Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây
I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MĨ Ở MIỀN NAM
1. Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở Miền Nam
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
– “Chiến tranh Cục bộ” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng quân đội Mĩ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn, do “cố vấn” Mĩ chỉ huy; dựa vào vũ khí, phương tiện chiến tranh của Mĩ.
– Âm mưu: dựa vào ưu thế quân sự, với quân số đông, vũ khí hiện đại, Mĩ âm mưu nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực, hỏa lực để giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy lực lượng vũ trang cách mạng của Việt Nam trở về thế bị động, phòng ngự.
– Thủ đoạn:
+ Ồ ạt đưa quân Mĩ, quân đồng minh và miền Nam Việt Nam (quân số lúc cao nhất lên tới gần 1.5 triệu tên, trong đó, hơn nửa triệu là quân Mĩ).
Binh sĩ thuộc Lữ đoàn 9 Lực lượng Thủy quân lục chiến của Mĩ
Đổ bộ vào bãi biến Đà Nẵng (8/3/1965)
+ Tăng cường viện trợ quân sự cho chính quyền Sài Gòn.
+ Mở các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào vùng “đất thánh Việt cộng”
+ Đẩy mạnh các hoạt động phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
2. Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân Miền Nam đã kiên cường chiến đấu chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” và đạt được nhiều thắng lợi.
* Mặt trận quân sự:
– Chiến thắng Vạn Tường (8/1965).
+ Mờ sáng ngày 18/8/1965, Mĩ huy động 9000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đấu, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quân Vạn Tường.
+ Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của quân Giải phóng miền Nam cùng với dân quân du kích tại địa phương đã đẩy lùi cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay.
Lược đồ trận Vạn Tường – Quảng Ngãi (tháng 8/1965)
=> Mở ra khả năng đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, mở đầu cao trào “Tìm Mĩ mà đánh, lùng Ngụy mà diệt”.
– Đập tan cuộc phản công của địch trong hai mùa khô (1965 – 1966 và 1966 – 1967).
+ Trong mùa khô 1965 – 1966, địch mở cuộc phản công lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính là Đông Nam Bộ và Liên khu V. => Quân ta trong thế trận Chiến tranh nhân dân đã chặn đánh, tiêu diệt địch ở nhiều hướng, loại khỏi vòng chiến đấu 104 000 tên địch, cùng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh.
+ Trong mùa khô 1966 – 1967, địch miwr cuộc phản công với 895 cuộc hành quân, trong đó có 3 cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định lớn. => Quân dân Miền Nam anh dũng chiến đấu, loại khỏi vòng chiến 151 000 tên địch cùng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh.
– Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
=> Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”, đánh dấu bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
* Mặt trận chính trị – ngoại giao
– Ở hầu khắp các vùng nông thôn, nông dân đã đứng lên đấu tranh chống phá ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng “ấp chiến lược”.
– Tại các thành thị, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, học sinh, sinh viên, Phật tử,… diễn ra mạnh mẽ.
Thanh niên, học sinh, sinh viên Sài Gòn biểu tình
đòi Mĩ và chính quyền Sài Gòn bãi bỏ lệnh động viên
– Uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam trên trường quốc tế được tăng cường.
3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuâ Mậu Thân 1968
a. Bối cảnh
– Mùa xuân 1968, trên cơ sở nhận định và so sánh lực lượng đã thay đổi có lợi cho ta đồng thời, lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử Tổng thống, Đảng chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn Miền Nam., nhằm mục tiêu:
+ Tiêu diệt bộ phận quan trọng quân Mỹ, và đồng minh.
+ Đánh đòn mạnh vào chính quyền Sai Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mỹ phải tiến hành đàm phán, rút quân.
Cán bộ lãnh đạo phân khu I (Sài Gòn – Gia Định) họp bàn kế hoạch
tiến công trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968)
b. Diễn biến chính:
* Đợt 1: Từ 30/1/1968 đến 25/02/1968.
