Xem toàn bộ tài liệu Lớp 10: tại đây
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 10 tập 1
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 (Cực Ngắn)
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1 Nâng Cao
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2 Nâng Cao
Đề bài: Dàn ý Phân tích đoạn trích Ra-ma buộc tội (trích sử thi Ra-ma-ya-na).
Dàn ý mẫu
I. Mở bài
– Giới thiệu sử thi Ramayana: Là một trong hai bộ sử thi lớn nhất của Ấn Độ và thế giới, phản ánh hiện thực xã hội Ấn Độ cổ đại và những phẩm chất cao đẹp của con người
– Khái quát về đoạn trích: Nói về tâm trạng và hành động của Ra – ma và Xi-ta sau khi Xi-ta được giải thoát, từ đó thể hiện những đức tính cao quý của hai nhân vật này.
I.. Thân bài
1. Hoàn cảnh tái hợp của Ra-ma và Xi-ta
– Xi-ta vừa được Ra-ma giải cứu khỏi tay quỷ vương Ra-va-na.
– Cuộc tái hợp của hai vợ chồng không phải ở không gian riêng tư mà trong không gian cộng đồng với sự chứng kiến của rất nhiều người.
– Ra – ma trong tư cách kép với những ràng buộc kép:
+ Một quốc vương với bổn phận cai trị vương quốc mẫu mực
+ Một người chồng hết lòng quan tâm nhớ thương vợ.
→ Ra-ma trong vai trò của một quan tòa buộc phải kết tội Xi-ta. Lời buộc tội có sự chi phối lớn bởi hoàn cảnh.
– Xi-ta chưa kịp vui mừng, hạnh phúc vì được giải thoát, đã bị chính người chồng đem ra kết tội, sỉ nhục
→ Xi-ta buộc phải minh chứng cho danh dự và phẩm chất của mình.
⇒ Hoàn cảnh tái hợp đặc biệt ấy chính là điều kiện để Ra-ma và Xi-ta bộc lộ phẩm chất.
2. Lời buộc tội của Ra-ma.
– Trước khi Xi-ta lên giàn hỏa thiêu:
+ Xưng hô: ta – phu nhân, cách xưng hô trịnh trọng nhưng lạnh lùng xa cách.
+ Nhấn mạnh mục đích chiến đấu “ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta…”, không phải vì Xi-ta mà vì danh dự, phẩm giá.
+ Bộc lộ nghi ngờ, ghen tuông về trinh tiết của Xi-ta: “nàng đã lưu lại lâu trong nhà kẻ xa lạ,…”.
+ Lăng nhục Xi-ta, không nhận vợ và đuổi nàng đi “ta không cần đến nàng nữa…”.
→ Những lời nói rất lạnh lùng, tàn nhẫn với những chỉ thị oai nghiêm của người anh hùng chứng tỏ lòng ghen tuông đẩy đến cao độ khiến Ra-ma thiếu bình tĩnh. Ra-ma tuy là một vị thần nhưng vẫn mang đặc điểm của người trần tục: lúc yêu lúc ghen, lúc oai phong lúc tầm thường, lúc cương quyết lúc mềm yếu.
– Khi Xi-ta lên giàn hỏa thiêu:
+ Kiên quyết không nói một lời, ngồi câm lặng “mắt dán xuống đất”
+ Ra-ma tê dại “nom chàng khủng khiếp như thần chết”.
→ Một tâm lý phức tạp với nhiều cung bậc giằng xé trong con người Ra-ma:
Anh hùng (cao thượng) >< Con người (mềm yếu)
⇒ Hoàn cảnh ngặt nghèo buộc Ra-ma phải lựa chọn danh dự. Đó là một hình mẫu lý tưởng của người anh hùng thời xưa.
⇒ Mặc dù rất yêu vợ nhưng Ra-ma bị đặt trong tình thế của một vị vua cai trị quốc vương một cách mẫu mực, đứng trong không gian của cộng đồng lời buộc tội càng trở nên gay gắt. Ra-ma có lòng trung thành tuyệt đối với bổn phận, trách nhiệm của cộng đồng.
3. Lời đáp và hành động của Xi-ta.
– Phản ứng trước những lời buộc tội của Rama
+ Mở tròn xoe đôi mắt đẫm lệ,
+ Đau đớn đến nghẹt thở như một dây leo bị vòi voi quật nát, muốn chôn vùi cả hình hài lẫn thân xác.
+ Nước mắt đổ ra như suối, giọng nói nghẹn ngào nức nở
⇒ Phản ứng của Xi-ta từ ngạc nhiên đến sững sờ, bàng hoàng đến đau đớn tột độ
– Lời đáp của Xi-ta.
+ Chỉ trích lời nói của Ra-ma, xem đó là lời lẽ của kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp hèn.
+ Nêu ra những bằng chứng chứng minh cho sự thủy chung: Khỉ Ha-nu-man có thể làm chứng cho nàng, nguồn gốc xuất thân cao quý không cho phép nàng làm điều ô uế
+ Lấy tư cách của mình ra để thề: “hãy tin vào danh dự của thiếp”
+ Khẳng định tình yêu dành cho Ra-ma: “trái tim thiếp thuộc về chàng”.
→ Lời nói của Xi-ta vừa có tình vừa có lí, thể hiện nàng là một người phụ nữ lí trí, thông minh, đức hạnh và chung thủy.
– Hành động tự thiêu của Xi-ta
+ Xi-ta đi quanh Ra-ma, cúi lậy chư thần, đấng Bra-ma, cầu xin sự chứng giám của thần Lửa A-nhi
+ Nàng dũng cảm chấp nhận cái chết để chứng minh cho sự chung thủy, cho tình yêu, cho phẩm hạnh của mình.
+ Thái độ của người xung quanh: ai nấy đều đau lòng đứt ruột, các phụ nữ kêu khóc thảm thương,..thể hiện lòng thương cảm, sự tin tưởng.
+ Xi-ta nhảy vào lửa nhưng không chết bởi nàng được thần linh che chở và chứng giám cho sự chung thủy.
⇒ Xi-ta là mẫu phụ nữ lí tưởng của Ấn Độ yêu chồng, thủy chung, nhẫn nại, chịu đựng, dũng cảm, vị tha
4. Nghệ thuật
– Ngôn ngữ: trang trọng, phong phú, biểu cảm.
– Miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật qua đối thoại, qua hành động, cử chỉ
– Kết hợp yếu tố hiện thực và kì ảo
– Xây dựng tình huống đầy kịch tính
I.I. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
– Mở rộng: Đoạn trích Ra-ma buộc tội nói riêng và sử thi Ấn Độ nói chung là con thuyền chở bài học đạo đức nhân sinh đối với cộng đồng
Đề bài: Phân tích đoạn trích Ra-ma buộc tội (trích sử thi Ra-ma-ya-na).
Bài văn mẫu
Ra-ma buộc tội được trích từ sử thi Ra-ma-ya-na của Ấn Độ, đoạn trích đã tái hiện cảnh tái ngộ đầy bi kịch, éo le của hai vợ chồng Ra-ma và Xi-ta. Qua cách ứng xử, hành động của hai nhân vật sau những ngày xa cách đã phần nào bộc lộ những phẩm chất đẹp đẽ của họ.
Vợ của Ra-ma là Xi-ta bị quỷ vương Ra-va-na bắt đi. Sau cuộc đấu tranh quyết liệt của Ra-ma với quỷ vương, chàng đã cứu được vợ, nhưng lại nghi ngờ sự trong trắng của Xi-ta trong những ngày bên cạnh quỷ vương, cơn ghen tuông nổi lên và bản thân chàng không muốn nhận lại Xi-ta làm vợ mình.
