Xem toàn bộ tài liệu Lớp 9: tại đây
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 9 tập 1
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 9 tập 2
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 9
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 9 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 9 (Cực Ngắn)
- Giải Vở Bài Tập Ngữ Văn Lớp 9
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 9 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 9 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 9 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 9 Tập 2
Đề bài: Giới thiệu một vài nét về tác giả, xuất xứ, chủ đề bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm
Bài văn mẫu
1. Nguyễn Khoa.Điềm sinh năm 1943, quê ở Phong Điền, thuộc Thừa Thiên – Huế. Thời chống Mĩ cứu nước, ông sống và chiến đấu tại chiến trường Trị – Thiên.
Là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Tác phẩm thơ: “Đất ngoại ô”, “Mặt đường khát vọng”, … Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, ngôn từ bình dị, sử dụng sáng tạo các yếu tố văn học dân gian, tạo nên chất thơ dung dị, đậm đà:
"Đất là nơi Chim về, Nước là nơi Rồng ở, " Lạc Long Quán và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng..."
2. Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào năm 1979 tạí chiến trường Trị – Thiên, thời đánh Mĩ.
3. Bài thơ ca ngợi tấm lòng đôn hậu, dạt dào tình thương của bà mẹ Tà Ôi: tình thương con gắn liền với tình yêu nước, yêu bộ đội, yêu bà con làng bản quê hương.
Đề bài: Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm.
Bài văn mẫu
Viết về bà mẹ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ độc đáo và rất hay. Nó đã được phổ nhạc thành ca khúc từng làm rung động hàng triệu trái tim.
Bà mẹ được nói đến là bà mẹ người Tà-ôi có một tình thương mênh mông: thương con, thương làng đói, thương bộ đội, thương đất nước. Bài thơ có 3 khúc ca được sáng tạo theo âm điệu dân ca, điệu ru con của đồng bào Tà-ôi trên miền núi Trị Thiên. Mở đầu mỗi khúc ca là một điệp khúc ngọt ngào tha thiết:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi! Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ...
Có lúc như vỗ về yêu thương. Tình mẹ hay tấm lòng nhà thơ:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi...
Khúc ca thứ nhất là tiếng ru khi mẹ địu con giã gạo
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.
Tiếng ru con “nghiêng” theo nhịp chày làm cho giấc ngủ em cu Tai cũng “nghiêng” theo. Con như đang chia sẻ sự vất vả của mẹ. Má em cũng “nóng hổi” vì bao mồ hôi mẹ tuôn rơi. Hàng loạt hình ảnh hoán dụ (mồ hôi, má, vai, lưng, tim) được sử dụng rất “đắt” để thể hiện trái tim yêu thương mênh mông của người mẹ nghèo. Lưng mẹ là chiếc nôi để con lớn lên. Tim mẹ dạt dào tình mẫu tử, đã “hát thành lời”. Hạt gạo hậu phương là “hạt vàng làng ta” hạt gạo của mẹ nặng tình nặng nghĩa, rất đáng tự hào:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Khúc ca thứ hai là tiếng ru khi mẹ tỉa bắp trên núi Ka-lưi. Người mẹ cần cù đảm đang vừa địu con, vừa làm rẫy. So sánh “lưng núi” và “lưngmẹ” nhằm khẳng định đức tính kiên nhẫn, chịu đựng gian khổ của người mẹ nghèo:
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ.
“Mặt trời” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là một hình ảnh ẩn dụ nói lên tình thương, niềm tự hào của mẹ đối với cu Tai, vì em là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mẹ:
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
Mẹ nhân hậu, lòng mẹ bao la mang nặng tình nhà nghĩa xóm:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói.
Thời kháng chiến “hạt gạo cắn đôi, hạt muối chia đều” là thế.
Khúc ca thứ ba, nhịp điệu vang lên dồn dập. Đó là lúc “Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối”, dồn đồng bào Tà-ôi vào chỗ chết, mẹ địu con khi đang “chuyển lán” và “đạp rừng”. Cả gia đình mẹ cùng ra trận, mang tầm vóc anh hùng:
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông Mẹ địu em đi để giành trận cuối Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.
Khúc ca thứ ba là khúc ca chiến đấu. “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh ” là truyền thống anh hùng của người phụ nữ Việt Nam. Ở đây, người mẹ địu con ra trận, đi tiếp tế, đi tải đạn vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước.
Trong bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm 3 lần nói lên giấc mơ đẹp của bé thơ:
- Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần. - Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều. Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi. - Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người Tự do...
