- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 9 tập 2
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 9
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 9 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 9 (Cực Ngắn)
- Tập Làm Văn Mẫu Lớp 9
- Giải Vở Bài Tập Ngữ Văn Lớp 9
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 9 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 9 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 9 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 9 Tập 2
Qua ý kiến sau đây, em hiểu tác giả muốn nói điều gì ? Trong tiếng ta, một chữ có thể dùng để diễn tả rất nhiều ý, hoặc ngược lại, một ý nhưng lại có bao nhiêu chữ để diễn tả. Vì vậy, nếu nói tiếng Việt của ta có những khả năng rất lớn để diễn đạt tư tưởng và tình cảm trong nhiều thể văn thì99điều đó hoàn toàn đúng. Không sợ tiếng ta nghèo, chỉ sợ chúng ta không biết dùng tiếng ta. (Phạm Văn Đồng, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Sđd) 2. Xác định lỗi diễn đạt trong những câu sau: a) Việt Nam chúng ta có rất nhiều thăng cảnh đẹp.b) Các nhà khoa học dự đoán những chiếc bình này đã có cách đây khoảng 2500 năm.c) Trong những năm gần đây, nhà trường đã đẩy mạnh quy mô đào tạo để đáp ứng nhu cầu học tập của xã hộiGiải thích vì sao có những lỗi này, vì “tiếng ta nghèo” hay vì người viết “không biết dùng tiếng ta”. Như vậy để “biết dùng tiếng ta” cần phải làm gì ? Chr nhớ Muốn sử dụng tốt tiếng Việt trước hết cần trau dồi vốn từ. Rèn luyệnđể nắm được đầy đủ và chính xác nghĩa của từ và cách dùng từ là việc rất quan trọng để trau dồi vốn từII-RÊN LUYÊN ĐÊ LẢM TẢNG VỐN Từ Em hiểu ý kiến sau đây như thế nào ? Từ lúc chưa có ý thức, cho tới lúc có ý thức, chúng ta đã học chữ của Nguyễn Du. Chắc ai cũng đồng ý với tôi rằng nếu chữ nghĩa “Truyện Kiều” mà xoàng xĩnh thôi thì chắc “Truyện Kiều”, dù tư tưởng sâu xa đến đâu cũng chưa thế thành sách của mọi người. Tôi càng phục tài học với sức sáng tạo của Nguyễn Du trong chữ nghĩa, khi tôi đọc đến câu thơ ông viết ông đã “ở trong ruộng bãi để học câu hát hay của người trồng dâu”. Đó không phải là một câu nói bóng, mà đó là một tâm sự, một kế hoạch học chữ, hay là nói theo cách nói của chúng ta ngày nay : Nguyễn Du đã đi vào học lời ăn tiếng nói nhân dân, cơ sở sáng tạo ngôn ngữ của nhà thơ thiên tài đã dựa thẳng vào đây.Xin kể hai ví dụ. Cầu thơ Nguyễn Du có chữ “áy” (cỏ ấy bóng tả…). Chữ “áy” ấy, tài giỏi đến độ dù ta không hiểu nghĩa, nó cũng hiện lên sự ảm đạm. Cho tới năm trước, có dịp đi Thái Bình, về huyện Thái Ninh, tôi được biết chữ “áy” là tiếng vùng quê đây. Quê vợ Nguyễn Du ở Thái Bình, Nguyễn Du đã ở lâu đất Thái Bình, “cỏ ấy” có nghĩa là cỏ vàng tía. Tiếng “áy” ở Thái Bình đã vào văn chương “Truyện Kiều” và trở thành tuyệt vời100 Ví dụ nữa, ba chữ “bén duyên tơ” ở “Truyện Kiều”. Thông thường ta hiểu “bén duyên” có thể gần gũi với câu tục ngữ “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”. Nhưng không phải. Trong nghề ươm tơ lúc tháo con tằm lấy tơ thì người ta ngâm tằm vào nồi nước nóng, rồi đem guồng ra, vớt tơ lên quay vàoguồng, lúc sợi tơ bắt đầu quay vàoguồng, người nhà nghề gọi là “tơ bén”. Nếu chỉ viết “bén duyên” không thì còn có thể ngờ, chứ “bén duyên tơ” thì rõ ràng Nguyễn Du của chúng ta đã nghe, học và sáng tạo trên cơ sở công việc của người hái dâu chăn tằm. Nguyễn Du đã trau dồi ngôn ngữ, đêm ngày mài giữa chữ nghĩa kì khu biết chừng nào /(Theo Tô Hoài, Mồi chữphở là một hạt rooo, trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Sdd)Chr nhớKèn luyện để biết thêm những từ chưa biết làm tăng vốn từ là việc thường xuyên phải làm để trau dồi vốn từIII – LUYÊN TÂP 1. Chọn cách giải thích đúng:Hậu quả là:a) kết quả sau cùng. b) kết quả xấu. Đoạt là:a) chiếm được phần thắng. b) thu được kết quả tốt. Tính tứ là :a) phần thuần khiết và quý báu nhất. b) sao trên trời (nói khái quát). 