Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây
Xem thêm các sách tham khảo liên quan:
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 Cực Ngắn
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1 Nâng Cao
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2 Nâng Cao
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 2
Đề bài: Phân tích bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca
Bài làm
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả: Thanh Thảo là nhà thơ luôn có nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội, ông là một trong số những nhà thơ luôn nỗ lực cách tân thơ Việt bằng việc đề cao trực cảm, đổi mới hình thức diễn đạt của thơ.
– Giới thiệu tác phẩm: là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ nhuốm màu sắc tượng trung, siêu thực của Thanh Thảo.
II. Thân bài
– Bài thơ thể hiện sự đồng cảm của tác giả với Lor – ca, người nghệ sĩ tự do và cô đơn, dù bị chết oan khuất vẫn hiên ngang.
1. Nhan đề và lời đề từ
– Nhan đề: Đàn ghi ta là niềm tự hào của Tây Ban Nha (hay còn gọi là Tây Ban Cầm), nó là hình ảnh của Lor – ca và những sáng tạo nghệ thuật của ông – một người nghệ sĩ thực thụ dùng lời thơ và tiếng đàn để ngợi ca tự do.
– Lời đề từ được trích trong bài thơ Ghi nhớ của Lor – ca, thể hiện sự gắn bó của Lor – ca với cây đàn – nghệ thuật, mặt khác Lor- ca muốn người đời sau hãy vượt qua những thành tựu nghệ thuật của mình sáng tạo những điều mới hơn.
2. Người nghệ sĩ tự do đơn độc – Lor – ca (6 dòng đầu)
– 2 câu thơ đầu gợi liên tưởng đến không gian Tây Ban Nha với những nét đặc trưng: tiếng đàn truyền thống, những trận đấu bò tót.
+ Tuy nhiên hình ảnh “tiếng đàn” đặt cạnh hình ảnh “bọt nước”: nghệ thuật của Lor – ca lung linh như bọt nước, nhưng lại có thể vỡ tan bất cứ lúc nào, đó cũng là số phận ngắn ngủi của Lor – ca.
+ “áo choàng đỏ gắt”, gợi hình ảnh đấu trường, cuộc đấu tranh gay gắt giữa một bên là khát vọng tự do, một bên là bọ phát xít độc tài.
– Trong cuộc đấu tranh, Lor – ca như một người hùng đơn độc đi trên hành trình đấu tranh cho tự do với vũ khí là nghệ thuật và lòng yêu tự do.
– Chuỗi âm thanh “li la li la li la”: đây có thể là âm thanh tiếng đàn, cũng có thể là hình ảnh những vòng hoa li – la (tử đinh hương) của thảo nguyên Tây Ban Nha.
3. Cái chết oán khuất và bi phẫn của Lor – ca (12 câu tiếp)
– “Tây Ban Nha/ hát nghêu ngao”: hình ảnh người nghệ sĩ Lor – ca say sưa với ca từ ngợi ca tự do trên quê hương.
– “bỗng kinh hoàng/ áo choàng bê bết đỏ”: cái chết bi thảm đột ngột ập đến với Lor – ca. Cái chết ấy khiến cả “Tây Ban Nha” “kinh hoàng” bởi bọ phát xít độc tài đã giết chết một người hùng đấu tranh cho tự do, dân chủ của đất nước Tây Ban Nha.
– “Lor – ca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như người mộng du”: hình ảnh hiên ngang của Lor – ca khi cận kề cái chết, chàng chỉ say mê với những cách tân nghệ thuật chân chính.
4. Hình ảnh tiếng ghi – ta
– Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, kết hợp từ ngữ, hình ảnh độc đáo
– “tiếng ghi – ta nâu bầu trời cô gái ấy”: màu nâu là màu của vỏ đàn, của đất đai quê hương, màu của làn da, mái tóc, đôi mắt của cô gái. Câu thơ là ẩn dụ về tình yêu thương.
– “tiếng ghi ta lá xanh”: sức sống mãnh liệt của nghệ thuật, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”: sự lung linh mong manh của nghệ thuật, cuộc đời người nghệ sĩ.
– “tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy”: cái chết bi thảm, đau đớn của nghệ thuật, thể hiện sự phẫn uất với chế độ phát xít độc tài và sự thương xót với người nghệ sĩ.
5. Sự vĩnh hằng của nghệ thuật
– “không ai chôn cất … mọc hoang”: có thể hiểu không ai có thể vượt qua nghệ thuật Lor –ca, không ai bước tiếp trên hành trình cách tân mà bỏ “hoang” nghệ thuật. Mặt khác, có thể hiểu, đó là sự bất diệt của nghệ thuật chân chính, dù Lor – ca chết nhưng nghệ thuật của chàng vẫn sinh sôi, phát triển.
– “giọt nước mắt” là sự tiếc thương, “vầng trăng” là niềm tin nghệ thuật, dù ở nơi tối tăm sâu thẳm thì tâm hồn trong sáng của người nghệ sĩ vẫn soi tỏ cho thế hệ sau.
– Lor – ca đã mất “đương chỉ tay đã đứt”, chàng giã từ cuộc đời hữu hạn để đến thế giới vô hạn bằng phương tiện “chiếc ghi ta” – nghệ thuật.
– “ném lá bùa”, “ném trái tim”: chính là sự giải thoát của Lor – ca sau khi chết. Người nghệ sĩ chân chính ý thức được “cái chết” của bản thân là để nghệ thuật được tái sinh mạnh mẽ, để hệ sau tiếp tục cách tân.
– “li la li la …”: tiếng ghi ta bất tử dùng người nghệ sĩ đã chết, có thể là vòng hoa tử đinh hương viếng linh hồn Lor – ca.
III. Kết bài
– Nêu cảm nghĩ của bản thân về bài thơ.
– Nghệ thuật: thể thơ tự do, mới lạ, đậm chất tượng trung siêu thực, kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca và âm nhạc, kết hợp ngôn từ, hình ảnh độc đáo.
– Đây là bài thơ giàu chất suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm, thể hiện sự xót thương trước cái chết bi thảm của Lor – ca thiên tài, là thông điệp, khát khao cách tân nghệ thuật của Thanh Thảo
Đề bài: Phân tích bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
Bài làm
Thanh Thảo nhà thơ của những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội, thơ ông giàu chất suy tư, triết lí. Đàn ghi-ta của Lor-ca là một trong những bài thơ như vậy. Đây có thể coi là tác phẩm để đời trong sự nghiệp thơ ca của Thanh Thảo.
Tác phẩm được sáng tác năm 1979, nó là kết tinh từ niềm thương xót vô hạn cũng như sự cảm phục, trân trọng và ngưỡng mộ của Thanh Thảo dành cho Lor-ca. Bài thơ nhanh chóng gây được tiếng vang lớn trong văn học Việt Nam nhờ nội dung đầy tính nhân văn và hình thức nghệ thuật thơ hết sức sáng tạo, mới mẻ.
Thanh Thảo đã đặt cho tác phẩm của mình một nhan đề giản dị nhưng giàu ý nghĩa. Đàn ghi-ta không chỉ là nhạc cụ truyền thống của Tây Ban Nha mà còn được coi là biểu tượng cho nền nghệ thuật ở đất nước này. Còn Lor-ca là nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà viết kịch nổi tiếng người Tây Ban Nha, là người đã khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Với nhan đề này, Thanh Thảo ngầm khẳng định Đàn ghi ta của Lor-ca là biểu tượng cho những cách tân nghệ thuật của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca. Nhan đề đã hé mở hình tượng nghệ thuật trung tâm của bài thơ.
Thanh Thảo đã sử dụng một câu thơ đồng thời cũng là tâm nguyện của Lor-ca trước khi chết để làm lời đề từ cho bài thơ của mình. Lời để từ đã thể hiện tình yêu nghệ thuật say đắm của Lorca. Đồng thời cũng khẳng định tình yêu tha thiết của Lorca với quê hương đất nước. Không chỉ có vậy, lời để từ còn thể hiện quan điểm đầy tính nhân văn trong sáng tạo nghệ thuật. Lor-ca hiểu rằng những cách tân nghệ thuật của mình đến một lúc nào đó là sẽ chướng ngại ngăn cản những người đến sau sáng tạo. Bởi vậy, ông đã căn dặn thế hệ sau phải biết chôn vùi nghệ thuật của ông để đi tới và bước tiếp.
Mở đầu tác phẩm Lor-ca xuất hiện cùng với tiếng đàn bọt nước:
những tiếng đàn bọt nước
Tây ban Nha áo choàng đỏ gắt
Tiếng đàn không chỉ đơn thuần là âm thanh của tiếng ghi ta mà nó còn gợi ra sự nghiệp nghệ thuật đồ sộ, giàu giá trị của Lor-ca, đồng thời đây cũng chính là tiếng lòng của người nghệ sĩ, gửi gắm lại cho hậu thế. Hình ảnh bọt nước cũng là hình ảnh hết sức đặc sắc, gợi cái đẹp lung linh, gợi sự tan biến vào mênh mông, sự tồn tại mong manh, ngắn ngủi… Một câu thơ nhưng có đến hai hình ảnh biểu tượng, nó vừa gợi ra vẻ đẹp trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, vừa cho thấy số phận mong manh ngắn ngủi, đầy bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca.
Câu thơ thứ hai, nhắc trực tiếp đến quê hương của người nghệ sĩ Lor-ca. Gắn liền với địa danh Tây Ban Nha- với hình ảnh Lor-ca là hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” mang nhiều nét nghĩa: trước hết về nghĩa thực, gợi ra phông nền văn hóa của đất nước Tây Ban Nha với những trận đấu bò tót nổi tiếng, đẫm máu; nhưng đồng thời cũng gợi nhắc chúng ta đến tính chất dữ dội của một đấu trường đặc biệt- đấu trường chính trị và đấu trường nghệ thuật. Nếu như câu thơ đầu gợi ra vẻ đẹp bi kịch cũng như sinh mệnh ngắn ngủi của người nghệ sĩ, thì câu thơ sâu đã khắc họa sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ. Âm thanh tiếng đàn li la li la vang vọng trong không gian để đưa người đọc đến với hành trình vươn tới lí tưởng của người nghệ sĩ:
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Hành trình vươn đến lí tưởng là hành trình hết sức gian nan, chất chứa cả sự cô đơn, không có điểm dừng. Đây cũng chính là hành trình của Lor-ca trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Hành trình ấy tuy có nhiều khó khăn, nhưng đó là hành trình đẹp đẽ. Vầng trăng vốn là biểu tượng nghệ thuật, điều đó cho thấy cái mà Lor-ca hướng đến không phải cuộc sống xa hoa hưởng lạc, mà là tình yêu, niềm đam mê mãnh liệt cho nghệ thuật. Trên hành trình vươn tới lí tưởng trong một thế giới bạo tàn, hình ảnh Lor-ca hiện lên vừa đáng ngưỡng mộ vừa khiến người đọc không khỏi xót thương.
Không đi sâu vào từng tiểu tiết cuộc đời Lor-ca, Thanh Thảo nhấn đậm ngòi bút vào cái chết bi tráng của chàng. Bốn câu thơ đầu là sự đối lập giữa sống và chết:
Tây Ban Nha
Hát nghêu ngao
Bỗng kinh hoàng
Áo choàng bê bết đỏ
Sự sống ở đây chính là Tây Ban Nha với điệu hát nghêu ngao, không gian phóng khoáng, tự do, Lor-ca hiện lên hết sức đẹp đẽ trong khung vảnh đó. Nhưng phía bên kia lại là hiện thực kinh hoàng, là cái chết đẫm máu của người nghệ sĩ tài hoa. “bỗng kinh hoàng” cho thấy sự thảng thốt, hốt hoảng, không thể tin rằng Lor-ca đã bị cái xấu, cái ác bức hại. Cùng với đó là cảm xúc xót thương, căm phẫn đến tận cùng. Lor-ca hiện lên hết sức đáng thương trong bạo lực tàn ác của chế độ độc tài. Trước cái chết ấy, Lor-ca như người mộng du: “Lor-ca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như người mộng du”. Câu 5 là kiểu câu bị động với những thanh trắc là hai dấu nặng đặt cạnh nhau gợi ấn tượng nặng nề, trĩu nặng về cái chết. Nhưng câu 6 lại là kiểu câu chủ động với những thanh bằng liên tiếp đã cho thấy hình ảnh Lor-ca nhanh chóng lấy lại thăng bằng và thái độ chủ động để đi từ hành trình kết thúc sự sống vật chất đến hành trình khởi đầu sự sống tinh thần bất tử.
Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh. Điệp khúc tiếng ghi ta lần lượt xuất hiện, mỗi âm điệu vang lên lại mang nhưng ý nghĩa khác nhau: Tiếng ghi ta nâu- bầu trời cô gái ấy: Tiếng ghi ta tấu lên khúc ca về tình yêu của Lor-ca dành cho quê hương, nghệ thuật, con người, lí tưởng…; Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy/ Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan: Tiếng ghi ta tấu lên khúc ca về vẻ đẹp cũng như nỗi đau của Lor-ca; Tiếng ghi ta ròng ròng- máu chảy: Tiếng ghi-ta được đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn. “tiếng ghi ta” là điệp khúc, đều đặn vang lên 4 lần trong nhịp thơ dồn dập, gửi gắm những tình cảm, tâm sự, nỗi niềm chất chứa của Lor-ca còn mãi vang vọng với hậu thế, như khẳng định sức sống bất diệt của Lor-ca.
Mười ba câu thơ cuối cùng là những suy tư của tác giả về cuộc đời, sự nghiệp và sự ra đi của Lor-ca. Tiếng đàn là biểu tượng của nghệ thuật, là biểu tượng cho lí tưởng đấu tranh vì những điều tốt đẹp của Lor-ca bởi vậy không ai nỡ “chôn cất tiếng đàn”. Bởi vậy, Thanh Thảo đã so sánh tiếng đàn như cỏ mọc hoang, tức nó có sức sống mạnh mẽ, sức lan tỏa mãnh liệt, bất diệt, không gì có thể ngăn cản nổi. Dù Lorca hi sinh tiếng đàn của ông còn mãi với hậu thế. Cũng chính bởi vậy vầng trăng – cái đẹp, dù bị chôn vùi nơi đáy giếng vẫn tỏa rạng nơi tối tăm, lạnh lẽo, ánh sáng lí tưởng nghệ thuật không bao giờ bị vùi lấp.
Hình ảnh đường chỉ tay đứt là một ám chỉ về sự sống vật chất đã chất dứt, và cuộc đời vô hạn vẫn không ngừng chảy trôi: “Dòng sông rộng vô cùng”. Trong tương quan với câu thơ trên, hình ảnh thơ dễ gợi một cảm giác bi quan. Nhưng Lor-ca đã vượt lên trên những lẽ thường tình ấy, ông dung cây đàn ghita để vượt lên mỗi cái hữu hạn, vượt lên cái ngắn ngủi của đời người để vươn đến cõi vô cùng, bất tử.
“chàng ném lá bùa cô gái Di-gan/ vào xoáy nước/chàng ném trái tim mình/vào lặng yên bất chợt/li-la li-la li-la…”. Hành động vô cùng mạnh mẽ quyết liệt, ném “lá bùa” vào “xoáy nước” với tinh thần sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Nhưng đồng thời cũng “ném trái tim mình- vào lặng yên”– vào sự lãng quên là hi sinh sự sống của mình để dọn đường cho hậu thế vươn tới những đỉnh cao mới trong nghệ thuật. Sau sự ra đi “lặng yên” của Lor-ca, “bất chợt” vang lên chuỗi hợp âm “li-la li-la li-la” lan tỏa, ngân nga.
Bài thơ mang đậm phong cách thơ siêu thực: hình ảnh thơ có tính tượng trưng cao độ, bài thơ có hình thức âm thanh, câu thơ không vần, không dấu, không viết hoa đầu dòng,… ; những tương phản gay gắt được sử dụng liên tiếp;… Cho thấy sự cách tân nghệ thuật sâu sắc của Thanh thảo.
Bằng những hình ảnh tượng trưng cao độ, Thanh Thảo đã tái hiện chân thực và gợi cảm vẻ đẹp của hình tượng Lorca. Đồng thời thể hiện tiếng lòng tri âm của một người nghệ sĩ với một người nghệ sĩ. Và thể hiện triết lí nghệ thuật của Thanh Thảo: mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, sức sống của nghệ thuật làm nên sự bất tử của người nghệ sĩ.
Đề bài: Phân tích bài thơ Đàn ghi-ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
Bài làm
Thanh Thảo đã từng viết rằng:
Tôi hay nghĩ điều chưa thành
Những màu sắc lạ thoáng nhanh qua đầu
Tôi hay xâu chuỗi vào nhau
Những chữ rời rạc như xâu hạt cườm
Có khi dùng sợi chỉ thường
Có khi là một chuỗi cờm không dây
Đoạn thơ viết lên, không chỉ đơn thuần là công việc tỉ mẩn xâu chuỗi hạt cườm mà hơn hết nó còn là công cuộc lao động trí óc, tìm tòi và cách tân thơ ca. Cả cuộc đời Thanh Thảo là những bước trải nghiệm, thử, tìm, khám phá để cho ra đời những hình thức, nội dung nghệ thuật mới mẻ. Có thể coi tác phẩm Đàn ghita của Lor-ca là mốc đánh dấu cách tân thành công đầu tiên của ông.
Có thể thấy rằng Đàn ghita của Lor-ca là một bài thơ giàu nhạc tính nhất. Để tạo nên những âm thanh, tính nhạc trong tác phẩm của mình Thanh Thảo đã vận dụng, phối hợp rất nhiều yếu tố khác nhau: trùng điệp, thể thơ, nhịp điệu,… Chính cái nhịp điệu này là yếu tố đã góp phần tạo nên cái hay, cái mới mẻ, hấp dẫn cho toàn bộ bài thơ.
Trước hết, khi lựa chọn thể thơ, Thanh Thảo đã lựa chọn thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn khác nhau giúp ông thỏa sức thể hiện những cung bậc tình cảm, cảm xúc của bản thân. Có thể để cho trí tưởng tượng của mình vươn cao, vươn xa hơn.
Bài thơ mở đầu bằng tiếng đàn đầy ngân nga, tha thiết:
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
và đồng thời để chuỗi âm thanh đó ngân mãi, vang mãi kết lại bài thơ, âm thanh li-la li-la li-la, cũng là âm thanh khép lại bài thơ. Dù câu chữ đã khép lại, nhưng âm điệu, ý nghĩa của nó vẫn còn vang vọng mãi trong lòng bạn đọc.
Không chỉ vậy, tính nhạc của bài thơ còn được thể hiện trong hình thức trùng điệp của cấu trúc câu:
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Tiếng ghi ta lặp đi lặp lại xoáy vào tâm can người đọc, trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi. Tiếng ghi ta nâu, là nâu của đất hay chính là màu sắc của chúng; tiếng ghi ta lá xanh là biểu tượng của xuân thì tươi sắc, hãy là những âm thanh rộn vang của cuộc song; rồi lại đến tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan. Câu thơ ấy có thể hiểu tiếng ghi-ta mong manh như chính số phận của người nghệ sĩ. Dù nó mang trong mình cái vẹn nguyên, tròn đầy nhưng lại bị các thế lực chà đạp, hủy diệt, vùi dập. Tiếng ghi ta cũng chính là biểu tượng cho số phận người nghệ sĩ bất hạnh phải sống dưới chế độ độc tài tàn ác. Những câu thơ dài ngắn khác nhau, khi dãn cách, khi dồn dập, đặc biệt là câu thơ cuối cùng chỉ còn lại hai chữ “máu chảy” cho thấy số phận bị kịch và bất hạnh đến tột cùng của người nghệ sĩ.
Đồng thời Thanh thảo cũng rất khéo léo khi sử dụng âm thanh đầy tính tượng thanh “li-la li-la li-la” đề từ đó gợi nên âm hưởng réo rắt vang vọng trong toàn bộ bài thơ. Nếu như âm thanh đó mở đầu bài thơ kể về cuộc đời đầy tài hoa và bạc mệnh của người nghệ sĩ Lor-ca thì kết thúc bài thơ âm vang đó vẫn vang vọng, để người ta không thôi khắc khoải về người nghệ sĩ đó, để từ đó rút ra những bài học chân chính về nghệ thuật, về cuộc đời. Có thể thấy chất nhạc trong tác phẩm này được sử dụng hết sức thành công vừa diễn tả, ngợi ca được người nghệ sĩ với cây đàn – người bạn của mình, đồng thời còn tạo ra những dư âm vang vọng lòng người.
Không chỉ là một bài thơ giàu tính nhạc, mà tác phẩm còn giàu chất tạo hình, với những hình ảnh giàu tính biểu tượng, đặc biệt là hình ảnh tiếng đàn. Tiếng ghi ta được Thanh Thảo ghi lại dưới nhiều hình ảnh, dạng thức khác nhau: là Tiếng ghi ta nâu- bầu trời cô gái ấy khi nó tấu lên khúc ca về tình yêu của Lor-ca dành cho quê hương, nghệ thuật, con người, lí tưởng…; Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tràn đầy niềm tin và hi vọng cách tân nghệ thuật; nhưng tiếng ghi ta cũng đầy đau đớn, phẫn uất: Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan/ Tiếng ghi ta ròng ròng- máu chảy. Đến đây tiếng ghita đã bị đẩy đến cao trào của sự bi phẫn đau thương. Cả cuộc đời người nghệ sĩ Lor-ca hi sinh cho thứ nghệ thuật chân chính, trác tuyệt. Và đến cuối đời ông cùng thứ nghệ thuật cáo cả đẹp đẽ của mình đã bị chế độ độc tài tiêu diệt không chút xót thương. Tiếng đàn là biểu tượng, là cuộc đời nghệ thuật đầy bi tráng của Lor-ca.
Bên cạnh đó cũng có một số hình ảnh biểu tượng đáng chú ý khác như: “giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh trong đáy giếng”. Hình ảnh vừa thực lại vừa có chút gì đó huyền ảo. Khi Lor-ca bị xử bắn, phe phát xít đã quăng ông xuống giếng. Nhưng đồng thời cũng gợi cho chúng ta liên tưởng dường như thứ nghệ thuật ông để lại (ánh trăng) sẽ mãi mãi không mất đi mà long lanh tỏa rạng.
Theo âm hưởng của tiếng đàn, theo những hình ảnh biểu tượng, chân dung người nghệ sĩ Lor-ca cũng dần được hoàn chỉnh: “Tây Ban Nha/…./chàng đi như người mộng du”. Trong hành trình cách tân nghệ thuật của mình, Lor-ca đầy đơn độc, nhưng không vì thế mà chùn bước. Dù đến cuối cùng phải đối mặt với họng súng của kẻ thù chàng cũng không màng đến cái chết, để lại niềm tin bất diệt vào thứ nghệ thuật trác tuyệt của mình: “không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang”.
Tác phẩm là một cách tân nghệ thuật xuất sắc của Thanh Thảo, cho thấy quá trình tìm tòi và lao động nghệ thuật nghiêm tục của ông. Có thể thấy, viết bài thơ này, ông đã như hóa thân vào nhân vật để cảm nhận vẻ đpẹ nghệ thuật, nỗi đau mà người nghệ sĩ Lor-ca phải trải qua. Cũng chính vì vậy mà tác phẩm chân thật, giàu cảm xúc hơn bao giờ hết.
Đề bài: Phân tích bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
Bài làm
Thanh Thảo thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng đã tạo được giọng điệu riêng ngay từ khi trình làng thi phẩm đầu tiên “Dấu chân qua trảng cỏ” rồi đến “Những người đi tới biển” sau đó là “Khối vuông ru-bích”. Ông luôn tìm tòi khám phá sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Đàn ghita của Lorca là bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy sáng tạo ấy.
Thanh Thảo mở đầu bài thơ bằng chính di nguyện của Lor-ca “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Đây là một di nguyện vừa thiêng liêng vừa cao thượng. Anh không muốn suốt đời là cái bóng ngăn cản sự phát triển của những tài năng trẻ của đất nước mình. Đây chính là cái tâm của người nghệ sĩ lớn suốt đời hi sinh cho nghệ thuật và đấu tranh chống phát xít bạo tàn. Về một ý nghĩa khác Đàn ghita đã gắn với giây phút cuối cùng của cuộc đời Lor-ca. Cái chết của người nghệ sĩ ấy và những phẩm chất tài năng của anh đã bắt gặp hồn thơ Thanh Thảo làm nên thi phẩm tuyệt bút này.
Bài thơ có lối diễn đạt không viết hoa đầu dòng tạo nên một sự liền mạch như một dòng chảy của cảm xúc không có điểm dừng. Sự tài hoa của Thanh Thảo còn làm ta liên tưởng bài thơ như một bản đàn ngân vang với âm thanh “li-la” mênh mang dìu dặt vút cao chắp cánh đưa người nghệ sĩ bay vút lên trên tất cả bạo tàn và chết chóc.