– Ta đồng loạt tấn công và nổi dậy ở hầu hết các tỉnh, đô thị, quận lỵ Tại Sài Gòn, ta tấn công các vị trí đầu não của địch (Dinh Độc lập,Toà đại sứ Mỹ,Bộ tổng tham mưu Ngụy, Tổng nha cảnh sát Sài Gòn, sân bay Tân Sơn Nhất,Đài phát thanh…).
Bộ đội hành quân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968)
=> Kết quả: + loại khỏi vòng chiến 147.000 địch ( trong đó có 43.000 Mỹ), phá hủy khối lượng lớn vật chất và các phương tiện chiến tranh của địch.
+ Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình được thành lập.
* Đợt 2 (tháng 5, 6) và đợt 3 (tháng 8, 9)
– Do lực lượng của địch còn mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức phản công giành lại những mục tiêu bị ta chiếm và đồng thời cũng đã làm cho ta bị tổn thất khá nặng nề.
c. Ý nghĩa.
– Làm lung lay ý chí xâm lược miền Nam Việt Nam của Mĩ.
– Buộc Mĩ phải tuyên bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh xâm lược (tức là thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”).
– Buộc Mĩ chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc.
– Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu thân (1968) đã buộc Mỹ phải đàm phán với ta ở Pa-ri (tháng 5/1968) để bàn việc chấm dứt chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
=> Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu thân (1968) đã mở ra bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của quân dân Việt Nam.
II. MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN XUẤT VÀ LÀM NGHĨA VỤ HẬU PHƯƠNG (1965 – 1968)
1. Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại Miền Bắc
– Ngày 5/8/1964, Mỹ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” cho máy bay ném bom, bắn phá một số nơi ở miền Bắc (cửa sông Gianh, Vinh – Bến Thủy)…
Tàu khu trục Ma-đôc mang số hiệu 731 của Mĩ tiến vào Vịnh Bắc Bộ (tháng 8/1964)
– Ngày 7/2/1965, Mỹ ném bom thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ… chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.
* Âm mưu của Mĩ:
– Phá tiềm lực kinh tế – quốc phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.
– Ngăn chặn chi viện từ bên ngoìa vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam.
– Uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
2. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất vừa làm nghĩa vụ hậu phương.
a. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại.
– Chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, quân sự hóa toàn dân, đắp công sự, đào hầm, sơ tán… để tránh thiệt hại về người và của, tiếp tục chiến đấu và sản xuất. Hễ địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ sản xuất.
– Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, quân dân miền Bắc thi đua chống Mỹ, đạt nhiều thành tích lớn trong chiến đấu và sản xuất. Sau hơn 4 năm, miền Bắc bắn rơi 3.243 máy bay (6 B52, 3 F111), loại khỏi vòng chiến hàng ngàn phi công, bắn chìm 143 tàu chiến. Ngày 1/11/1968, Mỹ buộc phải ngưng ném bom miền Bắc.
b. Miền Bắc vừa sản xuất vừa làm nghĩa vụ hậu phương
* Sản xuất:
– Nông nghiệp: diện tích canh tác được mở rộng, năng suất tăng, đạt “ba mục tiêu” (5 tấn thóc, 2 đầu lợn, 1 lao động/1ha/1 năm).
– Công nghiệp: năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống.
– Giao thông vận tải: đảm bảo thường xuyên thông suốt.
* Làm nghĩa vụ hậu phương
– Miền Bắc luôn hướng về miền Nam ruột thịt, phấn đấu “mỗi người làm việc bằng hai”. Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
– Tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển bắt đầu khai thông (tháng 5.1959), nối liền hậu phương với tiền tuyến. Trong 4 năm (1965 – 1968) đưa hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội vào Nam chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng, cùng hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men…, tăng gấp 10 lần so với trước.
