của con người, của cuộc đời.

    Cuộc đời, số phận của nhân vật này được tác giả dựng lên bằng hàng loạt các nghịch lí, và cũng từ chính những nghịch lí đó, Nhĩ đã nhận ra, đã chiêm nghiệm biết bao điều trong cuộc sống mà bấy lâu nay anh vô tình hoặc cố ý lãng quên. Cái hay của tác phẩm chính là ở chỗ đó.

    Nghịch lí thứ nhất trong cuộc đời Nhĩ đó là cả đời di chuyển khắp nơi, không thiếu một xó xỉnh nào trên thế giới, ấy vậy mà những ngày cuối cùng của cuộc đời anh lại phải chôn chân giữa một tấm phản, mọi sự di chuyển đều khó khăn và phải nhờ đến sự giúp đỡ của người khác. Anh đi khắp mọi nơi nhưng cái bãi bồi bên kia sống Hồng, ngay trước mặt anh, anh lại chưa một lần đặt chân đến. Đây chính là một ngịch lí vô cùng đáng buồn. Người vợ tảo tần, những đứa trẻ hàng xóm đáng yêu, vậy mà bấy lâu nay anh bỏ bê vô tình hay cố ý lãng quên mất. Chỉ đến thời khắc ấy, khi bình tâm, anh mới nhận ra tất cả vẻ đẹp vốn có trong họ, để rồi xót xa, tiếc nuối về những gì đã qua. Đặt nhân vật vào một chuỗi những nghịch lí để rồi từ đó giúp Nhĩ nhận ra những gì mình đã bỏ lỡ, những giá trị đích thức của cuộc sống. Đồng thời cũng gửi gắm đến bạn đọc thông điệp: trong bước đường đời khó tránh khỏi những vòng vèo, chùng chính, chúng ta cần tỉnh tảo để nhận thấy và trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.

    Nhĩ nằm đó trong những nỗi rối bời của cảm xúc, suy tư để rồi tự sám hối, tự nhận thức. Nhận thức đầu tiên chính là cảm xúc về khung cảnh thiên nhiên. Anh nhận ra những bông bằng lăng cuối mùa đã đậm sắc hơn, dòng sông Hồng mang màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra, và xa xa là cánh buồm màu nâu bạc,… Mọi thứ đã phô diễn trước khung cửa nhà anh, “màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”. Một chân trời ần gũi đến vậy, nhưng đối với Nhĩ “lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình”. Có chăng đây chính là những tâm tư của con người đã từ đi đến bốn phương, nhưng phương quê nhà lại vô tình lãng quên. Đây cũng chính là những cái chùng chình, vòng vèo mà Nhĩ gặp phải trong cuộc sống, bởi vậy, trong giờ phút ngắn ngủi cuối đời anh càng cảm thấy tiếc nuối, xót xa hơn.

    Sau những chiêm nghiệm về thiên nhiên, Nhĩ hướng mắt về người vợ suốt một đời của mình – chị Liên. Anh thấy ở chị đức tính dịu dàng, chu đáo, một đức hi sinh thầm lặng. Chiếc áo vá chị đã mặc biết bao năm, đôi tay gầy guộc, cư xử tinh tế để không khiến chồng lo lắng. Và Nhĩ chợt nhận ra sự nghiệt ngã của thời gian đối với mình, cả đời anh không quan tâm đến vợ con nhưng đến những ngày cơ cực, vợ anh vẫn tảo tần ở bên, Nhĩ cay đăng thốt lên: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm … mà em vẫn nín thinh”. Cho đến cuối đời Nhĩ mới nhận ra được cái đẹp trong tâm hồn vợ : cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này. Nhưng mọi sự ân hận của Nhĩ dường như đã quá muộn màng. Những ngày tháng dài rộng anh lại chẳng thể ở bên, đến khi nhận ra thì đã bước sang cái dốc bên kia của cuộc đời.