2. Xác định nghĩa của yếu tố Hán Việt: a) Tuyệt (Hán Việt) có những nghĩa thông dụng nhất như sau: – dứt, không còn gì; – cực kì, nhất. Cho biết nghĩa của yếu tố tuyệt trong mỗi từ sau đây : tuyệt chủng, tuyệt đỉnh, tuyệt giao, tuyệt mật, tuyệt tác, tuyệt trần, tuyệt tự, tuyệt thực. Giải thích nghĩa của những từ này. b) Đồng (Hán Việt) có những nghĩa thông dụng nhất như sau: – cùng nhau, giống nhau;101 – tré em; – (chất) đồng. Cho biết nghĩa của yếu tố đồng trong mỗi từ ngữ sau đây: đồng âm, đồng âu, đồng bào, đồng bộ, đồng chí, đồng dạng, đồng dao, đồng khởi, đồng môn, đồng niên, đồng sự, đồng thoại, trống đồng. Giải thích nghĩa của những từ ngữ này. 3. Sửa lỗi dùng từ trong những câu sau: a) Về khuya, đường phố rất im lặng. b) Trong thời kì đổi mới, Việt Nam đã thành lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới c) Những hoạt động từ thiện của ông khiến chúng tôi rất cảm xúc. 4. Bình luận ý kiến sau đây: Hãy nghe một thanh niên nông thôn rồi nghe bà mẹ của anh hay ông nội của anh nói chuyện ta sẽ hiểu ai là người có tiếng nói giàu hình ảnh, sắc màu. Chỉ một chuyện cây lúa thôi, mà biết bao là sáng tạo về ngôn ngữ: Gió đông là chồng lúa chiêm Gió bấc là duyên lúa mùa Được mùa /úa, ứa mùa cauĐược mùa cau, đau mùa lúaChiêm khôn hơn mùa dạiMùa nứt nanh, chiêm xanh đầuLúa chiêm nép ở đầu bờ,Hễ nghe tiếng sâm phất cờ mà lên. Cô kĩ sư nông học ơi, nếu ngày nay cô không nói được tiếng nói như vậy nữa, thì cô có thu được mùa lúa, nhưng đã bỏ mất cả một mùa ngôn ngữ đẹp đẽ của dân tộc đấý. Bởi thế tôi muốn, đồng thời với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt phải giữ gìn sự giàu có, muôn vân giàu có của nó. Trong thói quen, chúng ta hay tự ti/ khẳng định lại một lần nữa sự giàu có của tiếng nói dân tộc, cũng là một điều quan trọng chứsao. (Chế Lan Viên, Lâm cho tiếng nói trong sáng giầu và phát triển. trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Sđd)1025. Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói tới việc lấy tài liệu để viết như sau:Muốn có tài liệu thì phải tìm, tức là:1. Nghe: Lắng tai nghe các cán bộ, nghe các chiến sĩ, nghe đồng bảo để/áý tài liệu mà viết2 Hỏi : Hỏi những người đi xa về hỏi nhân dân, hỏi bộ đội những việc, những tình hình ở các nơi3. Thấy: Minh phải đi đến, xem xét mà thấý.4. Xem: Xem báo chí, xem sách vở. Xem báo chí trong nước, xem báo chí nước ngodi.5. Ghi : Những cái gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã đọc được, thì chép lấy để dùng và viết(Hồ Chí Minh, Cách viết trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Sđd) Dựa theo ý kiến trên, hãy nêu cách em sẽ thực hiện để làm tăng vốn từ.6. Cho các từ ngữ: phương tiện, cứu giúp mục đích cuối cùng, Viện trợ, yếu điểm, điểm yếu, điểm thiếu sót khuyết điểm, đề bạt đề cử đề đạt đề xuất lau Iỉnh, láu táu, liên láu, liên thoăng hoảng hồn, hoảng loạn, hoảng hốt hoảng sợ. Hãy chọn từ ngữ thích hợp với mỗi chỗ trống trong những câu sau:a) Đồng nghĩa với “nhược điểm”lì/…/b) “Cứu cánh “nghĩa là /…/ c) Trình ý kiến, nguyện vọng lên cấp trên là /…./ d) Nhanh nhẩu mà thiếu chín chắn là /…/ e). Hoảng đến mức có những biểu hiện mất trí là /…/ 7. Phân biệt nghĩa của những từ ngữ sau và đặt câu với mỗi từ ngữ đó. a) nhuận bứt / thù lao,b) tay trắng/ trăng tay,c) kiểm điểm / kiểm kê,d) lược khảo/ lược thuật1038. Trong tiếng Việt, có nhiều từ phức (từ ghép và từ láy) có các yếu tố cấu tạo giống nhau nhưng trật tự các yếu tố thì khác nhau, như từ ghép : kì lạ – lạ kì, nguy hiểm – hiểm nguy, thương xót – xót thương; hoặc từ láy: khắt khe – khe khắt lừng lầy – lẫy lừng. Hãy tìm năm từ ghép và năm từ láy tương tự.9. Với mỗi yếu tố Hán Việt sau đây, hãy tìm hai từ ghép có yếu tố đó:bất (không, chẳng), bí (kín), đa (nhiều), đề (nâng, nêu ra), gia (thêm vào), giáo (dạy bảo), hồi (về, trở lại), khai (mở, khơi), quảng (rộng, rộng rãi), suy (sút kém), thuần (ròng, không pha tạp), thủ (đầu, đầu tiên, người đứng đầu), thuần (thật, chân thật, chân chất), thuần (dễ bảo, chịu khiến), thuỷ (nước), tư (riêng), trữ (chứa, cất), trường (dài), trọng (nặng, coi nặng, coi là quý), vô (không, không có), xuất (đưa ra, cho ra), yêu (quan trọng).ĐọC THÊMĐã có không ít nhà văn, nhà thơ nêu cao tấm gương học hỏi, gạn lọc từ ngôn ngữ đời thường của những người lao động chân lấm tay bùn những hạt vàng, làm tăng thêm sức hấp dẫn cho trang sách của mình.Những năm tháng cuối đời, nhà thơ Nguyễn Bính làm việc ở Ti Văn hoá Nam Hà. Một đêm, ông trằn trọc không ngủ nổi chỉ vì một chữ còn khuyết trong câu thơ nọ, “Hạt mạ, mầm mạ gieo xuống đất, bén rễ rồi trỗi dậy, nhỏm dậy, vươn dậy, nhú thẳng cái thân non bé xíu. Hiện tượng ấy gọi là gì nhỉ ?”. Cứ thế nhà thơ suy nghĩ lung lắm. Không biết bao nhiêu lần ông vùng dậy hút thuốc lào, nhưng con chữ mà ông đang lần tìm kia thì vẫn cứ chơi trò ú tim.Chợt nhà thơ “à” lên một tiếng, như bừng tỉnh. Đây rồi: mạ đã ngồi. Con chữ sống động mà một lần ông nghe được từ miệng người nông dân đã “bật mầm” trong tâm trí ông lúc này. Nguyễn Bính đặt bút viết:Mộng một đêm qua mạ đã ngồiCây lúa được người nông dân bao đời coi như con người : nó sống, nó cử động, nó nằm, nó ngồi, nó lớn rồi nó đứng cái. Nguyễn Bính tỏ ra rất tâm đắc với con chữ vừa tìm ra ấy (dẫn theo Chu Văn, Lời bạt Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986).[…] Nhà văn Nguyễn Thế Phương trong bài Nghĩ về viết truyện có kể: “Một lần tôi đi đường bằng xe đạp. Trước mắt tôi là hai người đàn bà gánh gánh, tôi bóp chuông. Cái chuông xe không kêu. Tôi lánh xe sang bên liền bị người đàn bà gánh 104Nguyễn Thế Phương phân tích : “Cái chuông điếc là cái chuông xe không kêu. Thì ra từ điếc không phải chỉ có nghĩa là tai không nghe được. Người điếc là người không nghe được tiếng người. Làm điếc tai người ta là làm ồn khiến người ta khó chịu. Rồi đến cử lạc điếc là củ lạc lép, không có hột. Đến cái chuông điếc thì thật là giỏi”. Nguyễn Thế Phương xuýt xoa: “Ngôn ngữ dân gian nước ta phong phú là thế. Tôi ghi trong sổ tay, giật mình lấy làm lạ về sự phong phú của ngôn ngữ dân tộc mình”.Với nhà văn Tô Hoài thì việc học tập ngôn ngữ quần chúng đã trở thành “chủ trương” của ông : “Bao giờ đi thực tế tôi cũng ghi vào sổ những câu hay. Ví dụ nghe người ta nói đất át về nhà tôi ghi đất át nghe người ta nói cái cuốc ngáp, tôi ghi cái cuốc ngáp”… Hoặc khi Tô Hoài viết “sao mắt cua”, thì ông giải thích: “Sao mắt cua là tiếng của làng Cát Động. Ngôi sao hiện ra lúc chập tối nó cứ thây lẩy như mắt cua” (dẫn theo Hỏi chuyện các nhà văn, NXB Tác phẩm mới, 1977).[…] Trên đây chỉ là một số dẫn chứng ít ỏi về tinh thần học hỏi quần chúng nhân dân lao động, đặc biệt là thôn dân, của các nhà văn ta.(7heo Phạm Khải, Nhà văn Việt Nam với ngôn ngữcủa thôn dân, tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 4, 1996)