Không gian gặp gỡ giữa hai người là không gian cộng đồng, diễn ra trước sự chứng kiến của tất cả mọi người. Lấy không gian này, Ra-ma nhằm công khai hóa lời buộc tội với vợ, đồng thời thể hiện uy tín và danh dự của một đức vua trong tương lai. Chính bối cảnh này cũng có tác động mạnh mẽ đến ngôn ngữ, tâm lí của hai nhân vật. Ra-ma đứng trên hai tư cách, một là người chồng, hai là tư thế một vị anh hùng phải bảo vệ danh dự của bản thân. Điều đó khiến cho tâm trạng chàng có sự đấu tranh giằng xé giữa lí trí và tình cảm. Xi-ta vô cùng đau đớn, xấu hổ khi bị chính chồng mình buông ra những lời buộc tội trước cộng đồng. Nàng cảm thấy mình bị sỉ nhục. Đây chính là hoàn cảnh thử thách mà hai nhân vật chính phải vượt qua để khẳng định danh dự, phẩm chất của bản thân.
Trước hết về diễn biến tâm trạng của Ra-ma. Sau khi đánh thắng quỷ vương, nếu như Xi-ta khao khát được gặp chồng bao nhiêu thì Ra-ma lại tìm cách trì hoãn cuộc trùng phùng bấy nhiêu. Khi gặp lại vợ trong chàng là hai trạng thái cảm xúc đan xen nhau vừa vui mừng vừa buồn đau. Ngay từ giây phút đầu tiên gặp mặt, Ra-ma đã tỏ thái độ xa cách qua ngôn ngữ: “Hỡi phu nhân cáo quý!”, đồng thời Ra-ma cũng phủ nhận lí do chiến đấu với quỷ vương không phải vì Xi-ta mà bởi chính bản thân Ra-ma mà thôi: “Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và cơn giận của ta đã hả”. Chàng muốn thông báo cho Xi-ta và tất cả mọi người về cuộc chiến đã thành công, ngầm khẳng định tài năng của mình trước tất cả dân chúng, còn với Xi-ta chàng cũng muốn gửi tới nàng bức thông điệp về vị trí của Xi-ta đã thay đổi, chàng phải sống với danh dự và bổn phận của một đức vua tương lai.
Mặc dù nói những lời như vậy, nhưng khi buộc tội Xi-ta lòng Ra-ma lại đau như cắt, dù vậy chàng vẫn phải nói những lời lạnh lùng, “nàng muốn đi đâu tùy nàng, ta không ưng có nàng nữa”. Trong lời cáo buộc, Ra-ma chỉ nói đến danh dự, nhân phẩm mà quên đi tình nghĩa vợ chồng. Lí do chàng đưa ra chính là do Xi-ta đã lưu lại quá lâu trong nhà của một kẻ xa lạ. Trong lời buộc tội Ra-ma dùng rất nhiều từ ngữ có tính khẳng định “ta biết chắc điều này” “phải biết chắc điều này…” thể hiện một tâm trạng đau đớn, dường như nói những điều đó ra, lòng Ra-ma còn đau đớn hơn Xi-ta gấp ngàn lần. Trong những lời buộc tội đó ta không chỉ thấy sự lạnh lùng mà còn thấy một trái tim yêu đương cháy bỏng đang ghen tuông, chẳng có người chồng nào lại không ghen khi thấy vợ mình bị bắt bởi một người đàn ông khác.
Nhưng đau đớn nhất là giờ phút Ra-ma phải chứng kiến Xi-ta bước lên giàn lửa, lúc ấy “trông chàng khủng khiếp như thần chết vậy”. Chàng ngồi đó mắt dán xuống đất. Chắc hẳn trong thời khắc đó, Ra-ma đã đau đớn, dằn vặt hơn bất cứ người nào khác. Qua đoạn trích ta có thể thấy Ra-ma hiện lên là một người anh hùng có sức mạnh phi thường, một bậc quân vương trọng danh dự, nhân phẩm, nhưng chàng cũng là người giàu tình nghĩa, luôn yêu thương vợ.
Xi-ta một người phụ nữ xinh đẹp, thủy chung, nàng bị quỷ vương bắt đi. Khi nghe tin Ra-ma đã giành chiến thắng, Xi-ta vô cùng vui mừng, hạnh phúc, điều nàng mong mỏi nhất chính là được gặp Ra-ma. Nhưng khi gặp Ra-ma trước tất cả mọi người Xi-ta vô cùng ngạc nhiên, đồng thời nàng cũng nhanh chóng hiểu ra tình thế của mình, nàng tỏ ra khiêm nhường trước Ra-ma. Trước những lời buộc tội của Ra-ma, nàng “mở tròn đôi mắt đẫm lệ” trong nỗi ngạc nhiên, đau đớn đến tột cùng. Sau khi nghe xong nhuững lời buộc tội hết sức tàn nhẫn, nàng “đau đớn đến nghẹt thở” “như một cây dây leo bị vòi voi quật nát”. Mỗi lời Ra-ma nói như “xuyên vào trái tim nàng một mũi tên” “nước mắt đổi như suối”. Hàng loạt các câu văn miêu tả với biện pháp so sánh sinh động đã cho thấy nỗi đau đớn, tủi hổ đến tận cùng của Xi-ta. Nhưng ngay sau đó nàng lấy lại bình tĩnh và cất lên lời thanh minh cho chính mình. Nàng trách Ra-ma đã không suy xét mà đánh đồng nàng với những phụ nữ tầm thường: “giống như kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp hèn”. Và nàng khẳng định phẩm hạnh, tư cách của mình, với những lời lẽ thanh minh hết sức sắc sảo: khi Ra-va-na bắt nàng, nàng ngất đi. Nàng phân biệt giữa điều tùy thuộc vào số mệnh nàng và quyền lực của kẻ khác. Nàng cũng khẳng định chắc chắn trái tim mình chỉ thuộc về Ra-ma. Nhưng dù dùng tất cả nỗ lực, cố gắng Xi-ta vẫn không minh chứng được sự trong sạch của mình.
Bị dồn đến bước đường cùng, Xi-ta đưa ra quyết định mang cả tính mệnh của mình để minh chứng cho tấm lòng, phẩm hạnh của bản thân, nàng nhờ thần lửa A-nhi chứng minh cho tấm lòng trong trắng, thủy chung. Đây là hành động dũng cảm, tự tin của Xi-ta về phẩm giá, đức hạnh của mình. Có thể nói chi tiết Xi-ta nhảy vào lửa là chi tiết đẹp nhất, huyền thoại nhất trong đoạn trích. Với hành động đó nàng đã chứng minh được lòng thủy chung, sự trong trắng bản thân trong những ngày bị quỷ vương bắt, đồng thời khẳng định phẩm giá của một một phụ nữ cáo quý, qua đó giải tỏa được mối ghen tuông của Ra-ma.
Đoạn trích thành công trong nghệ thuật tạo dựng tình huống giàu kịch tính qua đó buộc lộ tâm trạng, tính cách của mỗi nhân vật. Nghệ thuật khắc họa tâm lí qua ngôn vật tài tình. Ngôn ngữ, giọng điệu đa dạng, phong phú thể hiện được tâm trạng nhân vật. Xây dựng các chi tiết mang tính huyền thoại vô cùng đặc sắc.
Tác phẩm đã ghi lại thành công diễn biến tâm trạng phức tạp của Ra-ma và Xi-ta trong cuộc gặp gỡ của họ trước cộng đồng. Ra-ma một mặt là người anh hùng trong danh dự, nhân phẩm nhưng đồng thời là người chồng biết yêu, biết ghen tuông. Xi-ta lại là điển hình cho người phụ nữ có tình yêu sâu sắc, sự thủy chung và ý thức về danh dự. Hai nhân vật là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp con người Ấn Độ.
Bài văn mẫu
Ra-ma-ya-na là thiên sử thi Ấn Độ nổi tiếng thế giới, ra đời vào khoảng thế kỉ thứ 3 trước Công Nguyên. Tác phẩm liên tục được nhiều thế hệ tu sĩ – thi nhân bổ sung về nội dung, trau chuốt về nghệ thuật và đạo sĩ Van-mi-ki là người hoàn thiện cuối cùng.
Đoạn trích Ra-ma buộc tội kể về sự kiện hoàng tử Ra-ma sau khi hạ gục quỷ vương Ra-va-na đã giành lại được người vợ yêu quý là nàng Xi-ta kiều diễm. Vợ chồng gặp lại nhau, Xi-ta vui mừng khôn xiết. Nhưng hoàng tử Ra-ma nghi ngờ vợ mình không giữ được trọn vẹn danh tiết trong thời gian bị quỷ Ra-va-na bắt cóc nên đã tuyên bố từ bỏ nàng. Xi-ta không thể thanh minh nên đành bước lên dàn hoả thiêu, nhờ thần Lửa A-nhi chứng giám cho đức hạnh trung trinh của mình. Qua nội dung đoạn trích, các tác giả đã thể hiện quan điểm về Vị vua mẫu mực (Ra-ma) và về người phụ nữ lí tưởng (Xi-ta) của dân tộc Ấn Độ cổ xưa.
Có thể nổi Ra-ma là nhân vật hội tụ đẩy đủ những nét tính cách của một vị vua anh hùng như ao ước của dân chúng thời đại đó. Tính cách cao quý của chàng được thể hiện rõ trong mọi tình huống yà tình huống ở đoạn trích này là khá đặc biệt.
Theo quy luật tâm lí thông thường thì lẽ ra gặp lại vợ sau một thời gian dài xa cách Ra-ma phải hết sức vui mừng và niệm vui to lớn ấy sẽ chi phối mọi suy nghĩ cùng hành động của chàng. Thế nhưng Ra-ma lại không như vậy. Chàng nói với Xi ta: Hỡi phu nhân cao quý, Ta đã đưa nàng tới đây sau khi đã đánh bại kẻ thù. Ta đã làm tất cả bằng khả năng của mình. Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và cơn giận của ta đã hả. Ngày hôm nay, ai nấy đều đả được chứng kiến tài nghệ của ta. Ta đã làm tròn lời hứa và giờ đây không còn gì vướng mắc với chính mình. Nàng đã bị gã Rắc-sa-xa tâm địa xảo trá bắt cóc khi vắng mặt ta, đó là do số phận của nàng xui nên, nhưng ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống. Kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra trả thù là kẻ tầm thường…
Rõ ràng là khẩu khí của người anh hùng tài ba và coi trọng danh dự hơn cả mạng sống của bản thân. Ra-ma đã chiến đấu và chiến thắng quỷ vương Ra-va-na trước hết là vì danh dự dòng dõi cao quý của mình, vốn là người thẳng thắn, trung thực, chàng không giấu diếm suy nghĩ về người vợ mà chàng vừa giành lại được từ tay quỷ vương:… Phải biết chắc điều này: chẳng phải vì nàng mà ta đã đánh thắng kẻ thù với sự giúp đỡ của bạn bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để xóa bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lẫy lừng tiếng tăm của ta. Ta làm điều đó chính là để chứng tỏ ta không thuộc về một gia đình bình thường. Nay ta phải nghi ngờ tư cách của nàng, vì nàng đã lưu lại lâu trong nhà một kẻ xa lạ. Giờ đây, nàng đang đứng trước mặt ta, nhưng trông thấy nàng, ta không chịu nổi, chẳng khác nào ánh sáng với người bị đau mắt. Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tuỳ nàng, ta không ưng có nàng nữa. Người đã sinh trưởng trong một gia đình cao quý có thế nào lại lấy về một người vợ từng sống trong nhà kẻ khác, đơn giản chỉ vì mụ ta là một vật để yêu đương ? Nàng đã bị quấy nhiễu khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, đôi mắt tội lỗi của hắn đã hau háu nhìn khắp người nàng, vậy làm sao ta có thể nhận nàng về khi nghĩ tới gia đình cao quý đã sinh ra ta ?
Cuộc gặp gỡ giữa Ra-ma và Xi-ta không chỉ có hai người mà diễn ra trước đông đảo anh em, bạn hữu và dân chúng. Vì thế Ra-ma không thể chỉ cư xử với tự cách của một người chồng mà còn với tư cách của một vị anh hùng vừa chiến thắng kẻ thù một cách vinh quang và cao hơn nữa là tư cách của một đấng quân vương. Do vậy ta không thể trách Ra-ma quá lạnh lùng, tàn nhẫn, vì con người của giai cấp, con người của xã hội trong chàng buộc chàng phải cư xử như vậy với người vợ mà chàng trân trọng gọi là phu nhân cao quý.
Suy nghĩ của hoàng tử Ra-ma tiêu biểu cho quan điểm đạo đức của giai cấp quý tộc Ấn Độ thời đó. Tuy nhiên, nó cũng có những điều gần gũi với suy nghĩ của phần lớn đàn ông trong xã hội phong kiến với rất nhiều ràng buộc khắt khe. Đối với Ra-ma thì danh dự của bản thân, gia đình và dòng tộc là quan trọng nhất, cho nên dẫu yêu thương người vợ hiển thục, xinh đẹp đến mấy đi chăng nữa thì chàng vẫn phải chối từ vì không thể vượt lên trên dư luận.
Những lời nói của hoàng tử Ra-ma khiến Xi-ta tan nát cả cõi lòng; Nàng đau đớn đến nghẹt thở, như một dây leo bị vòi voi quật nát. Nghe những lời tố cáo chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Gia-na-ki xấu hổ cho số kiếp cửa nàng. Nàng muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nước mắt nàng đổ rà như suối. Lấy tà áo lau nước mắt, rồi bằng giọng nghẹn ngào, nức nở, nàng nói: Cớ sao chàng lại dùng những lời lẽ gay gắt khó tả như vậy đối với thiếp, giống như một kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp bèn? Thiếp đâu phải là người như chàng tưởng ! Thiếp có thể lấy tư cách của thiếp ra mà thề, hãy tin vào danh dự của thiếp. Suy từ hành vi của loại phụ nữ thấp hèn, chàng đã ngờ vực tất cả giới phụ nữ, nhưng như thế đâu có phải. Nếu chàng có hiểu biết thiếp chút đỉnh thì xin hãy từ bỏ mối ngờ vực không căn cứ đó đi…
Trong đau đớn và tủi nhục vì bị chổng nghi ngờ và từ bỏ, nàng Xi-ta xinh đẹp vẫn khẳng khái lạ lùng. Giống như hoàng tử Ra-ma, nàng cũng coi danh dự là điều cao quý nhất. Nàng không ngại ngẩn so sánh chàng với những kẻ thấp hèn vì nặng cho rằng chàng không nên nói những lời ngờ vực không căn cứ như vậy với nàng – một con người có dòng dõi cao quý khống kém gì chàng, bởi nàng chính là con gái của thần Đất Mẹ Pri-thi-vi được tôn thờ. Nàng (rách móc Ra-ma: Vì không thể suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp. Chàng không nghĩ đến vì sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp. Tình yêu của thiếp, lòng trung thành của thiếp nay xem ra hoàn toàn vô ích.
Trong cơn tuyệt vọng trước thái độ khó lay chuyển của hoàng tử Ra-ma Xi-ta chi còn cách duy nhất là nhờ thần Lửa A-nhi minh oan cho mình: Nếu con trước sau một lòng một dạ với Ra-ma thì cúi xin thần hãy tìm cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối, nhưng nếu con trong trắng, xin thần A-nhi phù hộ cho con. Dứt lời, nàng dũng cảm bước vào ngọn lửa đang rừng rực cháy của giàn hỏa thiêu.
Sự kính phục, ngưỡng mộ và tiếc thương của mọi người chứng kiến cảnh đó được miêu tả rất xúc động: Ai nấy, già cũng như trẻ, đau lòng đứt ruột xem nàng Gia-na-ki đứng trong giàn hỏa. Trước mặt mọi người, trang tuyệt thế giai nhân đó nạp mình cho lửa. Các bậc thánh, các chư thần nhìn Gia-na-ki bước vào lửa, chẳng khác một lễ vật trong lễ tế sinh.
Thấy nàng như vậy, như một thiên thần bị đuổi khỏi trời do một thần chú nguyền rủa, các phụ nữ bật ra tiếng kêu khóc thảm thương. Cả loài Rắc-sa-xa lẫn loài Va-na-ra cùng kêu khóc vang trời trước cảnh tượng đó.
Như vậy là đức hạnh trung trinh cùng lòng dũng cảm tuyệt vời của nàng Xi-ta đã làm chấn động cả thần thánh, con người và ma quỷ. Tất thảy đểu rơi lệ trước nỗi oan của nàng. Cuối cùng, đúng như lời cầu xin của Xi-ta, thần Lửa A-nhi đã giải oan và bảo vệ nàng nguyên vẹn.
Đoạn trích Ra-ma buộc tội giống như một màn kịch ngắn mà kịch tính được đẩy lên cao độ. Hai nhân vặt chính là Ra-ma và Xi-ta đều bị đặt trước những thử thách ngặt nghèo, đòi hỏi sự lựa chọn quyết liệt, bộc lộ sâu sắc cá tính và bản chất của mình. Hoàng tử Ra-ma đem hết sức mạnh và tài năng để chiến đấu với quỷ vương Ra-va-na để giành lại người vợ yêu quý, nhưng chàng cũng dám hi sinh tình yêu vì danh dự, bổn phận của một người anh hùng, một đức vua mẫu mực. Nàng Xi-ta xinh đẹp, trong trắng cũng là hình ảnh của một người phụ nữ lí tưởng. Nàng đã can đảm bước vào lửa để chứng minh tình yêu tha thiết cùng đức hạnh thủy chung của mình đối với hoàng tử Ra-ma cao quý.
Đề bài: Dàn ý Phân tích nhân vật Ra-ma và Xi-ta trong đoạn trích Ra-ma buộc tội
Dàn ý mẫu
I. Mở bài
– Giới thiệu vị trí và nội dung đoạn trích Ra-ma buộc: Đoạn trích thuộc phần cuối của sử thi Ramayana, cửa ải để tìm ra hạnh phúc của Ra-ma và Xi-ta
– Giới thiệu và đánh giá về hai nhân vật Ra-ma và Xi-ta: Là hai nhân vật trung tâm của đoạn trích. Vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật này trở thành biểu trưng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Ấn Độ.
I.. Thân bài
1. Nhân vật Ra-ma
a. Hoàn cảnh của cuộc tái hợp với Xi-ta
– Xi-ta phải đứng trước mọi người trong cộng đồng như một bị cáo.
– Ra-ma ngự trên ngôi như một vị thủ lĩnh, một quan tòa có quyền kết án.
– Ra-ma trong tư cách kép: một người chồng – một anh hùng, một đức vua
– Ra-ma trong ràng buộc kép: bổn phận người chồng nhưng vẫn phải giữ tròn bổn phận của một đức vua, anh hùng.
b. Tâm trạng của Ra-ma
* Trước lúc Xi-ta lên giàn hỏa thiêu
– Khi đứng trước cộng đồng:
+ Khẳng định chiến thắng và tài nghệ của mình.
+ Tuyên dương công trạng những người đã giúp đỡ mình.
→ Lời lẽ rành mạch, tự hào. Thể hiện tính công khai của sử thi.
– Khi đứng trước Xi-ta:
• Lời nói:
+ Xưng hô: ta -phu nhân, cách xưng hô trịnh trọng nhưng rất xa cách.
+ Nhấn mạnh mục đích chiến đấu không phải vì Xi-ta mà vì danh dự, phẩm giá của bản thân và cộng đồng “ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta…”
+ Bộc lộ nghi ngờ, ghen tuông về trinh tiết của Xi-ta: “nàng đã lưu lại lâu trong nhà kẻ xa lạ, đôi mắt tội lỗi của hắn hau háu nhìn nàng…”
+ Lăng nhục Xi-ta, không nhận làm vợ và đuổi nàng đi: “ta không ưng nàng nữa, ta không cần đến nàng nữa,…”
→ Lời nói lạnh lùng, tàn nhẫn
• Dáng vẻ, hành động:
+ Thấy người vợ xinh đẹp “lòng Ra-ma đau như cắt”.
+ Ra – ma đức hạnh nghe người nọ người kia thì thào bàn tán ngồi suy nghĩ ủ uê, thầm rỏ nước mắt
→ Thái độ đau đớn, xót xa.
→Có sự đối lập trong lời nói và dáng vẻ, hành động bởi Ra-ma đang đứng giữa thế phải chọn lựa giữa một bên là bổn phận của một quốc vương, một bên là tình yêu, hạnh phúc cá nhân.
* Khi Xi-ta lên giàn hỏa thiêu
– Kiên quyết không nói một lời, ngồi câm lặng “mắt dán xuống đất”
– Ra-ma tê dại “nom chàng khủng khiếp như thần chết”.
→ Một tâm lý phức tạp với nhiều cung bậc giằng xé trong con người Ra-ma: Anh hùng (cao thượng) >< Con người (mềm yếu)
⇒ Hoàn cảnh ngặt nghèo của Ra-ma: phải lựa chọn giữa tình yêu và danh dự . Chàng chọn danh dự, một con người đã hi sinh hạnh phúc cá nhân để bảo vệ đạo đức xã hội. Đó là một hình mẫu lý tưởng của người anh hùng thời xưa.
⇒ Ra-ma không lạnh lùng cũng không ghen tuông, tàn nhẫn. Chàng hành động như vậy để thực hiện bổn phận cai trị của một quốc vương, lòng trung thành tuyệt đối với bổn phận
c. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Rama:
– Chú ý tới lí trí mạnh mẽ đến cực đoan trong nhân vật.
– Xây dựng nhân vật không chỉ trong lời nói, hành động mà còn trong tính cách (ghen tuông, ngờ vực,…)
– Đi gần đến nghệ thuật xây dựng nhân vật văn học hiện đại: không công thức, ước lệ mà sinh động, hấp dẫn.
2. Nhân vật Xi-ta
a. Hoàn cảnh của Xi-ta
– Xa chồng, quỷ vương dụ dỗ, nàng phải đấu tranh để giữ trinh tiết.
– Được giải cứu, nàng rất vui mừng và hạnh phúc.
b. Phản ứng trước những lời buộc tội của Rama
– Đứng lặng hồi lâu không thốt nên lời, mở tròn xoe đôi mắt đẫm lệ
→ Sự ngạc nhiên tột độ
– Thân thể héo hon như dây leo bị vòi voi quật nát
→ Đau đớn, xót xa
– Nước mắt đổ ra như suối, nghẹn ngào, nức nở, muốn chôn vùi cả hình hài lẫn thân xác.
→ Xấu hổ, nhục nhã
c. Sự thanh minh của Xi-ta
– Lời lẽ
+ Lấy tư cách của mình ra để thề: “hãy tin vào danh dự của thiếp”
+ Thanh minh cho mình bằng cách đổ cho số phận mình: “Số phận của thiếp đáng chê trách”
+ Trách móc, phê phán Ra-ma đã “không thể suy xét chín chắn” mà đánh đồng nàng với hạng phụ nữ tầm thường.
+ Khẳng định tình yêu dành cho Ra-ma: “trái tim thiếp thuộc về chàng”.
+ Nêu nguồn gốc xuất thân cao quý: con của “nữ thần Đất mẹ”, kiêu hãnh và trong trắng
→ Cách lập luận của Xi-ta chặt chẽ, vừa có lí vừa có tình, có sự tự tin vào lí trí, phẩm giá mà cũng có nước mắt của nỗi yêu thương tha thiết nay bị nghi ngờ. Xi-ta là một người phụ nữ lí trí, đức hạnh và chung thủy.
– Hành động tự thiêu của Xi-ta
+ Xi-ta đi quanh Ra-ma, cúi lậy chư thần, đấng Bra-ma, cầu xin sự chứng giám của thần Lửa A-nhi.
+ Xi-ta dũng cảm chấp nhận cái chết để chứng minh cho sự chung thủy, cho tình yêu, cho phẩm hạnh của mình.
+ Thái độ của người xung quanh: ai nấy đều đau lòng đứt ruột, các phụ nữ kêu khóc thảm thương,..thể hiện lòng thương cảm, sự tin tưởng vào nhân cách của Xi-ta
+ Yếu tố kì ảo: Xi-ta nhảy vào lửa nhưng không chết bởi nàng được thần linh che chở và chứng giám cho sự chung thủy
⇒ Xi-ta là một người phụ nữ đức hạnh, bất khuất thủy chung, giàu lòng tự trọng. Xứng đáng là một hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ Ấn Độ thời xưa.
d. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Xi-ta.
– Miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật
– Khắc họa nhân vật trong lời nói, hành động
– Sử dụng yếu tố kì ảo để khắc họa vẻ đẹp nhân vật
I.I. Kết bài
– Khái quát về phẩm chất, tính cách của hai nhân vật và nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật
– Thể hiện suy nghĩ, thái độ về hai nhân vật này: trân trọng, ngợi ca, tôn kính.
Đề bài: Phân tích nhân vật Ra-ma và Xi-ta trong đoạn trích Ra-ma buộc tội
Bài văn mẫu
Tác phẩm Ra-ma-ya-na có ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Đây là một trong những bộ sử thi vĩ đại nhất của Ấn Độ nói riêng và của thế giới nói chung. Đoạn trích Ra-ma buộc tội nằm ở khúc ca thứ 6 chương 79 với tình huống truyện hết sức đặc sắc qua đó thể hiện được những phẩm chất, tính cách của hai nhân vật chính là Ra-ma và Xi-ta.
Ra-ma hiện lên là một người anh hùng, kiên cường, dũng cảm đã đánh bại quỷ vương để cứu người vợ thân yêu của mình trở về. Trong đoạn trích, Ra-ma còn hiện lên với những phẩm chất, tính cách khác mà trước hết là tình yêu với vợ. Tình yêu đó được thể hiện ở quyết tâm đi cứu vợ khỏi quỷ vương Ra-va-na. Vợ rơi vào tay kẻ thù chắc chắn một người chồng sẽ đi cứu vợ và Ra-ma cũng không phải một ngoại lệ. Chàng cứu được Xi-ta vừa vui, vừa lo âu, buồn bã. Tình yêu còn được thể hiện trong sự ghen tuông rất đỗi đời thường, vợ rơi vào tay một người đàn ông khác lâu như vậy, nếu yêu vợ chẳng có ai lại không ghen, lời nói, hành động ruồng bỏ của Ra-ma cũng là vì lẽ ghen tuông ấy mà ra. Ngoài ra, tình yêu của chàng với Xi-ta còn được thể hiện ở nỗi lòng của Ra-ma khi phải buộc tội vợ, lòng chàng đau như cắt, mỗi lời chàng nói ra như có trăm ngàn vết dao cứa vào tim. Nhưng chàng không thể làm điều gì khác ngoài lời buộc tội ấy, bởi ngoài tư cách là một người chồng, chàng còn là vị quân vương tương lai sau này.
Những bên cạnh đó, Ra-ma còn hiện lên với tư cách công dân, vị quân vương tương lai, trọng danh dự, nhân phẩm. Bởi vậy dẫn đến hành động quyết liệt từ bỏ vợ. Hành động của Ra-ma cho thấy chàng luôn luôn đứng trên quyền lợi của cộng đồng để ra quyết định, điều đó cho thấy Ra-ma là người biết nhìn xa trông rộng, bởi lẽ yêu thương luôn đi liền với danh dự, bỏ mất danh dự tình yêu thương chỉ còn là sự thương hại. Điều này khiến cho trong Ra-ma nảy sinh mẫu thuẫn một mặt muốn yêu thương, bảo vệ Xi-ta mặt khác lại muốn bảo vệ danh dự dòng dõi. Tuy có xung đột như vậy nhưng quyết định cuối cùng vẫn phải trên lập trường nhân vật, cộng đồng. Đây chính là vẻ đẹp nói chung của các vị anh hùng trong sử thi, đặt quyền lợi cá nhân sau quyền lợi cộng đồng, kiên quyết bảo vệ danh dự đến cùng.
Về phía Xi-a nàng cũng mang trong mình nhiều phẩm chất tốt đẹp. Đầu tiên phải kể đến là tình yêu, sự thủy chung của nàng với Ra-ma. Trong những ngày bị quỷ vương bắt nàng luôn giữ gìn tiết hạnh, không cho quỷ vương động đến người mình, bởi cả thể xác và tâm hồn nàng đều thuộc về Ra-ma. Khi Ra-ma đánh thắng quỷ vương, nhận được tin đó Xi-ta nóng lòng muốn gặp lại ngay người chồng yêu thương của mình. Nàng bỏ cả điểm trang, nàng bỏ qua tục lệ tắm rửa vì muốn đến gặp chồng cho nhanh. Việc làm đó chứng tỏ tình yêu nồng nhiệt, cháy bỏng Xi-ta giành cho chồng.
Nhưng đồng thời nàng cũng là một phụ nữ hết sức thông minh, hành động kiên quyết để chứng minh phẩm giá, sự trong sạch của bản thân. Khi gặp chồng nàng phải đứng trước không gian cộng đồng, ngay lập tức nàng đã hiểu ý nghĩa cuộc gặp gỡ này, nàng tỏ ra vô cùng khiêm nhường trước Ra-ma. Bị Ra-ma đặt vào tình thế bất ngờ, từ niềm mong mỏi được gặp chồng nàng bỗng bị đặt trước những lời phán xét cay nghiệt của chính người mà mình yêu thương, nàng đã đưa ra những lí lẽ để chứng minh sự trong sạch của bản thân.
Lập luận của nàng hết sức chặt chẽ, có trước có sau, giọng điệu từ tốn mà vô cùng kiên quyết. Nàng trách Ra-ma đã không suy xetsm đánh đồng nàng với những phụ nữ tầm thường: “giống như kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp hèn”. Và nàng khẳng định phẩm hạnh, tư cách của mình, với những lời lẽ thanh minh hết sức sắc sảo “Ra-va-na đã đụng đến thiếp khi mà thiếp đang chết ngất đi, làm thế nào tránh được”, còn khi nàng tình táo, nằm trong tầm kiểm soát thì “trái tim thiếp đây, là thuộc về chàng”. Những lập luận đanh thép vừa cho thấy tình yêu với Ra-ma vừa cho khẳng định sự trong sạch của Xi-ta. Xi-ta thay đổi cách xưng hô, khi gọi Ra-ma là chàng tự xưng mình là thiếp, khi lại gọi Ra-ma là đức vua. Không chỉ vậy, lời thoại của nàng còn hướng đến những người xung quanh, như một cách để thanh minh, bào chữa cho chính mình.
Nhưng lời bào chữa cũng không thể lấy được niềm tin của Ra-ma, nàng đi đến một hành động kiên quyết, đặt cược cả mạng sống của mình bằng cách tự thiêu, nhờ thần lửa A-nhi chứng minh cho sự trong sạch của bản thân. Nàng bước lên tự tin, không chút sợ hãi, bởi nàng trong trắng, vô tội nên các vị thần linh sẽ chứng giám cho sự trong trắng toàn vẹn của nàng. Với hành động đó, Xi-ta vừa chứng minh được trước toàn thể cộng đồng sự trong sạch, nhân phẩm cao quý của mình, vừa loại bỏ mọi sự ghen tuông đang ngùn ngụt trong lòng Ra-ma. Hành động của Xi-ta còn cho thấy, tự bản thân nàng cũng ý thức được trách nhiệm công dân của mình trong cộng đồng. Bởi vậy nàng phải tìm mọi cách để chứng minh, bảo vệ danh dự cá nhân, danh dự cộng đồng. Ý thức về danh dự, nhân phẩm chính là yếu tố qua trọng nhất ở cả Ra-ma và Xi-ta.
Để tạo nên thành công trong việc xây dựng hai nhân vật ta cần phải kể đến nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc, giúp các nhân vật bộc lộ phẩm chất bản thân. Ngôn ngữ nhân vật tài tình, tinh tế giúp diễn tả được tâm trạng nhân vật. Ngôn ngữ thường tập trung thuyết giảng đạo đức dựa trên lí tưởng cộng đồng. Nghệ thuật so sánh được vận dụng linh hoạt, giúp tái hiện tâm lí nhân vật.
Với tình thế, thử thách ngặt nghèo đặt ra cho cả Ra-ma và Xi-ta tác giả đã giúp người đọc khám phá những nét tính cách đẹp đẽ trong hai nhân vật. Đó là tình yêu tha thiết, sâu nặng, là ý thức về vai trò của bản thân trong tập thể, cộng đồng. Hai nhân vật là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của người Ấn Độ.
Bài văn mẫu
Đoạn “Ra-ma buộc tội” trích trong khúc ca thứ 6, chương 79 sử thi Ra-ma–ya-na. 78 chương trước kể lại dòng dõi, cuộc đời của Ra-ma, 13 năm đi đày và cuộc chiến tranh đánh thắng quỷ vương Ra-va-na để cứu nàng Xi-ta xinh đẹp. Lúc giải phóng đảo Lan-ka, Ra-ma cùng đoàn quân ca khúc khải hoàn thì hạn đi đày 13 năm gần kết thúc. Bỗng Ra-ma nổi cơn ghen tuông dữ dội. Trong chương 79, Ra-ma dùng những lời lẽ nặng nề, gay gắt buộc tội Xi-ta. nghi ngờ nàng về sự trong trắng, thúy chưng của nàng Xi-ta bước vào giàn lửa của thần An-hi để chứng minh tất cả… Ra-ma chia tay các chiến hữu. chàng cùng em trai và vợ dùng chiếc thiên xa bay về kinh đô Kô-sa-la..
Chương 79 khắc họa thêm một nét đẹp về con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya (vương công, quý tộc, võ sĩ) và đức nghĩa trung hậu, đoan trang của người phụ nữ cao quý.
– Ra-ma ghen tuông
Khi Xi-ta đã khiêm nhường đứng trước Ra-ma, chàng nói với vợ một cách mỉa mai: “Hởi phu nhân cao quý”. Quan hệ vợ – chồng hầu như không còn nữa.
Cuộc giao tranh đã kết thúc, theo Ra-ma đó là nghĩa vụ và tài năng đã hoàn thành: “Ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống” – nghĩa là nàng bị Ra-va-na bắt cóc chứ không phải đi theo hắn, “cơn giận ta đã hả, và cơn ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta”. Ra-ma đã sống vì một nguyên lí đạo đức của đẳng cấp Kơxatrya của mình: “kê nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra để trả thù, là kẻ tầm thường”. Ra-ma cũng dành những lời tốt đẹp nhất để ca ngợi Ha-nu-man và Vi-phi-sa-na – hai chiến hữu tài ba, cao cả của mình.
Trước nhan sắc của Xi-ta: “khuôn mặt bông sen”, “những cuộn tóc cuộn sóng” và những giọt lệ của nàng, lòng Ra-ma “đau như cắt”, nghĩa là chàng vẫn say đắm Xi-ta. Nhưng danh dự là trên hết, là tất cả, bởi lẽ người anh hùng “sợ tai tiếng”. Phải kết thúc chiến tranh là vì nhân phẩm, là để “xóa bò vết ô nhục vi sợ uy tín và danh dự của dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của mình”.
Ra-ma không thế “nhận nàng về”, “không ưng có nàng nữa” vì nàng đã lưu lại tại nhà một kẻ xa lạ, vì Ra-va-na với “đôi mắt tội lỗi… hau háu nhìn khắp người nàng” nghĩa là nàng thất thân với hắn, cho nên Ra-ma phải nghĩ đến “gia đình cao quý” đã sinh ra mình.
Tóm lại, Ra-ma vẫn còn yêu Xi-ta xinh đẹp nhưng vì danh dự, nhân phẩm của người anh hùng, của dòng họ cao quý mà chàng phải buộc tội Xi-ta, chấm dứt quan hệ vợ chồng với nàng: “Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tùy nàng, ta không ưng có nàng nữa”. Ra-ma cảm thấy xấu hố bị xúc phạm; khi trông thấy Xi-ta thì “không chịu nổi”, “chẳng khác ánh sáng với người bị đau mắt”. Ra-ma ghen tuông buộc tội không phải vì mù quáng mà trái lại, ghen tuông và buộc tội vì nhân phẩm, danh dự, một nét tính cách của con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya cao quý trong xã hội Ấn Độ thời đại cổ đại.
– Nàng Xi-ta
Xi-ta được miêu tả trong chiều sâu của bi kịch về tình yêu và danh dự.
Nàng đau khổ vì bị oan, bị xúc phạm. Nàng “đau đớn nghẹn thở”. Nàng xấu hổ cho số kiếp của nàng”, nàng muốn chết ngay “muốn tự chôn vùi cả cái hình hài của mình”. Nàng vô cùng đau đớn trước những lời buộc tội của Ra-ma, nàng cảm thấy hình như muôn nghìn mũi tên “xuyên vào trái tim nàng”. Nàng khóc, “nước mắt nàng đổ ra như suối”.
Xi-ta đoan trang và bình tĩnh bác bỏ mọi lời buộc tội của Ra-ma. Nàng khẳng định: “Trái tim thiếp đây, thuộc về chàng”. Chàng chưa hiểu được thiếp qua tình yêu và tâm hồn thiếp. Chàng tự hào về dòng dõi cao quý thì thiếp có kém gì: “đất là mẹ của thiếp”. Nếu Ra-ma mỉa mai gọi Xi-ta là “phu nhân cao quý” thì Xi-ta cũng đàng hoàng đáp lại: “Hỡi đức vua” và trách “cớ sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp?”.
Xi-ta nhảy vào giàn hỏa thiêu là một cảnh vô cùng bi tráng. Ai đã từng mục kích điệu múa “Nàng Xi-ta”? Ra-ma “khủng khiếp như Thần chết!”. Các thánh thần tự hào nhìn Xi-ta nhảy vào lửa “chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh”. Đông đảo phụ nữ thì “chẳng khác nào một đồ củng trong lễ tế sinh”. Đông đảo phụ nữ thì “kêu khóc thảm thương”. Loài ma quỷ như Va-na-ra, Paksaxa cũng “kêu khóc vang trời”.
Hình ảnh Xi-ta đàng hoàng tự tin. Nàng “lượn quanh” Ra-ma như để chào vĩnh biệt. Nàng lạy chư thần cao quý thiêng liêng. Nàng cất lời nguyền với thần A-nhi: khẳng định mình bị oan, một phụ nữ trinh tiết bị coi như một kẻ gian dối; tự hào về lòng trong trắng thủy chung trong tình yêu; cúi xin Thần “bảo vệ con”, “phù hộ con”.
Ta hãy nghe lời nguyện cầu của nàng Xi-ta: “Nếu con trước sau một lòng dạ với Ra-ma thì cúi xin Thần hãy tìm hét cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối; nhưng nếu con trong trắng xin thần A-nhi phù hộ cho con”.
Đọc sử thi Ra-rna-ya-na ta như thấy ngọn lửa sáng rực bừng ánh mặt trời, nàng Xi-ta lộng lẫy kiều diễm múa như bay theo ánh lửa, thần lửa A-nhi minh chứng và cứu sống nàng. Ra-ma dang đôi cánh tay đón Xi-ta, nước mắt chan hòa sung sướng, vừa ân hận, vừa tự hào.
Bài văn mẫu
Xi-ta là một người phụ nữ được lí tưởng hóa: thông minh, chung thủy, giàu lòng tự trọng, tự tin và vô cùng can đảm.
Phẩm chất thông minh ở nàng thể hiện trước hết ở sự linh cảm. Nóng lòng đến gặp chồng sau khi được chồng cứu thoát khỏi bàn tay nhơ bẩn của quỷ vương Ra-va-na, nhưng “Gia-na-ki mở tròn đôi mắt đẫm lệ” nhìn Ra-ma không chỉ là vì thất vọng (cái mà Xi-ta chờ ở chồng là sự âu yếm của cuộc đoàn viên). Sự mẫn cảm ở Xi-ta dường như mách bảo điều gì ghê gớm, rất hệ trọng với nàng sắp sửa diễn ra. Một cơn bão chỉ giây phút nữa thôi sẽ bất ngờ đổ ập xuống mà dấu hiệu của nó lúc này là sự im lặng rất đáng nghi ngơ. Tai Xi-ta nghe Ra-ma nói mà trí tuệ nàng đã đọc ra những ý nghĩa ở ngoài lời. Bao nhiêu những dấu hiệu không lành giúp cho Xi-ta nhận biết. Nào là chính chàng đã cứu thoát cho nàng. Điều này đã quá rõ ràng nên thật là khó hiểu. Bởi thật ra cứu vợ tai qua nạn khỏi là nghĩa vụ muôn đời của mọi người đàn ông chân chính, chưa nói là người quyền quý như Ra-ma. Vậy mục đích của nó là gì? Nào là tại sao gặp nàng, đối thoại với nàng. Ra-ma chỉ nhắc đến những nhân vật không quan trọng (so với bản thân nàng) là Ha-nu-man và Vi-phi-sa-na? Cũng là còn chưa nói đến sự lảng tránh của chính Ra-ma trong đôi mắt có phần thảng thốt của chàng lúc nhìn Xi-ta (mà người dẫn truyện nhận thấy và miêu tả: “lòng Ra-ma đau như dao cắt”), hoặc cách xưng hô bằng cách các đại từ nhân xưng trang trọng là “phu nhân cao quý” nữa,…
Chỉ người vợ yêu chồng mới cảm nhận được nỗi đau khi tình yêu của mình bị chính người chồng làm thương tổn. “Đôi mắt đẫm lệ” của Xi-ta nhìn chồng là đôi mắt bi thương. Bởi lẽ với Xi-ta, điều cao quý và thiêng liêng nhất là tình yêu với chồng. Ngay cả vẻ đẹp thể chất của nàng mà trời phú cho cũng là vì tình yêu ấy. Và bây giờ vẻ đẹp ấy đang sáng lên, đang chờ đợi như một lần trước đây chờ đợi. Chỉ có điều lúc này nó trở nên lạc lõng biết bao. Nó đã là một nghịch cảnh thật trớ trêu khi tình yêu ở chàng đã hết. Nhưng điều đó đầu tiên mới chỉ là cảm giác thoáng qua. Chỉ sau khi nghe hết lời luận tội của Ra-ma, Xi-ta “đau đớn đến nghẹt thở, như một cái dây leo bị vòi voi quật nát”. Tác giả đã sử dụng phép so sánh để đặc tả nỗiđau của Xi-ta. Rồi cả một trường đoạn tiếp theo như những con sóng ào ạt miêu tả cảnh xô đẩy dập vùi. Mỗi lời nói của Ra-ma nhằm vào Xi-ta như những mũi tên trúng đích. Nàng bị săn đuổi đến cùng: “nghe những lời tố cáo chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Gia-na-ki xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng muốn tựchôn vùi cả hình hài thân xác của mình…” Rồi sau đó, lời biện minh của Xi-ta một phần dựa vào lí lẽ, nhưng đến hai phần lại dựa vào tình yêu. Cái lí lẽ ấy thuộc về hoàn cảnh khách quan, bị động (Ra-va-na bắt cóc khi Xi-ta sợ chết khiếp mà ngất đi).Còn tình yêu của nàng thì chưa bao giờ thay đổi. Đó mới là vũ khí, là sức mạnh của nàng để qủy vương không sao chiếm đoạt nổi: “chỉ có số mệnh của thiếp là đáng bị chê trách, nhưng những gì nằm trong vòng kiểm soát của thiếp, tức trái tim thiếp đây là thuộc về chàng”. Thật đáng kiêu hãnh, tự hào khi người phụ nữ có trái tim son sắt ấy!
Trong mối tương quan, Xi-ta ở vào một cái thế không ngang bằng với Ra-ma.
Nàng đang bị phán xét và trước mắt Ra-ma, nàng là người mắc trọng tội (tội không chung thủy), nhưng chưa một lúc nào Xi-ta cảm thấy mình đuối sức để cần đến một sự cầu xin. Có hai niềm tin mà Xi-ta dựa vào. Một là nguồn gốc xuất thân cao quý của nàng cũng y hệt như Ra-ma. Thứ hai, nàng tin vào trái tim của mình như tin vào hi vọng. Lòng tin ấy dõng dạc cất lên: “Hỡi Đức vua! Như một người thấp hèn bị cơn giận giày vò, Người đang nghĩ về thiếp như một phụ nữ tầm thường. Tên thiếp là Gia-na-ki, bởi vì thiếp có liên quan đêía lễ tế sinh của nhà vua Gia-na-ka… Vì không thể suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp… Tình yêu của thiếp, lòng trung thành của thiếp nay xem ra hoàn toàn vô ích!”. Nói đến điều này, Xi-ta òa khóc như một người chịu oan ức. Nàng mới là kẻ đáng thương chứ không phải Ra-ma là kẻ đáng thương.
Hành xử cuối cùng của Xi-ta là bước vào giàn lửa.
Trong tín ngưỡng của đạo Bà La Môn thì thần lửa A-nhi giữ vai trò phán xét tối cao. Lấy cái chết để giải oan là một mô típ nghệ thuật trong văn học bác học và văn học dân gian nhiều nước, nhất là các nước phương Đông. Nhưng có điều trong lời khấn thần linh, nhận ra hai giải pháp sóng đôi: nếu trong sạch thì thế này còn nếu không thì thế khác. Biết rất rõ tấm lòng mình là một dạ kiên trinh, Xi-ta cần đến thần Lửa A-nhi như một sự bao dung, che chở chứ không phải là sự phán xét đúng, sai. Tâm thế của Xi-ta vì thế mà bình tĩnh đến lạ lùng. Trong lúc ấy, mọi người lại đinh ninh là nàng sẽ chết, vì oan ức mà chết. Chính sự so le của hai thế giới quan (một thần thoại và một hiện thực) đã làm cho hành vi tử vì đạo của Xi-ta đột ngột thăng hoa trong sự cao cả tuyệt vời. Một chấn động tinh thần ghê gớm của những người chứng kiến đã xảy ra không gì kiềm giữ nổi cũng là một lẽ đương nhiên khi tiễn biệt một tâm hồn cao cả về với thần linh vĩnh viễn. Nhưng thần Lửa A-nhi đã giải thoát cho nàng. Kết thúc đầy chất lãng mạn này là sự gửi gắm một niềm tin, niềm hi vọng của con người.