Đó là giấc mơ tình thương, giấc mơ về ấm no, hạnh phúc, giấc mơ chiến thắng.
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ xứng đáng là bài ca lòng mẹ Việt Nam. Mọi đứa con chỉ có thể lớn lên bằng dòng sữa, bằng lời ru, tình thương của mẹ. Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là tượng đài tráng lệ về bà mẹ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Nó nhắc nhở mỗi chúng ta ghi sâu trong lòng tình cảm kính yêu và biết ơn người mẹ hiền của mỗi chúng ta, tự hào về bà mẹ Việt Nam.
Đề bài: Cảm nhận bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lung mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm
Bài văn mẫu
Bài thơ này được sáng tác rất nhanh trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Cuối bài thơ ghi rõ ngày 25 tháng 3 năm 1971 – Trần Phương Trà kể lại “một lần về đến nhà, chưa kịp đặt gùi gạo xuống, với chiếc khăn mặt lau mồ hôi, Điềm ngồi vào bàn ghi ngay bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” rồi đưa cho tôi. Tôi thú vị đọc bài thơ và sung sướng nói với Điềm. Đây là một bài thơ hay viết về đồng bào dân tộc thiểu số. Xin chúc mừng Điềm”.
Bài thơ mang tên khác là Khúc hát ru. Điểm mới mẻ đầu tiên là có hai người ru em cu Tai. Tác giả và người mẹ Tà-ôi. Hai người ru, hai lời ru – Những lời ru ấy quấn quýt, vừa nói về hiện thực, vừa nói về ưóc mơ, vừa ru em, nhưng cũng ca ngợi mẹ em. Đây là một cách tân trong kết cấu lời ru làm cho “khúc hát” có một sự hòa thanh mới lạ.
Theo những lời ru của tác giả, ta biết được mẹ em như một người lao động cần mẫn. Những công việc của mẹ vừa có nét truyền thống: giã gạo, phát rẫy, lại vừa có nét hiện đại đạp rừng chuyển lán. Nhưng đây không phải là công việc bình thường của người mẹ trong gia đình. Công việc ấy mang một ý nghĩa khác thường, đó là việc nhà, nhưng cũng là việc nước, việc kháng chiến, việc cách mạng. Giã gạo, phát rẫy, đạp rừng để nuôi bộ đội, nuôi dân làng và đánh giặc. Vì thế người mẹ không chỉ là mẹ riêng của em Cu Tai, mà trở thành mẹ chiến sỹ, và cao hơn là mẹ Tổ quốc. Những lời này của mẹ – “tim hát thành lời” đó là tình cảm của mẹ, là khát khac ưóc vọng của mẹ đối với con trai của mình. Điều mới ở đây là tình mẫu từ thiêng liêng không phải chỉ dành cho một người con duy nhất của mẹ. Tình thương đó dành cho bộ đội, cho dân làng, và cho đất nước. Hiện tại, tương lai gần, tương lai xa của con trai đều gắn liền với dân làng, với cuộc kháng chiến của cả đất nưóc, dân tộc.
Một khúc hát ru, nhưng là khúc hát ru hiện đại, nên không có những “sung chát đào chua” khống có những “cánh cò đi đón cơn mưa” trong cơn giông tối tăm mù mịt. Cũng không có những hình ảnh tươi đẹp của cuộc sống thanh bình. Hiện ra trong khúc hát ru là nỗi gian khổ, vất vả, nhọc nhằn: mồ hôi mẹ rơi, vai mẹ gầy nhấp nhô.
Hiện ra trong khúc hát ru còn là tấm lưng của mẹ. Lưng đưa nôi, và lưng chính là nôi. Tấm lưng của người mẹ Tà-ôi gắn chặt với con trai trong mọi công việc vất vả nặng nhọc, tấm lưng ấy nhỏ, không to như lưng núi, nhưng bền bỉ như lưng núi, và kiêu hãnh hơn lưng núi vì con trai – mặt trời của mẹ nằm ở trên lưng. Và sau hết ” từ trên lưng mẹ – em đến trường”. Đến đây ta bỗng hiểu vì sao Nguyễn Khoa Điềm đặt tên cho khúc hát ru là Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Phải chăng mẹ đã dùng tấm lưng làm nôi nuôi dưỡng những dũng sĩ cho cuộc kháng chiến của dân tộc, và gánh chịu tất cả nỗi vất vả gian lao để giành chiến thắng Người mẹ Tà-ôi, người mẹ Việt Nam mãi mãi là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ ca ngợi. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ là một giai điệu đẹp trong bản giao hưởng lớn về người mẹ ấy.