Thửa ruộng vì Miền Nam của nông dân xã Hòa Lạc, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
III. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” VÀ “ĐÔNG DƯƠNG HÓA CHIẾN TRANH” CỦA MĨ (1969 – 1973)
1. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ.
Sau thất bại trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mĩ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, thực hiện chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”.
* Âm mưu: “Dùng người Việt đánh người Việt” mở rộng thành “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
* Thủ đoạn:
+ Tăng cường lực lượng quân đội Sài Gòn.
+ Mở rộng chiến tranh sang Lào và Cam-pu-chia.
Tổng thống Ních-xơn trình bày kế hoạch mở rộng chiến tranh xâm lược sang Campuchia
+ Hòa hõa với Trung Quốc và Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này cho Việt Nam.
Tổng thống Mĩ Ních-xơn trong chuyến thăm Trung Quốc (1972)
+ Tăng cường đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân.
2. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân Miền Nam kiên cường chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ, thu được nhiều thắng lợi:
a. Mặt trận chính trị – ngoại giao
– 6/6/1969, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa Miền Nam Việt Nam được thành lập.
– Trong hai ngày 24 và 25 /4/1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia họp biểu thị quyết tâm chống đế quốc Mĩ.
Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương (1970)
– Phong trào phá “ấp chiến lược” ở các vùng nông thôn diễn ra mạnh mẽ.
– Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động, học sinh, sinh viên,… tại các đô thị diễn ra sôi nổi.
b. Mặt trận quân sự
– Từ 30/4 đến 30/6/1970, liên quân Việt – Cam-pu-chia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam-pu-chia của Mĩ và chính quyền Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17000 tên địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn.
– Từ ngày 12/2/ đến 23/3/1971, liên quân Việt – Lào đập tan cuộc hành quân mang tên “Lam Sơn 719” của Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 22000 tên địch, buộc quân Mĩ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Đường 9 – Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.
3. Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972
– Diễn biến chính:
+ Ngày 30/3/1972, quân dân Việt Nam mở cuộc tiến công chiến lược, đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tấn công chủ yếu, rồi phát triển rộng khắp miền Nam, kéo dài trong năm 1972.
Các chiến sĩ quân Giải phóng tại chiến trường Quảng Trị (1972)
+ Đến cuối tháng 6/1972, quân ta chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, diệt 20 vạn quân Sài Gòn, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn.
* Ý nghĩa:
+ Giáng đòn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
+ Buộc Mĩ tuyên bố “Mĩ hóa” trở lại cuộc chiến tranh xâm lược, thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
IV. MIỀN BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MĨ VÀ LÀM NGHĨA VỤ HẬU PHƯƠNG (1969 – 1973)
1. Miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội
– Nông nghiệp: khuyến khích sản xuất, chú trọng chăn nuôi, thâm canh tăng vụ (5 tấn/ha), sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với 1968.
– Công nghiệp: Khôi phục và xây dựng nhiều cơ sở, xí nghiệp công nghiệp. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1971 tăng 142% so với 1968.
– Giao thông vận tải: nhanh chóng khôi phục.
– Văn hóa, giáo dục, y tế: được phục hồi và phát triển.
2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương:
a. Âm mưu và thủ đoạn của Mỹ
– Ngày 6/4/1972, Mỹ ném bom một số nơi thuộc khu IV cũ.
– Ngày 16/4, chính thức tiến hành chiến tranh không quân phá hoại miến Bắc lần II, sau đó phong tỏa cảng Hải Phòng, các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc.
“Pháo đài bay” B52 của Mĩ sử dụng trong Chiến tranh phá hoại Miền Bắc lần thứ hai
* Âm mưu:
– Phá tiềm lực kinh tế – quốc phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.
– Ngăn chặn chi viện từ bên ngoaì vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam.
– Uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
– Cứu nguy cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
b. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần II, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương
– Miền Bắc tiếp tục chuyển sang kinh tế thời chiến, đảm bảo sản xuất và giao thông thông suốt.
– Từ 14/12/1972, sau 2 tháng ngưng ném bom để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị và ngoại giao mới, Nixon mở cuộc tập kích bắn phá dữ dội Hà Nội, Hải Phòng bằng B52 trong 12 ngày đêm (từ 18/12/1972 đến 29/12/1972) nhằm giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta ký hiệp định có lợi cho Mỹ => Quân dân miền Bắc đánh bại cuộc tập kích của Mỹ, làm nên trận: “Điện Biên Phủ trên không”. Ta hạ 81 máy bay (34 chiếc B52, 5 chiếc F111), bắt sống 43 phi công Mỹ.
Máy bay Mĩ rơi trên đường phố Hà Nội
– Tính chung trong chiến tranh phá hoại lần II, ta hạ 735 máy bay (61 B52, 10 F111), 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến hàng trăm phi công.
– Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” của quân dân Miền Bắc đã buộc Mỹ phải tuyên bố ngưng các hoạt động chống phá miền Bắc (15/1/1973) và ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
3. Miền Bắc chi viện miền Nam
– Đảm bảo tiếp nhận hàng viện trợ từ bên ngoài và chi viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam, cả Lào và Campuchia.
– 1969 – 1971: hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ 60% vào miền Nam, Lào, Campuchia. Năm 1972, 22 vạn thanh niên nhập ngũ vào chiến trường Đông Dương.
– Viện trợ khối lượng vật chất tăng 1,6 lần trước kia (1972: tăng 1,7 lần so với 1971).
V. HIỆP ĐỊNH PARI VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở VIỆT NAM
1. Hoàn cảnh triệu tập, kí kết
– Sau Mậu Thân 1968, Tổng thống Giôn-xơn, tuyên bố ngưng ném bom ở miền Bắc và nối lại đàm phán với Việt Nam.
– 13/5/1968 cuộc đàm phán chính thức diễn ra tại Pa ri giữa hai bên là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và Hoa Kỳ.
Toàn cảnh Hội nghị Pari
– Từ 25/1/1969, gồm 4 bên là Việt Nam dân chủ cộng hòa; Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa.
– Sau nhiều cuộc tiếp xúc, lập trường hai bên rất khác nhau, mâu thuẫn nhau:
+ Việt Nam đòi Mỹ và đồng minh rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, đòi tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam.
+ Mỹ đòi miền Bắc rút quân và từ chối ký dự thảo Hiệp định dù đã thỏa thuận (10.1972).
– Tháng 12/1972, Mỹ mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội và Hải Phòng trong 12 ngày đêm. Việt Nam đập tan cuộc tập kích bằng không quân của Mỹ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải trở lại ký Hiệp định Pari.
– Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được ký kết giữa 4 Bộ trưởng đại diện các Chính phủ tham dự hội nghị.
Bộ trưởng Nguyễn Thị Định thay mặt chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Kí kết Hiệp định Pari về Việt Nam (1973)
2. Nội dung cơ bản của Hiệp định Pa/ri (1973).
– Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
– Hoa Kì rút hết quân đội của mình và quân các nước đồng minh, hủy bỏ các căn cứ quân sự, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
– Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.
– Các bên thừa nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.
– Hai bên trao trả tù binh và dân thường bị bắt.
– Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, thiết lập quan hệ bình thường cùng có lợi với Việt Nam.
3. Ý nghĩa:
– Là văn bản pháp lý quốc tế công nhận các quền dân tộc cơ bản của Việt Nam.
– Thắng lợi của sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao.
– Việt Nam đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ “đánh cho Mĩ cút”. Tạo nên thay sự thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng Việt Nam => tạo nên thời cơ thuận lợi để nhân dân 2 miền tiếp tục đấu tranh chống các âm mưu, hành động mới của Mĩ và Chính quyền Sài Giòn.
Đại diện Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mĩ tại Sài Gòn làm lễ cuốn cờ,
Chính thức rút khỏi Miền Nam Việt Nam