    Từ những cảm nhận về thiên nhiên và vợ, Nhĩ nhận thấy vẻ đẹp muôn thuở của quê hương: “Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất” đã thức dậy trong anh khao khát mãnh liệt được sang bãi bồi bên kia sông. Nơi tưởng gần mà đối với anh đã xa lắc, bởi vậy anh đã gửi gắm nguyện ước đó vào người con trai mới lớn của mình. Nhưng Tuấn – con trai anh, lại không hiểu cái thế giới mơ ước của cha, không hiểu được cái đẹp trong nét tiêu sơ ấy mà đã sa vào một ván cờ thế ven đường. Những hành động của Tuấn cũng chính là hình ảnh phản chiếu của Nhĩ thuở nào. Anh chẳng thể trách con, bởi chính bản thân mình cũng đã không tránh được những cái vòng vèo, chùng chình cuộc đời, để rồi cuối cùng chỉ còn mang nặng nỗi tiếc nuối trong tâm hồn.

    Nhưng có lẽ hình ảnh ấn tượng và in dấu ấn đậm nét nhất trong lòng người đọc là khi Nhĩ có cử chỉ khác thường lúc nhìn thấy con thuyền duy nhất trong ngày từ từ đi sang sông. Anh bám chặt tay vào cửa sổ, đôi mắt long lạnh sáng một cách khác thường, anh run lên vừa say mê vừa đau khổ, cố bám víu niềm hạnh phúc cuối cùng của mình. Bằng chút sức lực tàn cuối cùng anh “đu mình, nhô người ra ngoài cửa sổ” như để với tới gần hơn miền đất đẽ đẹp trong mơ ước của mình. Cánh tay anh khoát khoát với con thuyền có lẽ cũng chính là lời tạ từ cuối cùng anh dành cho quê hương, tạm biệt mơ ước cả đời anh không thể thực hiện, tạm biệt với những gì thân thương, gần gũi nhất trong cuộc đời anh. Hành động cuối cùng của anh cũng chính là lời nhắc nhở, lời cảnh tỉnh đối với tất cả mọi người, hãy sống một cuộc đời có ích, hướng đến những giá rị đích thực của cuộc sống, đừng theo đuổi những điều xa vời, mà hãy trân trọng những tình cảm đẹp đẽ tồn tại xung quanh ta.

    Với nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật tài tình, Nguyễn Minh Châu đã làm sắc nét chiều sâu tâm lí nhân vật. Qua đó làm toát lên những suy nghĩ, chiêm nghiệm về con người và cuộc đời. Để từ đó gửi gắm đến bạn đọc những bài học ý nghĩa của cuộc sống.

Đề bài: Phân tích nhân vật Nhĩ trong truyện “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.

Bài văn mẫu

   Nội dung tư tưởng của “Bến quê” được thể hiện qua những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ.

   Trước hết là cảm nhận của Nhĩ về vẻ đẹp thiên nhiên trong một buổi sáng đầu thu, được nhìn từ khung cửa sổ của căn phòng mình.

   Cảnh vật được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ, từ gần đến xa, tạo thành một không gian có chiều sâu, chiều rộng.

   Cảnh đó có những vẻ đẹp riêng mà được cảm nhận bằng những cảm xúc tinh tế. Những chùm hoa bằng lăng thưa thớt nhưng lại đậm sắc hơn, con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra, vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ như một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”. Không gian và những cảnh sắc ấy vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng lại rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng chừng như lần đầu tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.

   Từ cảnh vật, hoàn cảnh của mình Nhĩ đã phát hiện quy luật giống như một nghịch lý của đời người.

   Hoàn cảnh của Nhĩ bệnh tật hiểm nghèo kéo dài, mọi sự phải trông cậy vào sự chăm sóc của vợ con. Trong cái buổi sáng đó, Nhĩ đã nhận ra như bằng trực giác, thời gian của mình như chẳng còn bao lâu nữa (chú ý những chi tiết: câu hỏi của Nhĩ với Liên: “Đêm qua lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không?” và “Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?”, còn Liên thì hầu như cũng đã cảm nhận được tình cảm ấy của Nhĩ, nên chị lảng tránh trả lời những câu hỏi của anh).

   Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai của anh, và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ (Nhĩ nói với Liên: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm … mà em vẫn nín thinh”, còn Liên đã trả lời: “Có hề sao đâu … Miễn là anh sống, luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong nhà này”. Chính trong những ngày cuối đời, Nhĩ mới thật sự thấu hiểu lòng biết ơn sâu sắc với người vợ: “cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên nét tảo tần và chịu đựng hi sinh từ bao thời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm … Nhĩ đã thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này”.

   Chính vào buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra tất cả vẻ đẹp của cảnh vật rất đỗi bình dị và gần gũi qua ô cửa sổ căn phòng, đồng thời cũng hiểu rằng mình sắp phải giã biệt cõi đời, ở Nhĩ bừng dậy một niềm khao khát vô vọng là được đặt chân một lần lên bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống – những giá trị thường bị người ta bỏ qua, lãng quên, nhất là lúc còn trẻ, khi những ham muốn xa vời đang luôi cuốn con người tìm đến. Sự thức nhận này chỉ đến được với người ta ở cái độ đã từng trải, bởi thế đó là sự thức tỉnh có xen với niềm ân hận và nỗi xót xa “Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân sắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia”.

   Không thể nào làm được cái điều mình khao khát, Nhĩ đã nhờ đứa con trai thay mình đi sang bên kia sông, đặt chân lên cái bãi bồi phù sa màu mỡ. Nhưng ở đây anh lại gặp một nghịch lý nữa: Đứa con không hiểu được ước uốn của cha, nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi nó hấp dẫn nó gặp ngay trên đường đi, để rồi có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Từ sự việc ấy, Nhĩ đã nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời người “con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Anh không trách đứa con trai bở vì “vả lại nó đã thấy gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu”.

   Ở cuối truyện, khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi đất bên này sông, Nhĩ đã thu hết tàn lực dồn vào một cử chỉ có vẻ kỳ quặc “Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát – y nhưng đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”. Hành động cuối cùng này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhưng hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát đó. Đó là ý muốn thức tỉnh mọi đường đời, để dứt khoát khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.

   Nhân vật Nhĩ trong truyện là nhân vật tư tưởng, một loại nhân vật nổi lên trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975. Nhà văn đã gửi gắm qua nhân vật nhiều điểm quan sát, suy ngẫm, triết lý về cuộc đời con người. Nhưng nhân vật không bị biến thành cái loa phát ngôn cho tác giả. Những chiêm nghiệm, triết lý đã được chuyển hóa vào cuộc sống nội tâm của nhân vật, với diễn biến của tâm trạng dưới sự tác động của hoàn cảnh được miêu tả tinh tế, hợp lý.

Đề bài: Giới thiệu một vài nét về Nguyễn Minh Châu, về xuất xứ và chủ đề truyện “Bến quê

Bài văn mẫu

   Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) quê ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là nhà văn Quân đội, từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. “Dấu chân người lính” (tiểu thuyết), “Những vùng trời khác nhau” (tập truyện ngắn) được xem là những bài ca chiến trận thấm đượm chất sử thi và màu sắc lãng mạn.

   Sau năm 1975, các tác phẩm: “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Bến quê” “Cỏ lau” là những thành công về tìm tòi đổi mới trong tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Thân phận, số phận con người, những mơ ước bình dị, cuộc sống quanh ta, những vui buồn, ánh sáng và bóng đen, v.v… được ông nói đến với bao khơi gợi, rất nhân bản, đầy tình người. Trang văn Nguyễn Minh Châu giàu ý vị triết lí và đa nghĩa.

   Truyện ngắn “Bến quê'” in trong tập truyện cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985.

   Qua nhân vật Nhĩ, một người từng trải đang ốm nặng, sắp lìa đời, tác giả gửi gắm bao suy ngẫm cảm động về con người về cuộc đời, thức tỉnh lương tri đồng loại không nên sống dửng dưng, hờ hững mà phải biết trân trọng những vẻ đẹp và giá trị thân thuộc bình dị của cuộc sống, của gia đình và quê hương.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 4 / 5. Số lượt đánh giá: 973

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống