- Giải Vở Bài Tập Ngữ Văn Lớp 6
- Tác Giả – Tác Phẩm Văn Lớp 6
- Đề Kiểm Tra Ngữ Văn Lớp 6
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 6 tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 6 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 6 Tập 2
- Tập Làm Văn Mẫu Lớp 6
- Bài Tập Ngữ Văn Lớp 6 Tập 1
- Bài Tập Ngữ Văn Lớp 6 Tập 2
Nắm được nội dung và ý nghĩa của truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng, thấy được tính hấp dẫn của truyện là ở chỗ đã đặt nhân vật vào tình huống gay cấn để làm rõ bản chất tính cách nhân vật. Biết sửa một số lổi chính tả do đặc điểm phát âm của địa phương. Biết kểmiệng (tập nói) một cách rõ ràng, tự nhiên, diễn cảm, phù hợp với nội dung câu chuyện và đủ to để cả lớp nghe.VẢN BÁN THÂY THUỐC GIỞI CỐTNHẤT Ở TẤM LÔNGCụ tổ bên ngoại của Trừng”), người họ Phạm, huý(°) là Bân, có nghề y gia truyền”, giữ chức Thái y lệnh(*) để phụng sự5) Trần Anh Vương (6).Ngài thường đem hết của cải trong nhà ra mua các loại thuốc tốt và tích trữ thóc gạo. Gặp kẻ tật bệnh cơ khổ{7), ngài cho ở nhà mình, cấp cơm cháo, chữa trị. Dẫu bệnh có dầm dề máu mủ, ngài cũng không hề né tránh. Bệnh nhân đến chữa tới khi khoẻ mạnh rồi đi. Cứ như vậy, trên giường không lúc nào vắng người.Bỗng liền năm đói kém, dịch bệnh nổi lên, ngài lại dựng thêm nhà cho những kẻ khốn cùng đói khát và bệnh tật đến ở, cứu sống hơn ngàn người. Ngài được người đương thời trọng vọng”.Một lần, có người đến gõ cửa, mời gấp:- Nhà có người đàn bà, bỗng nhiên nguy kịch, máu chảy như xối, mặt mày xanh lét.Nghe vậy, ngài theo người đó đi ngay. Nhưng ra tới cửa thì gặp sứ giả do vương sai tới, bảo rằng:- Trong cung có bậc quý nhân” bị sốt, vương triệu đến khám.Ngài nói:- Bệnh đó không gấp. Nay mệnh sống của người nhà người này chỉ ở trong khoảnh khắc. Tôi hãy cứu họ trước, lát nữa sẽ đến vương phủ(10).Quan Trung sú011) túc giận nói:- Phận làm tôi, sao được như vậy ? Ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu tính mạng mình chăng ?Ngài đáp:- Tôi có mắc tội, cũng không biết làm thế nào. Nếu người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần” còn trông cậy vào chúa thượng”, may ra thoát Tội tôi xin chịu.Nói rồi, đi cứu người kia. Họ quả được cứu sống. Lát sau, ngài đến yết kiến”, vương quở trách. Ngài bỏ mũ ra, tạ tội, bày rõ lòng thành của mình. Vương mừng nói:162 11-NV61-Bܐܼܲܠ ܠܠ- Ngươi thật là bậc lương y”chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức, thương xót đám con đỏ” của ta, thật xứng với lòng ta mong mỏiVề sau, con cháu của ngài làm quan lương y đến hàm ngũ phẩm, tứ phẩm(17) có tới hai ba vị. Người đời đều khen ngợi họ không để sa sút nghiệp nhà.(Hồ Nguyên Trừng(*) Nam. Ông mộng lục, Ưu Đàm – La Sơn soạn dịch, chú giải, Nguyễn Đăng Na giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội, 1999)Chú thích(4) Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446), con trưởng của Hồ Quý Ly, làm quan dưới triều vua cha, từng hăng hái chống giặc Minh xâm lược, bị giặc Minh bắt đem về Trung Quốc. Nhờ có tài chế tạo vũ khí, ông được làm quan trong triều nhà Minh tới chức Thượng thư (tương đương với chức Bộ trưởng ngày nay). Ông qua đời trên đất Trung Quốc. Nam. Ông mộng lục là tác phẩm Hồ Nguyên Trừng viết trong thời gian ở đây.163 (1) Trừng: tức Hồ Nguyên Trừng. (2) Huý: ở đây là tên của người đã chết, thường kiêng không nói đến. (3) Gia truyền: truyền từ đời này sang đời khác trong phạm vi gia