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chuếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Những câu thơ mở đầu giàu sức gợi mang đến một trường liên tưởng về một đất nước đẹp tươi với tiếng ghi ta làm mê say lòng người những vũ nữ Digan với làn da rám nắng và vũ khúc Flamenco cháy bỏng những trận đấu bò rực lửa và danh dự của người kiếm sĩ và không thể thiếu những miền thảo nguyên bao la xanh bóng nắng. Giữa nắng và gió giữa bao la thiên địa Lorca hiện lên ngời sáng trong thơ. Sự chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang thị giác tạo nên “tiếng đàn bọt nước” đầy biến ảo khi tròn to khi phập phồng thổn thức khi vỡ ra tức tưởi như một “thiên bạc mệnh” có tính dự báo về những chông gai trắc trở mà số phận người nghệ sỹ sẽ phải đón nhận ở phía trước. Và màu «áo choàng đỏ gắt» tiếp theo sau tiếng đàn bọt nước ấy chính là những trận đấu bò sinh tử. Nhưng đấu trường bò tót ngay trong sự chuyển gam của Thanh Thảo đã trở thành một đấu trường chính trị khổng lồ ngột ngạt căng thẳng đẫm máu của Tây Ban Nha thời đó. Màu áo của kiếm sĩ “đỏ gắt” lên hay nền chính trị độc tài thân phát xít đang thiêu đốt tự do dân chủ và kiềm hãm sự phát triển của một nền nghệ thuật đang già cỗi. Đây là một trận chiến lớn giữa một bên là khát vọng dân chủ của nhân dân nói chung của Lor-ca nói riêng với nền chính trị độc tài. Xét trong lĩnh vực nghệ thuật đó là cuộc xung đột giữa khát vọng cách tân của nhà thơ với nền nghệ thuật già nua. Xét ở phương diện nào thì Lorca cũng là một chiến sĩ đơn độc đáng thương.
Giữa lúc trận đấu đang căng thẳng thì bỗng vang lên âm thanh du dương bổng trầm của tiếng đàn: li-la li-la li-la một thanh âm trong trẻo thanh tao quyện hòa mùi hương hoa Lila dìu dịu lan tỏa với những cánh hoa màu tím nồng nàn đầy sức sống giữa khung cảnh bạo tàn và chết chóc. Đấu trường khốc liệt nhường chỗ cho sự thăng hoa của nghệ thuật. Ai nói nghệ thuật không có sức mạnh. Không ! Nghệ thuật chính là sức mạnh vô địch có thể hóa giải mọi hận thù. Và chàng nghệ sỹ của chúng ta đang thăng hoa trong bản hòa tấu Ghita đầy lãng mạn. Người đọc như đang dõi mắt theo từng bước chân lãng tử của người nghệ sỹ trên hành trình «lang thang về miền đơn độc» cùng với «vầng trăng – yên ngựa». Đây là một hệ thống thi ảnh thường bắt gặp trong thơ Lorca chàng kị sỹ một mình trên lưng «con ngựa đen/ vầng trăng đỏ” với những bản đàn ghita phiêu bồng cùng giấc mơ tranh đấu. Trong thơ Thanh Thảo Lorca hiện lên với dáng điệu «chuếnh choáng». Đây là một hình ảnh mang cái hồn say của người nghệ sỹ không phải cái say tầm thường của những cốc rượu vang đỏ mà là say trong tranh đấu say trong sáng tạo nghệ thuật. Nếu như chàng Đôn-ki-hô-tê trong trang văn của Xec-van-tec mải miết với giấc mơ hiệp sĩ thì Lorca mãi “mỏi mòn” trong hành trình chống lại tộc ác của bè lũ Phờ-răng-cô. Nhưng đáng thương thay trong hành trình khát vọng ấy Lorca là một nghệ sĩ cô đơn trong sáng tạo nghệ thuật và cô độc trong chiến đấu. Nhưng không vì thế “con họa mi của xứ Granada lại ngừng hót”. Chàng vẫn “Mãnh liệt như trăm ngàn sư tử/ Vững chắc như cẩm thạch” (Thơ Lorca)
Càng chiến đấu Lorca càng say mê càng “hát nghêu ngao”. Nhưng phũ phàng thay “đường chỉ tay đã đứt” định mệnh đã khiến chàng nghệ sĩ du ca của chúng ta phải dở dang hành trình khát vọng. Phát súng của bọn phát xít đã đánh hạ Lorca đáng thương. Thanh Thảo thốt lên sững sờ «bỗng kinh hoàng”. Như không tin vào mắt mình nữa. Cả dân tộc Tây Ban Nha bàng hoàng cả thế giới nín lặng bản giao hưởng chùng xuống rồi lại vút cao lên theo “máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”. Thanh Thảo tạo dựng cái chết đầy bi phẫn của người anh hùng một cách tức tưởi bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập. Đối lập giữa niềm tin tình yêu và lạc quan khát vọng “hát nghêu ngao” với sự thật phũ phàng “áo choàng bê bết đỏ”. Đó là màu máu của Lorca làm tấm áo choàng đỏ gắt càng thêm «bê bết đỏ». Đối với Lorca anh luôn dự cảm về cái chết nhưng anh cũng không thể ngờ rằng cái chết lại đến với mình nhanh đến thế. Anh đã từng thốt lên «Tôi không muốn nhìn thấy máu !”. Nhưng máu đã đổ. Người kiếm sĩ muốn một cái chết vinh quang giữa đấu trường cùng với đôi kiếm sắc nhưng lại bị kẻ thù hành hình một cách lén lút bất minh. Nhưng Lorca chấp nhận như người cách mạng đã chấp nhận «Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Gươm kề cổ súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa». Và vì chấp nhận người anh hùng đã ung dung bình thản ra giữa pháp trường «chàng đi như người mộng du». Mộng du là trạng thái của tâm hồn đã rời thể xác nhưng không có nghĩa là biến mất khỏi thể xác. Tâm hồn và tinh thần của Lorca đã gửi tất cả vào cuộc tranh đấu và vì thế bước chân mộng du đã hóa thành những bước chân anh hùng. Càng tiếc thương chàng nghệ sĩ bao nhiêu chúng ta lại càng căm phẫn tội ác bấy nhiêu. Và Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh đang bung nở giữa bản hòa tấu trầm hùng mang âm hưởng của những tiếng Ghita nồng nàn vi diệu:
tiếng ghi -ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi -ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi -ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy
Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng! Tôi gọi đây là khúc biến tấu của tiếng đàn nó thay màu chuyển gam rất lẹ biến ảo không ngừng và đặc biệt luôn sinh sôi nảy nở giọt này vỡ đi giọt kia lại trào ra không dứt. Đó chính là sức sống! Thanh Thảo sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến sự linh hoạt khi miêu tả tiếng đàn. Màu nâu xuất hiện suy tư trầm tĩnh đến lạ thường. Đó là màu nâu của cây đàn màu nâu của đất đai màu nâu của làn da rám nắng trên thân hình những vũ nữ Digan bốc lửa. Trước giây phút từ li chàng đã ngước nhìn lên bầu trời xanh tha thiết “bầu trời cô gái ấy”. Đó là bầu trời của khát vọng bầu trời yêu thương nơi có bóng hình nàng Maria thủy chung. Đối lập với màu nâu trầm tĩnh là màu xanh của “tiếng ghita lá xanh biết mấy”. Màu xanh là sự hóa thân của Lorca và tiếng đàn vào thiên nhiên mang sức sống cỏ cây: màu xanh của những vườn cam màu xanh của thảo nguyên và những rặng Oliu hay hàng bạch dương nơi Lorca đang yên nghỉ. Hai tiếng biết mấy nằm ở cuối câu vừa là sự tha thiết trong tình cảm của người nghệ sĩ Thanh Thảo vừa để tôn thêm vẻ đẹp của tuổi trẻ Lorca – vẻ đẹp của người chiến sĩ suốt đời hi sinh vì lí tưởng.
Tiếng đàn không chỉ mang sắc màu biến tấu mà còn mang hình khối đường nét như hình hài của sinh mệnh. Nó cũng tức tưởi vỡ òa cũng biết nói tiếng nói của sự căm phẫn bạo tàn. Hay nói đúng hơn đó là tiếng kêu cứu của nghệ thuật khi bị đẩy đến bờ vực của sự tuyệt diệt.
tiếng ghi -ta tròn
bọt nước vỡ tan
tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy
Hai tiếng vỡ tan vừa là sự vỡ ra của bọt nước vừa là sự phập phồng thổn thức của tiếng đàn. Nó đã cất lên lời ca tranh đấu lên án bè lũ phát xít đã hủy diệt cái tài hủy diệt cái đẹp. Và vì thế bản ghita bi tráng đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn nó ròng ròng máu chảy nó uất nghẹn tức tưởi đến bật máu thành từng dòng đau thương trong một bản đàn giao hưởng hào sảng. Nỗi đau của tiếng đàn cũng là nỗi đau của người nghệ sĩ khi khát vọng chưa thành. Ta cũng đã từng bắt gặp nỗi đau của người nghệ sĩ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du “Một cung gió thảm mây sầu/ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Nỗi đau của Kiều khi hầu đàn Hồ Tôn Hiến khiến cho dây đàn cũng nhỏ máu. Đó chính là sự đồng cảm giữa nghệ thuật và tâm hồn của người sinh ra nó. Thì ra nghệ thuật trong bản thể của nó cũng là một sinh mệnh.
Với thủ pháp nghệ thuật so sánh và liên tưởng Thanh Thảo đã làm sống dậy một không gian sinh tồn đầy sức sống mãnh liệt.
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Không ai chôn cất tiếng đàn hay không ai có thể chôn cất được tiếng đàn ? Có lẽ nên hiểu theo cách thứ hai. Thứ nhất bởi nó là di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm của tinh thần được kết tinh từ hương sắc cuộc đời của người nghệ sĩ nhân dân. Thứ hai bởi sức sống mãnh liệt và hoang dại của nó như loài cỏ mọc hoang không gì có thể ngăn nổi chúng. Đây chính là sự bất tử sự vĩnh hằng của nghệ thuật. Dù Lorca hi sinh nhưng sản phẩm tinh thần mà ông để lại đó chính là tâm hồn mình nghệ thuật của mình. Những bài ca tranh đấu của Lorca vẫn đồng hành cùng thời gian và đi cùng năm tháng thăng trầm của lịch sử và nó mãi mãi được hát vang trong lòng của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Không chỉ bất tử tiếng đàn của chàng ca sĩ hát rong còn mang vẻ đẹp của giọt nước mắt vầng trăng. Một hình ảnh mang nhiều liên tưởng gợi nhiều thi vị. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp của nghệ thuật được kết tinh từ những giọt mồ hôi từ máu và nước mắt của sự lao động nghệ thuật chân chính qua bao thời gian công sức đã nhào nặn thành viên ngọc lấp lánh mang hình hài của giọt nước mắt vầng trăng tinh khiết. Hay đó chính là vẻ đẹp của cuộc đời Lorca đã hóa thân thành viên ngọc quý lung linh tỏa sáng giữa đời. Bất ngờ thay nơi đáy giếng tối tăm và lạnh lẽo nơi mà bọn phát xít ngỡ tưởng đã vùi lấp được linh hồn và thể xác của người công dân Lorca lại là nơi tỏa sáng tâm hồn anh. Ở khổ cuối của bài thơ Thanh Thảo đưa người đọc vào thế giới suy tư về sự giải thoát của Lorca:
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghita màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Digan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la
Và cuối cùng chàng nghệ sĩ của chúng ta đã dừng bước giang hồ trước dòng sông của định mệnh khi đường chỉ tay đã đứt. Sinh mệnh chấm dứt. Chàng rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian để trở về cõi vĩnh hằng. Dòng sông vô hình dung là dòng sông cuộc đời dòng sông của số phận và cũng là đường ranh giới ngăn cách giữa sự sống và cõi chết. Trên dòng sông ấy Lorca đang bơi sang ngang cùng di vật đàn ghita. Màu bạc của cây đàn là sự biến ảo từ màu nâu trầm tĩnh sang xanh thiết tha hi vọng và cuối cùng là màu của sự hư ảo trong cõi siêu sinh. Lorca đang bơi trên con thuyền thi ca mà cây đàn chính là con thuyền bàng bạc chở tình yêu và nỗi nhớ của chàng đang trôi dần vào bến bờ bất tử. Chàng dứt khoát rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian ném lá bùa vào xoáy nước ném trái tim vào cõi lặng yên. Xoáy nước là cuộc tranh đấu hay sự hiểm nguy trên dòng sông của định mệnh ? Cõi lặng yên phải chăng là phút giây mà trái tim người nghệ sĩ ngừng đập ? Có lẽ ta không cần phải lí giải về nó. Bởi Lorca đã về nơi an nghỉ cuối cùng. Chỉ còn vang vọng nơi đây âm vọng của tiếng đàn li-la li-la li-la như bản nhạc thiết tha thấm đẫm hương thơm của loài hoa Lila đưa người nghệ sĩ – chiến sĩ về với cõi vĩnh hằng với bao niềm tiếc thương vô hạn. Tôi chợt nhớ tới bài thơ Ghi nhớ của anh:
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi
cùng với cây đàn dưới lớp cát hàng bạch dương
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi giữa rặng cây cam
và đám bạc hà.
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi tôi xin các người đó
nơi một chiếc chong chóng gió.
Có lẽ ở một nơi nào đó chàng nghệ sĩ nhân dân đang được sống giữa những sự yên vui và đầy ánh nắng của tự do nơi đó không có bạo tàn và chết chóc.