Đề bài: Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật nàng Xi-ta trong đoạn trích Ra-ma buộc tội
Bài văn mẫu
Ra-ma-ya-na là bộ sử thi, niềm tự hào của người Ấn Độ. Người dân Ấn Độ tin rằng “chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì Ra-ma-ya-na còn mãi làm say lòng người và cứu họ ra khỏi vòng tội lỗi”. Một nhà nghiên cứu phương Tây từng miêu tả về Ra-ma-ya-na: “Đó là tác phẩm chan chứa những âm điệu du dương, toát ra mội bầu không khí yên lành và một tình yêu thương vô bờ bến trong hoàn cảnh xã hội đầy sự mâu thuẫn và xung đột” (Michelet).
Một trong những hiện thân của vẻ đẹp làm say lòng người ấy là nhân vật Xi-ta. Nàng không chỉ là hình ảnh bổ sung cho sự kì vĩ của người anh hùng Ra-ma mà còn là minh chứng cho vẻ đẹp chân thực, toàn mĩ của người phụ nữ Ấn, từ hình dáng bên ngoài đến những phẩm chất tâm hồn bên trong.
Vẻ đẹp của nàng luôn được miêu tả gắn liền với cụm từ “gương mặt bông sen” – đó là chi tiết ngoại hình luôn được láy đi láy lại trong tác phẩm. Hoa sen hay bông sen là biểu tượng của vẻ đẹp chuẩn mực, vẻ đẹp của cả hình dáng bề ngoài và chiều sâu nội tâm trong quan niệm thẩm mĩ của người Ấn Độ. Khuôn mặt bông sen, đôi mắt hình hoa sen… là những hình ảnh miêu tả quen thuộc về người phụ nữ trong văn học Ấn Độ. Miêu tả nàng bằng chi tiết ấy, dường như ngay từ đầu, người kể đã khẳng định vẻ đẹp toàn mĩ ở nàng.
Và vẻ đẹp toàn mĩ ấy cũng đã được thử thách trong suốt chiều dài các sự kiện của câu chuyện. Song lần thử thách cuối cùng nghiệt ngã nhất nhưng đồng thời cũng vinh quang nhất là sự kiện Ra-ma buộc tội nàng và nàng bước lên giàn lửa. Chương 78 kể lại những diễn biến đầy kịch tính của sự kiện này.
Đọc chương truyện cùng với những cảm thương trước nỗi oan uổng của nàng, ta còn có thể sẻ chia cùng nàng cái cảm giác bị ruồng bỏ, dù rằng đằng sau sự ruồng bỏ ấy là tình yêu. Và có lẽ, đó chính là dấu ấn bi kịch trong bộ sử thi tràn ngập cảm xúc ngợi ca này.
Ta có thể hiểu tâm trạng của Ra-ma trong những lời buộc tội Xi-ta: ban đầu vì sợ tai tiếng, về sau là cảm giác nghi ngờ, ghen tuông. Trong lời nói có đầy đủ sự giận dữ, sự ghẻ lạnh, sự xúc phạm và lăng nhục của chàng vẫn có tình yêu. Nhưng chính tình yêu lại càng làm cho những lời nói của chàng trở nên độc ác. Chàng đã không chỉ buộc tội nàng, chàng đã xúc phạm và hơn thế, lăng nhục nàng bằng những lời lẽ nặng nề nhất. Và Xi-ta đã nghe, đã cảm nhận được tất cả những trạng thái tình cảm ấy ở chồng mình. Còn gì đau đớn hơn khi người thân yêu nhất của mình lại xúc phạm mình nặng nề đến thế?
Trước lời buộc tội của chồng, nàng Xi-ta trái tim tan nát, đau đớn đến nghẹn thở, xấu hổ cho số kiếp…, nghĩa là nàng phải trải qua một loạt những cảm xúc của nỗi đau, nỗi tủi nhục, nàng phải tự minh oan cho mình. Và nàng quả thật thông minh khi lần lượt chứng minh những ngờ vực cùa Ra-ma là không căn cứ. Nàng lấy danh dự, rồi nguồn gốc xuất thân, lòng trung thành, tình yêu của mình để làm minh chứng. Nhưng, tất cả dường như đều không đủ, đều vô nghĩa trước cơn giận dữ cùa Ra-ma. Chàng ngồi đó, “trông khủng thiếp như thần chết vậy”. Tình huống sử thi, tính cách nhân vật sử thi hay tâm lí con người bình thường đả chi phối diễn biến của chuyện, chi phối tâm trạng của Ra-ma? Chàng Ra-ma cao quý khi ấy có khác gì những con người bình thường, tầm thường nhất?
Thái độ của Ra-ma đã tạo nên hoàn cảnh bi thảm của Xi-ta buộc nàng phải chứng minh bằng hành động thuyết phục cuốỉ cùng: bước lên giàn lửa. Thần lửa A-nhi sẽ là minh chứng cuối cùng, đủ sức thuyết phục nỗi nghi ngờ khổng lồ trong tâm hồn của chồng nàng. Lúc này, cho dù lâm vào hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, ở nàng vẫn ngời lên một tình yêu thủy chung, trong sáng.
Có lẽ, chính tình yêu ấy làm nên lòng dũng cảm của nàng. Nàng bước vào ngọn lửa trong sự kêu khóc vang trời của muôn loài, trong nỗi thương xót cực độ của những người chứng kiến.
Thần lửa A-nhi đã khẳng định sự trong trắng của nàng: “Hỡi Ra-ma, Gia- na-ki của người đây. Nàng trong trắng. Nàng không phạm bất cứ tội lỗi nào, bằng lời nói, việc làm, hay ý nghĩ” (Dẫn theo SGK Ngữ văn 10, tập 1)
Sự trong trắng của nàng là sự trong trắng tuyệt đích. Cho dù bị xúc phạm, bị lăng nhục nhưng tình cảm của nàng, sự thủy chung của nàng vẫn không hề thay đổi. vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp của một tấm gương mà bất cứ một người phụ nữ nào trên trái đất này đều có thể soi và tự hoàn thiện mình. Nàng trở về trong vòng tay của Ra-ma sau sự chứng minh khóc liệt nhất. Đó là sự khẳng định cao nhất phẩm chất của nàng của sử thi.
Sức hấp dẫn của sử thi Ấn Độ một phần là bởi trong vẻ đẹp cùa huyền thoại vẫn lấp lánh những tính cách rất con người. Nhưng với Xi-ta, vẻ đẹp huyền thoại và vẻ đẹp con người dường như hoàn toàn thống nhất. Đó phải chăng là lời ngợi ca đẹp nhất về nàng.
Tuy thế, cảnh tượng bi tráng về nàng, nỗi đau của nàng vẫn còn để lại những dấu ấn không phai trong lòng người đọc. Nàng là biểu tượng của vẻ đẹp nhưng cũng là nỗi đau xót mà một người phụ nữ có thể gặp trong cuộc đời mình. Nhưng hơn hết, tình yêu vẫn luôn là phép màu kì diệu làm cho thế giới mãi mãi tốt đẹp hơn. Xi-ta là biểu tượng của sự hoàn thiện, hoàn mĩ về cả hình thức, tâm hồn và tình yêu cao cả. Nhưng bi kịch của nàng cũng tiêu biểu cho những gì mà người phụ nữ có thể gặp phải trong thế giới này.
Không khí trong lành và tình yêu thương vô bờ bến toát ra từ những trang sử thi Ra-ma-ya-na chính bởi vẻ đẹp thẳm sâu của nữ nhân vật: nàng Xi-ta.