đình. (4) Thái y lệnh: chức quan trông coi việc chữa bệnh trong cung vua. (5). Phụng sự: phục vụ hết lòng. (6) Trần Anh Vương: tức Trần Anh Tông, làm vua từ năm 1293 đến năm 1314 (Vương: vua, tước cao nhất trong triều đình ngày xưa). (7). Cơ khổ; đói khổ (cơ: đói). (8) Trọng vọng: hết sức coi trọng và ngưỡng mộ. (9). Quý nhân: ở đây có nghĩa là người ở(10), Vương phủ và làm việ l húa, quý tộc phong kiến xưa.bậc cao sang và được tôn kính. (11) Trung sứ; một chức quan phục vụ công việc của triều đình. (12) Tiểu thần: người bề tôi ở bậc nhỏ, thấp, theo cách nói nhún nhường. (13). Chú to – g để gọi 1۔۔۔۔ ột > ܝLܝ1 ܢܝ ܠܢܝܧ ܢ – – Lܥ hờipl 1-all (14) Yết kiến: ra mắt người bề trên. (15), Lương y: thầy thuốc giỏi. (16), Con đổi: dịch nghĩa hai từ xích tử mà ngày xưa vua chúa dùng để chỉ những người dân thường. (17) Ngū phẩm phẩm hàm bậc năm. Tứ phẩm : phẩm hàm bậc bốn (phẩm : một hình thức chỉ cấp bậc của quan lại ở thời phong kiến. Có chín bậc phẩm hàm. Cao nhất là nhất phẩm – phẩm hàm bậc nhất. Thấp nhất là cửu phẩm – phẩm hàm bậc chín. Trong mỗi phẩm hàm lại có hai loại: chính, tòng).ĐọC-HIÊU VẢN BẢN 1. Hãy kể ra những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm. Từ đó: a) Trả lời các câu hỏi sau: – Vị Thái y lệnh là người thế nào ? – Trong những hành động của ông, điều gì làm em cảm phục nhất và suy nghĩ nhiều nhất? b) Phân tích, bình luận lời đối thoại của vị Thái y với quan Trung sứ : “Ngài đáp: Tôi có mắc tội… tôi xin chịu tội”.1642. Trước cách xử sự của vị Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương diễn biến như thế nào ? Qua đó, nhân cách của Trần Anh Vương được thể hiện ra sao ?3. Qua câu chuyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng có thể rút ra cho những người làm nghề y hôm nay và mai sau bài học gì ?4°. Hãy so sánh nội dung y đức(?) được thể hiện ở văn bản Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng với văn bản kể về Tuệ Tĩnh (tr.44).Ghi nhớ Với hình thức ghi chép chuyện thật, trong đó biết xoáy vào một tình huống gay cấn để tính cách nhân vật được bộc lộ rõ nét truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng ca ngợi phẩm chất cao quý của vị Thái y lệnh họ Phạm : không chỉ có tài chữa bệnh mà quan trọng hơn là có lòng thương yêu và quyết tâm cứu sống người bệnh tới mức không sợ quyền uy, không sợ mang vạ vào thân.LUYÊN TÂP1. Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương phải như thế nào ? Hãy so sánh nội dung đó với nội dung trong lời thề của Hi-pô-cờ-rát được trích ở phần Đọc thêm.2. Nhan đề văn bản này nguyên văn chữ Hán là Y thiện dụng tâm (y: chữa bệnh, thầy thuốc; thiện: giỏi, tốt, lành, dụng: dùng, đem dùng; tâm: lòng, tấm lòng). Có sách dịch nhan đề trên là Thầy thuốc giỏi ở tấm lòng, ở đây dịch: Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Vậy có gì khác nhau ? Em tán thành cách nào ? Lí do ?ĐọC THÊM Thấy người đau gống mình đau, Phương nào cứu đặng” mau mau trị lành. Đứa ăn mày cũng trời sinh, Bệnh còn cứu đặng, thuốc dành cho không. […] Hỡi ai có bụng như vầy, Đạo y ngày sáng, tiếng thầy nào hư. (Nguyễn Đình Chiểu, Ngư Tiểuy thuật vấn đáp)(a) Y đức: đạo đức của người thầy thuốc. (b) Đặng: được.165Cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. (Hồ Chí Minh, Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế, tháng 2-1955) – “[…]”Tôi không lấy tiền thù lao quá đáng và sẽ săn sóc miễn phí cho người nghèo. […]” (Lời thể Hi-pô-cờ-rá)