Bài thơ đã rất thành công khi tạo dựng một tượng đài Lorca bằng ngôn ngữ của thơ và âm nhạc. Với lối thơ không viết hoa đầu dòng cảm xúc liền mạch Thanh Thảo đã mang đến cho người đọc một mĩ cảm hiện đại giàu tính sáng tạo. Sự trộn lẫn giữa trường phái tượng trưng siêu thực và sức sáng tạo của Thanh Thảo đã cho ra đời một tuyệt bút đầy ngẫu hứng giàu chất nhạc. Trên hết là nhà thơ đã mang đến cho người đọc một tình yêu vô bờ bến đối với nhà thơ nhân dân chống phát xít bạo tàn. Bất kỳ một cuộc chiến nào cũng có người chiến thắng và kẻ bại trận nhưng những người biết hi sinh vì mọi người luôn luôn là người anh hùng với chiến thắng vĩ đại nhất. Gacxia Lorca là một người như thế.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
Bài làm
Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc:
Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
Li-la li-la li-la
Đi lang thang về miền đơn độc
Với vầng trăng chếnh choáng
Trên yên ngựa mỏi mòn
…
Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy ? – Trước hết là nhờ “đàn ghi ta của Lor-ca”. Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,…
Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là “một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi” do người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta – âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta)…
Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự “trích dẫn”. Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo “nguồn gốc”, vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lor-ca – người mê dân ca, “chàng hát rong thời trung cổ”, “con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a”. Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng “song trùng” với hình tượng Lor-ca.
Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lor-ca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một “văn bản” khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 – cái “văn bản” đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý :
Tây Ban Nha
Hát nghêu ngao
Bỗng kinh hoàng
Áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
Chàng đi như người mộng du
…
Tiếng ghi ta ròng ròng
Máu chảy
Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lor-ca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của các văn bản. Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này.
Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lor-ca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng – máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn.
Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị – xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca.
Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau : áo choàng bê bết đỏ tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này).
Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu-xi-a) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống.
Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành “vấn đề” trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế.
Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn.
Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ ?… Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng !
Ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lor-ca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ :
Không ai chôn cất tiếng đàn
Tiếng đàn như cỏ mọc hoang
Giọt nước mắt vầng trăng
Long lanh đáy giếng
Đường chỉ tay đã đứt
Dòng sông rộng vô cùng
Lor-ca bơi sang ngang
Trên chiếc ghi ta màu bạc
Chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
Vào xoáy nước
Chàng ném trái tim mình
Vào lặng yên bất chợt
Li-la li-la li-la…
Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài Ghi nhớ – lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ ” Đàn ghita của Lor-ca”. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ “chân dung” hay “ai điệu”, nhằm làm nổi bật những tứ thơ “mới” mang tính chất “ăn theo”. Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lor-ca – một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở – đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí : không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được ! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết.
Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai chôn được ! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.
Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù “nội dung”) mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,… Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã “khôn dần lên”, sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa.
Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại…
Trên thực tế, cái chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Frăng-cô gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, “nhẹ nhõm” và “mênh mang” (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lor-ca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó “chìm lỉm” (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt – cái lặng yên của sự “đốn ngộ”, cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa.
Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một “văn bản” nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo[1] !…
Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều “văn bản” khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được “tắm” trong một “dung môi” cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết ? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư ? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la…
Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, “lời” vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc – cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan – để thấu nhập bề sâu, “bề xa” của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy ” Đàn ghita của Lor-ca” vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch.
Đề bài: Phân tích bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả: Thanh Thảo là nhà thơ luôn có nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội, ông là một trong số những nhà thơ luôn nỗ lực cách tân thơ Việt bằng việc đề cao trực cảm, đổi mới hình thức diễn đạt của thơ.
– Giới thiệu tác phẩm: là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ nhuốm màu sắc tượng trung, siêu thực của Thanh Thảo.
II. Thân bài
– Bài thơ thể hiện sự đồng cảm của tác giả với Lor – ca, người nghệ sĩ tự do và cô đơn, dù bị chết oan khuất vẫn hiên ngang.
1. Nhan đề và lời đề từ
– Nhan đề: Đàn ghi ta là niềm tự hào của Tây Ban Nha (hay còn gọi là Tây Ban Cầm), nó là hình ảnh của Lor – ca và những sáng tạo nghệ thuật của ông – một người nghệ sĩ thực thụ dùng lời thơ và tiếng đàn để ngợi ca tự do.
– Lời đề từ được trích trong bài thơ Ghi nhớ của Lor – ca, thể hiện sự gắn bó của Lor – ca với cây đàn – nghệ thuật, mặt khác Lor- ca muốn người đời sau hãy vượt qua những thành tựu nghệ thuật của mình sáng tạo những điều mới hơn.
2. Người nghệ sĩ tự do đơn độc – Lor – ca (6 dòng đầu)
– 2 câu thơ đầu gợi liên tưởng đến không gian Tây Ban Nha với những nét đặc trưng: tiếng đàn truyền thống, những trận đấu bò tót.
+ Tuy nhiên hình ảnh “tiếng đàn” đặt cạnh hình ảnh “bọt nước”: nghệ thuật của Lor – ca lung linh như bọt nước, nhưng lại có thể vỡ tan bất cứ lúc nào, đó cũng là số phận ngắn ngủi của Lor – ca.
+ “áo choàng đỏ gắt”, gợi hình ảnh đấu trường, cuộc đấu tranh gay gắt giữa một bên là khát vọng tự do, một bên là bọ phát xít độc tài.
– Trong cuộc đấu tranh, Lor – ca như một người hùng đơn độc đi trên hành trình đấu tranh cho tự do với vũ khí là nghệ thuật và lòng yêu tự do.
– Chuỗi âm thanh “li la li la li la”: đây có thể là âm thanh tiếng đàn, cũng có thể là hình ảnh những vòng hoa li – la (tử đinh hương) của thảo nguyên Tây Ban Nha.
3. Cái chết oán khuất và bi phẫn của Lor – ca (12 câu tiếp)
– “Tây Ban Nha/ hát nghêu ngao”: hình ảnh người nghệ sĩ Lor – ca say sưa với ca từ ngợi ca tự do trên quê hương.
– “bỗng kinh hoàng/ áo choàng bê bết đỏ”: cái chết bi thảm đột ngột ập đến với Lor – ca. Cái chết ấy khiến cả “Tây Ban Nha” “kinh hoàng” bởi bọ phát xít độc tài đã giết chết một người hùng đấu tranh cho tự do, dân chủ của đất nước Tây Ban Nha.
– “Lor – ca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như người mộng du”: hình ảnh hiên ngang của Lor – ca khi cận kề cái chết, chàng chỉ say mê với những cách tân nghệ thuật chân chính.
4. Hình ảnh tiếng ghi – ta
– Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, kết hợp từ ngữ, hình ảnh độc đáo
– “tiếng ghi – ta nâu bầu trời cô gái ấy”: màu nâu là màu của vỏ đàn, của đất đai quê hương, màu của làn da, mái tóc, đôi mắt của cô gái. Câu thơ là ẩn dụ về tình yêu thương.
– “tiếng ghi ta lá xanh”: sức sống mãnh liệt của nghệ thuật, tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”: sự lung linh mong manh của nghệ thuật, cuộc đời người nghệ sĩ.
– “tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy”: cái chết bi thảm, đau đớn của nghệ thuật, thể hiện sự phẫn uất với chế độ phát xít độc tài và sự thương xót với người nghệ sĩ.
5. Sự vĩnh hằng của nghệ thuật
– “không ai chôn cất … mọc hoang”: có thể hiểu không ai có thể vượt qua nghệ thuật Lor –ca, không ai bước tiếp trên hành trình cách tân mà bỏ “hoang” nghệ thuật. Mặt khác, có thể hiểu, đó là sự bất diệt của nghệ thuật chân chính, dù Lor – ca chết nhưng nghệ thuật của chàng vẫn sinh sôi, phát triển.
– “giọt nước mắt” là sự tiếc thương, “vầng trăng” là niềm tin nghệ thuật, dù ở nơi tối tăm sâu thẳm thì tâm hồn trong sáng của người nghệ sĩ vẫn soi tỏ cho thế hệ sau.
– Lor – ca đã mất “đương chỉ tay đã đứt”, chàng giã từ cuộc đời hữu hạn để đến thế giới vô hạn bằng phương tiện “chiếc ghi ta” – nghệ thuật.
– “ném lá bùa”, “ném trái tim”: chính là sự giải thoát của Lor – ca sau khi chết. Người nghệ sĩ chân chính ý thức được “cái chết” của bản thân là để nghệ thuật được tái sinh mạnh mẽ, để hệ sau tiếp tục cách tân.
– “li la li la …”: tiếng ghi ta bất tử dùng người nghệ sĩ đã chết, có thể là vòng hoa tử đinh hương viếng linh hồn Lor – ca.
III. Kết bài
– Nêu cảm nghĩ của bản thân về bài thơ.
– Nghệ thuật: thể thơ tự do, mới lạ, đậm chất tượng trung siêu thực, kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca và âm nhạc, kết hợp ngôn từ, hình ảnh độc đáo.
– Đây là bài thơ giàu chất suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm, thể hiện sự xót thương trước cái chết bi thảm của Lor – ca thiên tài, là thông điệp, khát khao cách tân nghệ thuật của Thanh Thảo
Thanh Thảo nhà thơ của những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội, thơ ông giàu chất suy tư, triết lí. Đàn ghi-ta của Lor-ca là một trong những bài thơ như vậy. Đây có thể coi là tác phẩm để đời trong sự nghiệp thơ ca của Thanh Thảo.
Tác phẩm được sáng tác năm 1979, nó là kết tinh từ niềm thương xót vô hạn cũng như sự cảm phục, trân trọng và ngưỡng mộ của Thanh Thảo dành cho Lor-ca. Bài thơ nhanh chóng gây được tiếng vang lớn trong văn học Việt Nam nhờ nội dung đầy tính nhân văn và hình thức nghệ thuật thơ hết sức sáng tạo, mới mẻ.
Thanh Thảo đã đặt cho tác phẩm của mình một nhan đề giản dị nhưng giàu ý nghĩa. Đàn ghi-ta không chỉ là nhạc cụ truyền thống của Tây Ban Nha mà còn được coi là biểu tượng cho nền nghệ thuật ở đất nước này. Còn Lor-ca là nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà viết kịch nổi tiếng người Tây Ban Nha, là người đã khởi xướng và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong các lĩnh vực nghệ thuật. Với nhan đề này, Thanh Thảo ngầm khẳng định Đàn ghi ta của Lor-ca là biểu tượng cho những cách tân nghệ thuật của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca. Nhan đề đã hé mở hình tượng nghệ thuật trung tâm của bài thơ.
Thanh Thảo đã sử dụng một câu thơ đồng thời cũng là tâm nguyện của Lor-ca trước khi chết để làm lời đề từ cho bài thơ của mình. Lời để từ đã thể hiện tình yêu nghệ thuật say đắm của Lorca. Đồng thời cũng khẳng định tình yêu tha thiết của Lorca với quê hương đất nước. Không chỉ có vậy, lời để từ còn thể hiện quan điểm đầy tính nhân văn trong sáng tạo nghệ thuật. Lor-ca hiểu rằng những cách tân nghệ thuật của mình đến một lúc nào đó là sẽ chướng ngại ngăn cản những người đến sau sáng tạo. Bởi vậy, ông đã căn dặn thế hệ sau phải biết chôn vùi nghệ thuật của ông để đi tới và bước tiếp.
Mở đầu tác phẩm Lor-ca xuất hiện cùng với tiếng đàn bọt nước:
những tiếng đàn bọt nước
Tây ban Nha áo choàng đỏ gắt
Tiếng đàn không chỉ đơn thuần là âm thanh của tiếng ghi ta mà nó còn gợi ra sự nghiệp nghệ thuật đồ sộ, giàu giá trị của Lor-ca, đồng thời đây cũng chính là tiếng lòng của người nghệ sĩ, gửi gắm lại cho hậu thế. Hình ảnh bọt nước cũng là hình ảnh hết sức đặc sắc, gợi cái đẹp lung linh, gợi sự tan biến vào mênh mông, sự tồn tại mong manh, ngắn ngủi… Một câu thơ nhưng có đến hai hình ảnh biểu tượng, nó vừa gợi ra vẻ đẹp trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, vừa cho thấy số phận mong manh ngắn ngủi, đầy bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca.
Câu thơ thứ hai, nhắc trực tiếp đến quê hương của người nghệ sĩ Lor-ca. Gắn liền với địa danh Tây Ban Nha- với hình ảnh Lor-ca là hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” mang nhiều nét nghĩa: trước hết về nghĩa thực, gợi ra phông nền văn hóa của đất nước Tây Ban Nha với những trận đấu bò tót nổi tiếng, đẫm máu; nhưng đồng thời cũng gợi nhắc chúng ta đến tính chất dữ dội của một đấu trường đặc biệt- đấu trường chính trị và đấu trường nghệ thuật. Nếu như câu thơ đầu gợi ra vẻ đẹp bi kịch cũng như sinh mệnh ngắn ngủi của người nghệ sĩ, thì câu thơ sâu đã khắc họa sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ. Âm thanh tiếng đàn li la li la vang vọng trong không gian để đưa người đọc đến với hành trình vươn tới lí tưởng của người nghệ sĩ:
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Hành trình vươn đến lí tưởng là hành trình hết sức gian nan, chất chứa cả sự cô đơn, không có điểm dừng. Đây cũng chính là hành trình của Lor-ca trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Hành trình ấy tuy có nhiều khó khăn, nhưng đó là hành trình đẹp đẽ. Vầng trăng vốn là biểu tượng nghệ thuật, điều đó cho thấy cái mà Lor-ca hướng đến không phải cuộc sống xa hoa hưởng lạc, mà là tình yêu, niềm đam mê mãnh liệt cho nghệ thuật. Trên hành trình vươn tới lí tưởng trong một thế giới bạo tàn, hình ảnh Lor-ca hiện lên vừa đáng ngưỡng mộ vừa khiến người đọc không khỏi xót thương.
Không đi sâu vào từng tiểu tiết cuộc đời Lor-ca, Thanh Thảo nhấn đậm ngòi bút vào cái chết bi tráng của chàng. Bốn câu thơ đầu là sự đối lập giữa sống và chết:
Tây Ban Nha
Hát nghêu ngao
Bỗng kinh hoàng
Áo choàng bê bết đỏ
Sự sống ở đây chính là Tây Ban Nha với điệu hát nghêu ngao, không gian phóng khoáng, tự do, Lor-ca hiện lên hết sức đẹp đẽ trong khung vảnh đó. Nhưng phía bên kia lại là hiện thực kinh hoàng, là cái chết đẫm máu của người nghệ sĩ tài hoa. “bỗng kinh hoàng” cho thấy sự thảng thốt, hốt hoảng, không thể tin rằng Lor-ca đã bị cái xấu, cái ác bức hại. Cùng với đó là cảm xúc xót thương, căm phẫn đến tận cùng. Lor-ca hiện lên hết sức đáng thương trong bạo lực tàn ác của chế độ độc tài. Trước cái chết ấy, Lor-ca như người mộng du: “Lor-ca bị điệu về bãi bắn/ chàng đi như người mộng du”. Câu 5 là kiểu câu bị động với những thanh trắc là hai dấu nặng đặt cạnh nhau gợi ấn tượng nặng nề, trĩu nặng về cái chết. Nhưng câu 6 lại là kiểu câu chủ động với những thanh bằng liên tiếp đã cho thấy hình ảnh Lor-ca nhanh chóng lấy lại thăng bằng và thái độ chủ động để đi từ hành trình kết thúc sự sống vật chất đến hành trình khởi đầu sự sống tinh thần bất tử.
Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh. Điệp khúc tiếng ghi ta lần lượt xuất hiện, mỗi âm điệu vang lên lại mang nhưng ý nghĩa khác nhau: Tiếng ghi ta nâu- bầu trời cô gái ấy: Tiếng ghi ta tấu lên khúc ca về tình yêu của Lor-ca dành cho quê hương, nghệ thuật, con người, lí tưởng…; Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy/ Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan: Tiếng ghi ta tấu lên khúc ca về vẻ đẹp cũng như nỗi đau của Lor-ca; Tiếng ghi ta ròng ròng- máu chảy: Tiếng ghi-ta được đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn. “tiếng ghi ta” là điệp khúc, đều đặn vang lên 4 lần trong nhịp thơ dồn dập, gửi gắm những tình cảm, tâm sự, nỗi niềm chất chứa của Lor-ca còn mãi vang vọng với hậu thế, như khẳng định sức sống bất diệt của Lor-ca.
Mười ba câu thơ cuối cùng là những suy tư của tác giả về cuộc đời, sự nghiệp và sự ra đi của Lor-ca. Tiếng đàn là biểu tượng của nghệ thuật, là biểu tượng cho lí tưởng đấu tranh vì những điều tốt đẹp của Lor-ca bởi vậy không ai nỡ “chôn cất tiếng đàn”. Bởi vậy, Thanh Thảo đã so sánh tiếng đàn như cỏ mọc hoang, tức nó có sức sống mạnh mẽ, sức lan tỏa mãnh liệt, bất diệt, không gì có thể ngăn cản nổi. Dù Lorca hi sinh tiếng đàn của ông còn mãi với hậu thế. Cũng chính bởi vậy vầng trăng – cái đẹp, dù bị chôn vùi nơi đáy giếng vẫn tỏa rạng nơi tối tăm, lạnh lẽo, ánh sáng lí tưởng nghệ thuật không bao giờ bị vùi lấp.
Hình ảnh đường chỉ tay đứt là một ám chỉ về sự sống vật chất đã chất dứt, và cuộc đời vô hạn vẫn không ngừng chảy trôi: “Dòng sông rộng vô cùng”. Trong tương quan với câu thơ trên, hình ảnh thơ dễ gợi một cảm giác bi quan. Nhưng Lor-ca đã vượt lên trên những lẽ thường tình ấy, ông dung cây đàn ghita để vượt lên mỗi cái hữu hạn, vượt lên cái ngắn ngủi của đời người để vươn đến cõi vô cùng, bất tử.
“chàng ném lá bùa cô gái Di-gan/ vào xoáy nước/chàng ném trái tim mình/vào lặng yên bất chợt/li-la li-la li-la…”. Hành động vô cùng mạnh mẽ quyết liệt, ném “lá bùa” vào “xoáy nước” với tinh thần sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy. Nhưng đồng thời cũng “ném trái tim mình- vào lặng yên”- vào sự lãng quên là hi sinh sự sống của mình để dọn đường cho hậu thế vươn tới những đỉnh cao mới trong nghệ thuật. Sau sự ra đi “lặng yên” của Lor-ca, “bất chợt” vang lên chuỗi hợp âm “li-la li-la li-la” lan tỏa, ngân nga.
Bài thơ mang đậm phong cách thơ siêu thực: hình ảnh thơ có tính tượng trưng cao độ, bài thơ có hình thức âm thanh, câu thơ không vần, không dấu, không viết hoa đầu dòng,… ; những tương phản gay gắt được sử dụng liên tiếp;… Cho thấy sự cách tân nghệ thuật sâu sắc của Thanh thảo.
Bằng những hình ảnh tượng trưng cao độ, Thanh Thảo đã tái hiện chân thực và gợi cảm vẻ đẹp của hình tượng Lorca. Đồng thời thể hiện tiếng lòng tri âm của một người nghệ sĩ với một người nghệ sĩ. Và thể hiện triết lí nghệ thuật của Thanh Thảo: mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, sức sống của nghệ thuật làm nên sự bất tử của người nghệ sĩ.
Thanh Thảo đã từng viết rằng:
Tôi hay nghĩ điều chưa thành
Những màu sắc lạ thoáng nhanh qua đầu
Tôi hay xâu chuỗi vào nhau
Những chữ rời rạc như xâu hạt cườm
Có khi dùng sợi chỉ thường
Có khi là một chuỗi cờm không dây
Đoạn thơ viết lên, không chỉ đơn thuần là công việc tỉ mẩn xâu chuỗi hạt cườm mà hơn hết nó còn là công cuộc lao động trí óc, tìm tòi và cách tân thơ ca. Cả cuộc đời Thanh Thảo là những bước trải nghiệm, thử, tìm, khám phá để cho ra đời những hình thức, nội dung nghệ thuật mới mẻ. Có thể coi tác phẩm Đàn ghita của Lor-ca là mốc đánh dấu cách tân thành công đầu tiên của ông.
Có thể thấy rằng Đàn ghita của Lor-ca là một bài thơ giàu nhạc tính nhất. Để tạo nên những âm thanh, tính nhạc trong tác phẩm của mình Thanh Thảo đã vận dụng, phối hợp rất nhiều yếu tố khác nhau: trùng điệp, thể thơ, nhịp điệu,… Chính cái nhịp điệu này là yếu tố đã góp phần tạo nên cái hay, cái mới mẻ, hấp dẫn cho toàn bộ bài thơ.
Trước hết, khi lựa chọn thể thơ, Thanh Thảo đã lựa chọn thể thơ tự do với những câu thơ dài ngắn khác nhau giúp ông thỏa sức thể hiện những cung bậc tình cảm, cảm xúc của bản thân. Có thể để cho trí tưởng tượng của mình vươn cao, vươn xa hơn.
Bài thơ mở đầu bằng tiếng đàn đầy ngân nga, tha thiết:
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
và đồng thời để chuỗi âm thanh đó ngân mãi, vang mãi kết lại bài thơ, âm thanh li-la li-la li-la, cũng là âm thanh khép lại bài thơ. Dù câu chữ đã khép lại, nhưng âm điệu, ý nghĩa của nó vẫn còn vang vọng mãi trong lòng bạn đọc.
Không chỉ vậy, tính nhạc của bài thơ còn được thể hiện trong hình thức trùng điệp của cấu trúc câu:
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Tiếng ghi ta lặp đi lặp lại xoáy vào tâm can người đọc, trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi. Tiếng ghi ta nâu, là nâu của đất hay chính là màu sắc của chúng; tiếng ghi ta lá xanh là biểu tượng của xuân thì tươi sắc, hãy là những âm thanh rộn vang của cuộc song; rồi lại đến tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan. Câu thơ ấy có thể hiểu tiếng ghi-ta mong manh như chính số phận của người nghệ sĩ. Dù nó mang trong mình cái vẹn nguyên, tròn đầy nhưng lại bị các thế lực chà đạp, hủy diệt, vùi dập. Tiếng ghi ta cũng chính là biểu tượng cho số phận người nghệ sĩ bất hạnh phải sống dưới chế độ độc tài tàn ác. Những câu thơ dài ngắn khác nhau, khi dãn cách, khi dồn dập, đặc biệt là câu thơ cuối cùng chỉ còn lại hai chữ “máu chảy” cho thấy số phận bị kịch và bất hạnh đến tột cùng của người nghệ sĩ.
Đồng thời Thanh thảo cũng rất khéo léo khi sử dụng âm thanh đầy tính tượng thanh “li-la li-la li-la” đề từ đó gợi nên âm hưởng réo rắt vang vọng trong toàn bộ bài thơ. Nếu như âm thanh đó mở đầu bài thơ kể về cuộc đời đầy tài hoa và bạc mệnh của người nghệ sĩ Lor-ca thì kết thúc bài thơ âm vang đó vẫn vang vọng, để người ta không thôi khắc khoải về người nghệ sĩ đó, để từ đó rút ra những bài học chân chính về nghệ thuật, về cuộc đời. Có thể thấy chất nhạc trong tác phẩm này được sử dụng hết sức thành công vừa diễn tả, ngợi ca được người nghệ sĩ với cây đàn – người bạn của mình, đồng thời còn tạo ra những dư âm vang vọng lòng người.
Không chỉ là một bài thơ giàu tính nhạc, mà tác phẩm còn giàu chất tạo hình, với những hình ảnh giàu tính biểu tượng, đặc biệt là hình ảnh tiếng đàn. Tiếng ghi ta được Thanh Thảo ghi lại dưới nhiều hình ảnh, dạng thức khác nhau: là Tiếng ghi ta nâu- bầu trời cô gái ấy khi nó tấu lên khúc ca về tình yêu của Lor-ca dành cho quê hương, nghệ thuật, con người, lí tưởng…; Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tràn đầy niềm tin và hi vọng cách tân nghệ thuật; nhưng tiếng ghi ta cũng đầy đau đớn, phẫn uất: Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan/ Tiếng ghi ta ròng ròng- máu chảy. Đến đây tiếng ghita đã bị đẩy đến cao trào của sự bi phẫn đau thương. Cả cuộc đời người nghệ sĩ Lor-ca hi sinh cho thứ nghệ thuật chân chính, trác tuyệt. Và đến cuối đời ông cùng thứ nghệ thuật cáo cả đẹp đẽ của mình đã bị chế độ độc tài tiêu diệt không chút xót thương. Tiếng đàn là biểu tượng, là cuộc đời nghệ thuật đầy bi tráng của Lor-ca.
Bên cạnh đó cũng có một số hình ảnh biểu tượng đáng chú ý khác như: “giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh trong đáy giếng”. Hình ảnh vừa thực lại vừa có chút gì đó huyền ảo. Khi Lor-ca bị xử bắn, phe phát xít đã quăng ông xuống giếng. Nhưng đồng thời cũng gợi cho chúng ta liên tưởng dường như thứ nghệ thuật ông để lại (ánh trăng) sẽ mãi mãi không mất đi mà long lanh tỏa rạng.
Theo âm hưởng của tiếng đàn, theo những hình ảnh biểu tượng, chân dung người nghệ sĩ Lor-ca cũng dần được hoàn chỉnh: “Tây Ban Nha/…./chàng đi như người mộng du”. Trong hành trình cách tân nghệ thuật của mình, Lor-ca đầy đơn độc, nhưng không vì thế mà chùn bước. Dù đến cuối cùng phải đối mặt với họng súng của kẻ thù chàng cũng không màng đến cái chết, để lại niềm tin bất diệt vào thứ nghệ thuật trác tuyệt của mình: “không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang”.
Tác phẩm là một cách tân nghệ thuật xuất sắc của Thanh Thảo, cho thấy quá trình tìm tòi và lao động nghệ thuật nghiêm tục của ông. Có thể thấy, viết bài thơ này, ông đã như hóa thân vào nhân vật để cảm nhận vẻ đpẹ nghệ thuật, nỗi đau mà người nghệ sĩ Lor-ca phải trải qua. Cũng chính vì vậy mà tác phẩm chân thật, giàu cảm xúc hơn bao giờ hết.
Thanh Thảo thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng đã tạo được giọng điệu riêng ngay từ khi trình làng thi phẩm đầu tiên “Dấu chân qua trảng cỏ” rồi đến “Những người đi tới biển” sau đó là “Khối vuông ru-bích”. Ông luôn tìm tòi khám phá sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Đàn ghita của Lorca là bài thơ tiêu biểu cho kiểu tư duy sáng tạo ấy.
Thanh Thảo mở đầu bài thơ bằng chính di nguyện của Lor-ca “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Đây là một di nguyện vừa thiêng liêng vừa cao thượng. Anh không muốn suốt đời là cái bóng ngăn cản sự phát triển của những tài năng trẻ của đất nước mình. Đây chính là cái tâm của người nghệ sĩ lớn suốt đời hi sinh cho nghệ thuật và đấu tranh chống phát xít bạo tàn. Về một ý nghĩa khác Đàn ghita đã gắn với giây phút cuối cùng của cuộc đời Lor-ca. Cái chết của người nghệ sĩ ấy và những phẩm chất tài năng của anh đã bắt gặp hồn thơ Thanh Thảo làm nên thi phẩm tuyệt bút này.
Bài thơ có lối diễn đạt không viết hoa đầu dòng tạo nên một sự liền mạch như một dòng chảy của cảm xúc không có điểm dừng. Sự tài hoa của Thanh Thảo còn làm ta liên tưởng bài thơ như một bản đàn ngân vang với âm thanh “li-la” mênh mang dìu dặt vút cao chắp cánh đưa người nghệ sĩ bay vút lên trên tất cả bạo tàn và chết chóc.
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chuếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Những câu thơ mở đầu giàu sức gợi mang đến một trường liên tưởng về một đất nước đẹp tươi với tiếng ghi ta làm mê say lòng người những vũ nữ Digan với làn da rám nắng và vũ khúc Flamenco cháy bỏng những trận đấu bò rực lửa và danh dự của người kiếm sĩ và không thể thiếu những miền thảo nguyên bao la xanh bóng nắng. Giữa nắng và gió giữa bao la thiên địa Lorca hiện lên ngời sáng trong thơ. Sự chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang thị giác tạo nên “tiếng đàn bọt nước” đầy biến ảo khi tròn to khi phập phồng thổn thức khi vỡ ra tức tưởi như một “thiên bạc mệnh” có tính dự báo về những chông gai trắc trở mà số phận người nghệ sỹ sẽ phải đón nhận ở phía trước. Và màu «áo choàng đỏ gắt» tiếp theo sau tiếng đàn bọt nước ấy chính là những trận đấu bò sinh tử. Nhưng đấu trường bò tót ngay trong sự chuyển gam của Thanh Thảo đã trở thành một đấu trường chính trị khổng lồ ngột ngạt căng thẳng đẫm máu của Tây Ban Nha thời đó. Màu áo của kiếm sĩ “đỏ gắt” lên hay nền chính trị độc tài thân phát xít đang thiêu đốt tự do dân chủ và kiềm hãm sự phát triển của một nền nghệ thuật đang già cỗi. Đây là một trận chiến lớn giữa một bên là khát vọng dân chủ của nhân dân nói chung của Lor-ca nói riêng với nền chính trị độc tài. Xét trong lĩnh vực nghệ thuật đó là cuộc xung đột giữa khát vọng cách tân của nhà thơ với nền nghệ thuật già nua. Xét ở phương diện nào thì Lorca cũng là một chiến sĩ đơn độc đáng thương.
Giữa lúc trận đấu đang căng thẳng thì bỗng vang lên âm thanh du dương bổng trầm của tiếng đàn: li-la li-la li-la một thanh âm trong trẻo thanh tao quyện hòa mùi hương hoa Lila dìu dịu lan tỏa với những cánh hoa màu tím nồng nàn đầy sức sống giữa khung cảnh bạo tàn và chết chóc. Đấu trường khốc liệt nhường chỗ cho sự thăng hoa của nghệ thuật. Ai nói nghệ thuật không có sức mạnh. Không ! Nghệ thuật chính là sức mạnh vô địch có thể hóa giải mọi hận thù. Và chàng nghệ sỹ của chúng ta đang thăng hoa trong bản hòa tấu Ghita đầy lãng mạn. Người đọc như đang dõi mắt theo từng bước chân lãng tử của người nghệ sỹ trên hành trình «lang thang về miền đơn độc» cùng với «vầng trăng – yên ngựa». Đây là một hệ thống thi ảnh thường bắt gặp trong thơ Lorca chàng kị sỹ một mình trên lưng «con ngựa đen/ vầng trăng đỏ” với những bản đàn ghita phiêu bồng cùng giấc mơ tranh đấu. Trong thơ Thanh Thảo Lorca hiện lên với dáng điệu «chuếnh choáng». Đây là một hình ảnh mang cái hồn say của người nghệ sỹ không phải cái say tầm thường của những cốc rượu vang đỏ mà là say trong tranh đấu say trong sáng tạo nghệ thuật. Nếu như chàng Đôn-ki-hô-tê trong trang văn của Xec-van-tec mải miết với giấc mơ hiệp sĩ thì Lorca mãi “mỏi mòn” trong hành trình chống lại tộc ác của bè lũ Phờ-răng-cô. Nhưng đáng thương thay trong hành trình khát vọng ấy Lorca là một nghệ sĩ cô đơn trong sáng tạo nghệ thuật và cô độc trong chiến đấu. Nhưng không vì thế “con họa mi của xứ Granada lại ngừng hót”. Chàng vẫn “Mãnh liệt như trăm ngàn sư tử/ Vững chắc như cẩm thạch” (Thơ Lorca)
Càng chiến đấu Lorca càng say mê càng “hát nghêu ngao”. Nhưng phũ phàng thay “đường chỉ tay đã đứt” định mệnh đã khiến chàng nghệ sĩ du ca của chúng ta phải dở dang hành trình khát vọng. Phát súng của bọn phát xít đã đánh hạ Lorca đáng thương. Thanh Thảo thốt lên sững sờ «bỗng kinh hoàng”. Như không tin vào mắt mình nữa. Cả dân tộc Tây Ban Nha bàng hoàng cả thế giới nín lặng bản giao hưởng chùng xuống rồi lại vút cao lên theo “máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”. Thanh Thảo tạo dựng cái chết đầy bi phẫn của người anh hùng một cách tức tưởi bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập. Đối lập giữa niềm tin tình yêu và lạc quan khát vọng “hát nghêu ngao” với sự thật phũ phàng “áo choàng bê bết đỏ”. Đó là màu máu của Lorca làm tấm áo choàng đỏ gắt càng thêm «bê bết đỏ». Đối với Lorca anh luôn dự cảm về cái chết nhưng anh cũng không thể ngờ rằng cái chết lại đến với mình nhanh đến thế. Anh đã từng thốt lên «Tôi không muốn nhìn thấy máu !”. Nhưng máu đã đổ. Người kiếm sĩ muốn một cái chết vinh quang giữa đấu trường cùng với đôi kiếm sắc nhưng lại bị kẻ thù hành hình một cách lén lút bất minh. Nhưng Lorca chấp nhận như người cách mạng đã chấp nhận «Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Gươm kề cổ súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa». Và vì chấp nhận người anh hùng đã ung dung bình thản ra giữa pháp trường «chàng đi như người mộng du». Mộng du là trạng thái của tâm hồn đã rời thể xác nhưng không có nghĩa là biến mất khỏi thể xác. Tâm hồn và tinh thần của Lorca đã gửi tất cả vào cuộc tranh đấu và vì thế bước chân mộng du đã hóa thành những bước chân anh hùng. Càng tiếc thương chàng nghệ sĩ bao nhiêu chúng ta lại càng căm phẫn tội ác bấy nhiêu. Và Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh đang bung nở giữa bản hòa tấu trầm hùng mang âm hưởng của những tiếng Ghita nồng nàn vi diệu:
tiếng ghi -ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi -ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi -ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy
Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng! Tôi gọi đây là khúc biến tấu của tiếng đàn nó thay màu chuyển gam rất lẹ biến ảo không ngừng và đặc biệt luôn sinh sôi nảy nở giọt này vỡ đi giọt kia lại trào ra không dứt. Đó chính là sức sống! Thanh Thảo sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến sự linh hoạt khi miêu tả tiếng đàn. Màu nâu xuất hiện suy tư trầm tĩnh đến lạ thường. Đó là màu nâu của cây đàn màu nâu của đất đai màu nâu của làn da rám nắng trên thân hình những vũ nữ Digan bốc lửa. Trước giây phút từ li chàng đã ngước nhìn lên bầu trời xanh tha thiết “bầu trời cô gái ấy”. Đó là bầu trời của khát vọng bầu trời yêu thương nơi có bóng hình nàng Maria thủy chung. Đối lập với màu nâu trầm tĩnh là màu xanh của “tiếng ghita lá xanh biết mấy”. Màu xanh là sự hóa thân của Lorca và tiếng đàn vào thiên nhiên mang sức sống cỏ cây: màu xanh của những vườn cam màu xanh của thảo nguyên và những rặng Oliu hay hàng bạch dương nơi Lorca đang yên nghỉ. Hai tiếng biết mấy nằm ở cuối câu vừa là sự tha thiết trong tình cảm của người nghệ sĩ Thanh Thảo vừa để tôn thêm vẻ đẹp của tuổi trẻ Lorca – vẻ đẹp của người chiến sĩ suốt đời hi sinh vì lí tưởng.
Tiếng đàn không chỉ mang sắc màu biến tấu mà còn mang hình khối đường nét như hình hài của sinh mệnh. Nó cũng tức tưởi vỡ òa cũng biết nói tiếng nói của sự căm phẫn bạo tàn. Hay nói đúng hơn đó là tiếng kêu cứu của nghệ thuật khi bị đẩy đến bờ vực của sự tuyệt diệt.
tiếng ghi -ta tròn
bọt nước vỡ tan
tiếng ghi -ta ròng ròng máu chảy
Hai tiếng vỡ tan vừa là sự vỡ ra của bọt nước vừa là sự phập phồng thổn thức của tiếng đàn. Nó đã cất lên lời ca tranh đấu lên án bè lũ phát xít đã hủy diệt cái tài hủy diệt cái đẹp. Và vì thế bản ghita bi tráng đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn nó ròng ròng máu chảy nó uất nghẹn tức tưởi đến bật máu thành từng dòng đau thương trong một bản đàn giao hưởng hào sảng. Nỗi đau của tiếng đàn cũng là nỗi đau của người nghệ sĩ khi khát vọng chưa thành. Ta cũng đã từng bắt gặp nỗi đau của người nghệ sĩ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du “Một cung gió thảm mây sầu/ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Nỗi đau của Kiều khi hầu đàn Hồ Tôn Hiến khiến cho dây đàn cũng nhỏ máu. Đó chính là sự đồng cảm giữa nghệ thuật và tâm hồn của người sinh ra nó. Thì ra nghệ thuật trong bản thể của nó cũng là một sinh mệnh.
Với thủ pháp nghệ thuật so sánh và liên tưởng Thanh Thảo đã làm sống dậy một không gian sinh tồn đầy sức sống mãnh liệt.
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Không ai chôn cất tiếng đàn hay không ai có thể chôn cất được tiếng đàn ? Có lẽ nên hiểu theo cách thứ hai. Thứ nhất bởi nó là di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm của tinh thần được kết tinh từ hương sắc cuộc đời của người nghệ sĩ nhân dân. Thứ hai bởi sức sống mãnh liệt và hoang dại của nó như loài cỏ mọc hoang không gì có thể ngăn nổi chúng. Đây chính là sự bất tử sự vĩnh hằng của nghệ thuật. Dù Lorca hi sinh nhưng sản phẩm tinh thần mà ông để lại đó chính là tâm hồn mình nghệ thuật của mình. Những bài ca tranh đấu của Lorca vẫn đồng hành cùng thời gian và đi cùng năm tháng thăng trầm của lịch sử và nó mãi mãi được hát vang trong lòng của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Không chỉ bất tử tiếng đàn của chàng ca sĩ hát rong còn mang vẻ đẹp của giọt nước mắt vầng trăng. Một hình ảnh mang nhiều liên tưởng gợi nhiều thi vị. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp của nghệ thuật được kết tinh từ những giọt mồ hôi từ máu và nước mắt của sự lao động nghệ thuật chân chính qua bao thời gian công sức đã nhào nặn thành viên ngọc lấp lánh mang hình hài của giọt nước mắt vầng trăng tinh khiết. Hay đó chính là vẻ đẹp của cuộc đời Lorca đã hóa thân thành viên ngọc quý lung linh tỏa sáng giữa đời. Bất ngờ thay nơi đáy giếng tối tăm và lạnh lẽo nơi mà bọn phát xít ngỡ tưởng đã vùi lấp được linh hồn và thể xác của người công dân Lorca lại là nơi tỏa sáng tâm hồn anh. Ở khổ cuối của bài thơ Thanh Thảo đưa người đọc vào thế giới suy tư về sự giải thoát của Lorca:
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghita màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái Digan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la
Và cuối cùng chàng nghệ sĩ của chúng ta đã dừng bước giang hồ trước dòng sông của định mệnh khi đường chỉ tay đã đứt. Sinh mệnh chấm dứt. Chàng rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian để trở về cõi vĩnh hằng. Dòng sông vô hình dung là dòng sông cuộc đời dòng sông của số phận và cũng là đường ranh giới ngăn cách giữa sự sống và cõi chết. Trên dòng sông ấy Lorca đang bơi sang ngang cùng di vật đàn ghita. Màu bạc của cây đàn là sự biến ảo từ màu nâu trầm tĩnh sang xanh thiết tha hi vọng và cuối cùng là màu của sự hư ảo trong cõi siêu sinh. Lorca đang bơi trên con thuyền thi ca mà cây đàn chính là con thuyền bàng bạc chở tình yêu và nỗi nhớ của chàng đang trôi dần vào bến bờ bất tử. Chàng dứt khoát rũ bỏ mọi hệ lụy trần gian ném lá bùa vào xoáy nước ném trái tim vào cõi lặng yên. Xoáy nước là cuộc tranh đấu hay sự hiểm nguy trên dòng sông của định mệnh ? Cõi lặng yên phải chăng là phút giây mà trái tim người nghệ sĩ ngừng đập ? Có lẽ ta không cần phải lí giải về nó. Bởi Lorca đã về nơi an nghỉ cuối cùng. Chỉ còn vang vọng nơi đây âm vọng của tiếng đàn li-la li-la li-la như bản nhạc thiết tha thấm đẫm hương thơm của loài hoa Lila đưa người nghệ sĩ – chiến sĩ về với cõi vĩnh hằng với bao niềm tiếc thương vô hạn. Tôi chợt nhớ tới bài thơ Ghi nhớ của anh:
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi
cùng với cây đàn dưới lớp cát hàng bạch dương
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi giữa rặng cây cam
và đám bạc hà.
Khi nào tôi chết
hãy vùi thây tôi tôi xin các người đó
nơi một chiếc chong chóng gió.
Có lẽ ở một nơi nào đó chàng nghệ sĩ nhân dân đang được sống giữa những sự yên vui và đầy ánh nắng của tự do nơi đó không có bạo tàn và chết chóc.
Bài thơ đã rất thành công khi tạo dựng một tượng đài Lorca bằng ngôn ngữ của thơ và âm nhạc. Với lối thơ không viết hoa đầu dòng cảm xúc liền mạch Thanh Thảo đã mang đến cho người đọc một mĩ cảm hiện đại giàu tính sáng tạo. Sự trộn lẫn giữa trường phái tượng trưng siêu thực và sức sáng tạo của Thanh Thảo đã cho ra đời một tuyệt bút đầy ngẫu hứng giàu chất nhạc. Trên hết là nhà thơ đã mang đến cho người đọc một tình yêu vô bờ bến đối với nhà thơ nhân dân chống phát xít bạo tàn. Bất kỳ một cuộc chiến nào cũng có người chiến thắng và kẻ bại trận nhưng những người biết hi sinh vì mọi người luôn luôn là người anh hùng với chiến thắng vĩ đại nhất. Gacxia Lorca là một người như thế.
Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật Lor-ca trong bài Đàn ghi ta của Lor-ca
Bài làm
I. Mở bài
– Đôi nét về tác giả Thanh Thảo: là nhà thơ luôn có trăn trở trong việc cách tân nghệ thuật thơ Việt, thơ ông là tiếng nói suy tư, triết lí về những vấn đề thời đại.
– Giới thiệu bài thơ và hình tượng Lor – ca: bài thơ mang xu hướng cách tân, đạm chất tượng trưng siêu thực. Lor – ca là nguồn cảm hứng để tác giả viết bài thơ và cũng là hình tượng trung tâm trong bài
II. Thân bài
– Lor – ca là một người nghệ sĩ – chiến sĩ dành cả cuộc đời mình cho sự đấu tranh: mở đường cho sự cách tân nghệ thuật trên nền nghệ thuật già nua của Tây Ban Nha, đấu tranh với phát xít độc tài.
1. Lor – ca người nghệ sĩ tự do nhưng đơn độc
– “những tiếng đàn bọt nước”: gợi liên tưởng đến nghệ thuật lung linh mà Lor – ca tạo ra, con là dự cảm không lành vì ngắn ngủi, mong manh của số phận người nghệ sĩ bạc mệnh.
– “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”: gợi lên cuộc đấu tranh giữa một bên là dân chủ tự do với một bên là phát xít độc tài.
– Ở đó, Lor – ca như một người hùng tự do nhưng đơn độc trên trên con đường đấu tranh cho sự cách tân nghệ thuật, cho nền dân chủ.
2. Lor – ca cái chết đầy oan khuất
– Lor – ca đầy khí phách, yêu đời, “nghêu ngao” những lời ca ngợi ca tự do trên quê hương Tây Ban Nha của mình.
– Cái chết oan khuất, bi thảm “bổng” ập đến với người nghệ sĩ, người hùng ấy. Cả đất nước “Tây Ban Nha” “kinh hoàng”, nuối tiếc trước sự ra đi của chàng, của nghệ thuật chân chính.
– Dù đối diện trước cái chết, Lor – ca vẫn hiên ngang, say sưa trong miền cách tân nghệ thuật “chàng đi như người mộng du”.
3. Lor – ca người nghệ sĩ bất tử cùng nghệ thuật chân chính
– “tiếng ghi ta nâu/ bầu trời cô gái ấy”: màu nâu gợi đến màu của vỏ đàn, của đất mẹ, màu của đôi mắt, mái tóc, làn da người thương. Đó là những cảm hứng trong nghệ thuật của Lor – ca (vì quê hương, vì tình yêu và vì chính nghệ thuật).
– “tiếng ghi ta lá xanh”: nghệ thuật của Lor – ca gắn với tuổi trẻ,
– “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” “tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy” là biểu trưng về sự mong manh của nghệ thuật, về cái chết của người nghệ sĩ.
– Số phận của nghệ thuật Lor – ca sau khi chàng mất:
+ “Không ai chôn … mọc hoang”: hành trình cách tân nghệ thuật của Lor – ca không còn ai bước tiếp, bởi vậy nghệ thuật như bị bỏ hoang.
+ Mặt khác, dù Lor – ca đã mất nhưng nghệ thuật vẫn bất diệt, tồn tại với thời gian với sức sống mãnh liệt như cỏ hoang.
– “giọt nước mắt” là sự tiếc thương, “vầng trăng” là niềm tin nghệ thuật, dù ở nơi tối tăm sâu thẳm thì tâm hồn trong sáng của người nghệ sĩ vẫn soi tỏ cho thế hệ sau.
– Lor – ca đã mất “đương chỉ tay đã đứt”, chàng giã từ cuộc đời hữu hạn để đến thế giới vô hạn bằng phương tiện “chiếc ghi ta” – nghệ thuật.
– “ném lá bùa”, “ném trái tim”: chính là sự giải thoát của Lor – ca sau khi chết. Người nghệ sĩ chân chính ý thức được “cái chết” của bản thân là để nghệ thuật được tái sinh mạnh mẽ, để hệ sau tiếp tục cách tân.
+ Ý thức của Lor – ca cũng thể hiện qua lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”: đó là sự gắn bó của Lỏ – ca với nghệ thuật, cũng là thông điệp muốn thế hệ sau vượt qua án ngữ nghệ thuật của mình.
– “li la li la …”: tiếng ghi ta bất tử dùng người nghệ sĩ đã chết, có thể là vòng hoa tử đinh hương viếng linh hồn Lor – ca.
III. Kết bài
– Trình bày suy nghĩ về hình tượng Lor – ca.
– Tổng kết giá trị nghệ thuật: thể thơ tự do, hình thức phóng khoáng, xây dụng thành công hình tượng Lor – ca và tiếng đàn, kết hợp hà hòa giữa thơ và nhạc, …
– Bài thơ thể hiện sự trân trọng, xót thương của tác giả với Lor – ca, thể hiện khát khao cách tân nghệ thuật của mình.
Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật Lor-ca trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
Bài làm
Đàn ghi ta của Lor-ca tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Thanh Thảo. Với lời thơ giàu ý nghĩa biểu tượng, Thanh thảo đã vô cùng thành công khi tái hiện lại chân dung đẹp đẽ, hiên ngang, dũng cảm và cái chết đầy bi thương của con người tài hoa Lor-ca. Hình tượng Lor-ca là hình tượng trung tâm, làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
Trước hết Lor-ca là người nghệ sĩ, người chiến sĩ đơn độc. Hình ảnh đầu tiên Thanh Thảo dùng để khái quát về Lor-ca: Những tiếng đàn bọt nước, đây là hình ảnh được sáng tạo dựa trên thuyết tương giao của chủ nghĩa tượng trưng. Bọt nước gợi ra tiếng đàn tròn trịa, trong trẻo, long lanh, nhưng đồng thời bọt nước còn gắn với sự mong manh dễ vỡ. Hình ảnh đã góp phần thể hiện cuộc đời ngắn ngủi của Lor-ca. Chọn ấn tượng đầu tiên để giới thiệu về Lor-ca không phải ấn tượng ngoại hình mà là sử dụng tiếng đàn, bởi tiếng đàn – nghệ thuật là phần tinh túy, đẹp đẽ nhất của Lor-ca. Lối vẽ chân dung ghi lại cái thần thái, cái hồn, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Tuy nhiên, tài năng nghệ thuật của Lor-ca bị đặt vào thử thách khắc nghiệt:
Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
Sự phóng khoáng, lãng mạn của Lor-ca phải đối mặt mặt cái đẫm máu, độc tài của chế độ Phát-xít, tư tưởng cách tân tiến bộ phải đối mặt với nghệ thuật già nua, bảo thủ lúc bấy giờ. Chình vì vậy mà Lor-ca trở vên vô cùng cô đơn: “Đi lang thang về miền đơn độc”. Hai chữ ‘lang thang” nhấn mạnh vào hành trình biên viễn, không có điểm dừng, đây cũng chính là hành trình nghệ thuật của Lor-ca. Trên con đường sáng tạo nghệ thuật, hành trang mà Lor-ca mang theo vô cùng giản dị:
với vầng trăng chếnh choàng
trên yên ngựa mỏi mòn
Hành trang của chàng là niềm đam mê, tình yêu nghệ thuật tha thiết. Lor-ca không đơn thuần là người nghệ sĩ suốt một đời khao khát đi tìm cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật mà ông còn là người chiến sĩ dám chiến đấu bảo vệ cái đẹp, nghệ thuật được trường tồn, phát triển. Dù trên con đường đó còn nhiều chông gai, đơn độc nhưng chưa một phút ông nản lòng, từ bỏ. Với sáu câu thơ đầu tiên, Thanh Thảo đã dựng lên chân dung người nghệ sĩ Lor-ca tài hoa, lãng mạn, tự do, phóng khoáng, dành trọn cuộc đời cho nghệ thuật. Song người nghệ sĩ ấy cũng thật cô đơn trên hành trình sáng tạo nghệ thuật trên chính quê hương mình.
Không chỉ vậy, Lor-ca còn là một con người có số phận bất hạnh. Trong khuôn khổ một bài thơ ngắn, Thanh Thảo không đi sâu vào nhiều chi tiết, sự kiện mà chỉ nhấn mạnh, tô đậm vào phút giây bi phẫn, đau đớn nhất trong cuộc đời Lor-ca, đó là khi Lor-ca bị chủ nghĩa phát xít xát hại. “Bỗng kinh hoàng” tiếng nói giật mình, thảng thốt, nhấn mạnh sự đột ngột, đau đớn. Hai từ “bê bết” được đảo lên trước từ “đỏ” khiến cho sắc đỏ trở nên đông đặc, ám ảnh, đập mạnh vào thị giác người đọc. Đó là màu của tội ác đã thành hình, thành khối. Hình ảnh thơ đã tô đậm cái chết vô cùng đau đớn của người nghệ sĩ Lor-ca.
Đối lập với cái chết đau đớn là tâm thế, cách ứng xử của Lor-ca. Nghệ thuật tương phản đối lập tiếp tục được khai thác triệt để trong hai câu thơ:
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
Nếu câu thơ trên sử dụng cấu trúc câu bị động cùng nhiều thanh trắc, tạo nên ấn tượng nặng nền buốt nhói tô đậm vào sự tàn bạo, áp chế dã man của chủ nghĩa phát xít thì câu thơ dưới lại sử dụng cấu trúc câu chủ động và trải dài mênh mang với nhiều vần bằng. Vượt lên trên sự áp chế của chủ nghĩa phát xít Lor-ca vẫn để tâm hồn mình vào một cõi khác, tìm cho mình một thế giới riêng. Tư thế đi như người mộng du cho thấy cái chết vật lí không hề làm Lor-ca lo lắng, mà đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời, tâm hồn chàng vẫn phiêu diêu ở nơi nghệ thuật.
Dù thân thể đã vĩnh viễn bị tước đoạt, nhưng Lor-ca vẫn còn sống mãi trong lòng mọi người, Lor-ca đã đến với thế giới của sự bất tử hóa: “Đường chỉ tay đã đứt/ dòng song rộng vô cùng/ Lor-ca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc” đường chỉ tay là một ẩn dụ về cuộc đời con người, khi đường chỉ tay mất cũng đồng nghĩa với cái chết. Hình ảnh đó đột ngột, bất ngờ đầy đau đớn. Người nghệ sĩ đang đạt đến độ chín nhất về tư tưởng cũng như nghệ thuật đã vĩnh viễn lìa xa cõi đời. Nhưng dù Lor-ca đã mất đi thì thứ nghệ thuật trác tuyệt ông để lại vẫn tồn tại mãi mãi. Hình ảnh cây đàn cùng người nghệ sĩ Lor-ca phát quang, tỏa rang, lung linh và rực rỡ. Đến đây cây đàn không chỉ là người bạn song hành mà con là đôi cánh, phương tiện để đưa Lor-ca đến cõi bất tử. Như vậy sự gắn bó, hòa quyện giữa Lor-ca và nghệ thuật là sự gắn bó khăng khít mà ngay cả cái chết cũng không thể chia lìa.
Những câu thơ cuối bài chính là lời tổng kết của Thanh Thảo về ý nghĩa cái chết, về vẻ đẹp nhân cách và bản lĩnh của Lor-ca. Có thể nhận thấy trong bốn câu thơ cuối Thanh Thảo dung cấu trúc câu chủ động: chàng ném …, cấu trúc này tô đậm vào sự chủ động, dứt khoát. Nếu cái chết của Lor-ca ở phần trên được nhìn nhận như là sản phẩm của sự tàn bạo của chế độ Phát xít thì ở đây lại được nhìn nhận như sự lựa chọn đầy chủ động của Lor-ca. Hành động chủ động ném lá bùa chính là hành động biểu tượng của sự tự tin, bản lĩnh khi tự quyết định điều khiển số phận mình. Không chỉ làm chủ số phận mình, chàng còn: “chàng ném trái tim mình/ vào lặng yên bất chợt”, cái lặng yên đầy ý nghĩa. Đó là cái lặng yên vĩnh hằng mà Lor-ca muốn trở về sau cuộc đời hoạt động sôi nổi. Đồng thời cái chết của Lor-ca cũng như một lời cảnh tỉnh cho người dân Tây Ban Nha lúc bất giờ, để họ thức tỉnh trước sự cai trị tàn độc của chế độ phát xít. Bởi vậy, cái chết của Lor-ca càng trở nên nhân văn, giàu ý nghĩa hơn.
Bằng lối thơ tượng trưng siêu thực giàu ý nghĩa, Thanh Thảo đã tái hiện thành công chân dung người nghệ sĩ tài hoa Lor-ca. Tái hiện chân dung nhân vật thể hiện tình yêu, niềm ngưỡng mộ trước một tài năng kiệt xuất, đồng thời cũng thể hiện khao khát canh tân nghệ thuật của Thanh Thảo ở nước nhà.
Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật Lor-ca trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
Bài làm
Là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, Thanh Thảo lại làm cho bản thân mình bằng những cách tân mới mẻ trong các sáng tác thơ ca của mình. Thơ ca của ông hàm súc, đa nghĩa, giàu giá trị . Đàn ghi ta của Lor-ca có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông với hình tượng người nghệ sĩ Lor-ca thiên tài.
Đàn ghi ta của Lor-ca được rút ra từ tập thơ Khối vuông ru bích được coi là tập thơ tiêu biểu cho phong cách tư duy thơ mới của Thanh Thảo. Đây quả thực không phải là tập thơ dễ đọc, thơ nhuốm màu siêu thực, người đọc cần có trình độ văn hóa, có tư duy và hiểu biết mới có thể tìm ra những tầng nghĩa ẩn kín mà tác giả muốn gửi gắm.
Trước hết để có thể hiểu được hình tượng Lor-ca được tác giả khắc họa trong bài thơ thì cần hiểu về tiểu sử về nhân vật này. Lor-ca được đánh giá là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thế kỉ XX, với những đóng góp nghệ thuật xuất sắc của mình. Ông mang trong mình niềm khát vọng lớn lao canh tân, đổi mới nghệ thuật Tây Ban Nha đang dần già cỗi. Nhưng số phận của ông lại đầy bất hạnh bởi ông không chỉ là một nghệ sĩ thuần túy mà còn là một người chiến sĩ. Ông đã bị chế độ độc tài tàn sát vô cùng dã man.
Từ chính cuộc đời của ông, Thanh Thảo đã sáng tác tác phẩm vừa đẹp đẽ vừa bi phẫn về cuộc đời tài hoa mà bạc mệnh của Lor-ca. Nắm được những nét tiểu sử chính của Lor-ca cũng là cơ sở để ta thấu hiểu và lí giải được những điều mà Thanh Thảo muốn nhắn nhủ.
Trước hết Lor-ca là một người nghệ sĩ hết sức cô đơn. Trong hành trình làm nghệ thuật của minh, ông không có người bạn đồng hành, ông như một kẻ du ca trong hành trình đầy gian khổ, biên viễn của bản thân:
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Chỉ với ba dòng thơ thôi, nhưng người đọc cũng có thể hình dung được dáng điệu đơn độc, lẻ loi của Lor-ca trên hành trình đầy những truân chuyên, vất vả. Nhưng trong cái cô đơn, đơn độc ấy ta vẫn thấy một người nghệ sĩ tài hoa lãng mạn với sự xuất hiện của ánh trăng chếnh choáng. Vầng trăng dưới con mắt Lor-ca mà chếnh choáng, hay trong men say Lor-ca chếnh choáng trước nghệ thuật. Nếu hiểu theo nghĩa đó, thì vầng trăng kia chính là thứ nghệ thuật tuyệt mĩ mà Lor-ca hằng theo đuổi.
Nhưng dù mang trong mình những khát vọng nghệ thuật lớn lao nhưng cuộc đời của Lor-ca lại vô cùng bi kịch:
Tây Ban Nha, hát nghêu ngao
bỗng kinh hoang
áo choàng bê bết đỏ
…
Tiếng ghita ròng ròng
máu chảy
Hai khổ thơ đã ghi lại giây phút bi phẫn, đau đớn nhất trong cuộc đời của Lor-ca. Cuộc đời ông cả đời đều mang trong mình những nguyện ước lớn lao, cách tân nghệ thuật, đem đến một làn gió mới mẻ cho nền thơ ca già cỗi. Nhưng ông và thứ nghệ thuật đẹp đẽ kia lại vấp phải trở lực quá lớn, bị các thế lực tàn ác hủy hoại đến tận cùng. Bản thân ông khi chết đi còn bị chúng ném xác phi tang. Còn điều gì đau đớn và tuyệt vọng hơn. Trong hai khổ thơ này, hình tượng Lor-ca được khắc họa với tương quan đất nước Tây Ban Nha và tiếng đàn. Câu thơ đầu tiên cho thấy tiếng hát của ông không đơn thuần chỉ là tiếng nghêu ngao mà tiếng nói của dân tộc. Cùng với đó là hình ảnh rất đỗi đặc trưng của đất nước này, những trận đấu bò tót nảy lửa. Nhưng đồng thời màu đỏ chói của máu lại khiến ta giật mình. Trong khổ thơ, ông sử dụng hình ảnh thơ mang tính tượng trưng cao, kết hợp linh hoạt các biện pháp ẩn dụ, hóa dụ khiến cho hình ảnh thơ càng trở nên đa nghĩa, giàu giá trị biểu đạt hơn. Tiếng ghi-ta hóa thân, hiện thân của Lor-ca lần lượt xuất hiện. Tiếng ghita nâu là những khát khao đổi mới cách tân. Tiếng ghi ta lá xanh là niềm hi vọng, mơ ước vào tương lại. Nhưng hiện thực phũ phàng, khi khát vọng chưa thực hiện được thì thứ nghệ thuật ông dày công vun đắp đã bị phá hủy:“Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan/ tiếng ghi tàn ròng ròng/ máu chảy”.
Dù bị hủy hoại, nhưng Lor-ca và thứ nghệ thuật tuyệt mĩ mà ông tạo nên sẽ không bao giờ bị mất đi: “không ai chôn cất tiếng đàn/…/ long lanh trong đáy giếng”. Ở đây tiếng đàn – thứ nghệ thuật trác tuyệt của Lor-ca không bị mất đi, mà ngược lại chúng có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, có sức truyền bá cảm hứng đến tất cả mọi người. Cho thấy sức sống bền bỉ, dai dẳng mà không thế lực nào có thể hủy diệt được. Nhưng ẩn đằng sau đó là cả sự xót thương vô hạn mà Thanh Thảo giành cho Lor-ca: “giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh trong đáy giếng”. Hình ảnh vầng trăng nơi đáy giếng là một hình ảnh thơ đã nghĩa: có thể hiểu là vầng trăng rơi nước mắt trước sự ra đi của Lorca, nếu sử dụng liên từ “như” thì câu thơ có thể hiểu giọt nước mắt như vầng trăng tỏa rạng. Với việc bỏ trống liên từ, khiến cho câu thơ càng trở nên đa nghĩa hơn, giàu giá trị biểu đạt hơn.
Bài thơ khép lại bằng tiếng lia-la li-la li-la trải dài bất tận, cũng là minh chứng cho sức sống trường tồn của Lor-ca và thứ nghệ thuật tuyệt mĩ mà ông đã dày công tạo dựng.
Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng, siêu thực đặc trưng cho phong cách thơ ca của Thanh Thảo để tạc nên tượng đài người nghệ sĩ bất tử Lor-ca. Qua những hình ảnh đa trị, nhiều ý nghĩa, người đọc có thể cảm nhận một cách chân thực và đầy đủ hơn vẻ đẹp nhân cách và tài năng của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca.
Đề bài: Phân tích hình tương nhân vật Lor-ca trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của nhà thơ Thanh Thảo.
Bài làm
Thanh Thảo là một nhà thơ khoác áo lính, ông sinh ra tại Quảng Ngãi, tốt nghiệp khoa văn trường Đại Học Tổng Hợp nhưng sau đó vào chiến trường miền Nam công tác. Thanh Thảo luôn nỗ lực tìm tòi hướng để cách tân thơ Việt. Ông đi theo trường phái thơ tượng trưng siêu thực có nguồn gốc từ phương Tây mà Lor-ca là một trong những người đi đầu trong trường phái thơ đó. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” đã xây dựng thành công hình tượng nghệ sĩ Lor-ca.
Lor-ca là một nghệ sĩ thiên tài người Tây Ban Nha. Ông có một tầm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị cũng như đời sống nghệ thuật của Tây Ban Nha. Trong đời sống nghệ thuật, ông là một trong những người đi đầu đẻ cách tân nền nghệ thuật già nua của Tây Ban Nha thời bấy giờ. Trong đời sống chính trị ông là người khởi xướng phong trào đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân phát xít đã hết sức phản động. Năm 1936 bè lũ Phrăng-cô quá hoảng sợ trước tầm ảnh hưởng của Lor-ca nên chúng đã tìm cách bắt và sát hại ông. Tuy nhiên sau cái chết của Lor-ca , sự ảnh hưởng của ông càng trở nên mạnh mẽ hơn. Nó vượt qua biên giới của Tây Ban Nha. Tên tuổi của Lor-ca đã trở thành biểu tượng cho công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại. Sự ảnh hưởng của Lor-ca không chỉ trong thời đại của ông mà nó còn tồn tại cho tới bây giờ. Cuộc đời, sự nghiệp, những cống hiến của Lor-ca chính là những tác động khơi nguồn cảm xúc để Thanh Thảo viết bài thơ.
Thanh Thảo đặt nhan đề bài thơ là “Đàn ghi ta của Lor-ca”, đàn ghi ta là nhạc cụ truyền thống của Tây Ban Nha, Lor-ca là người nghệ sĩ thiên tài của Tây Ban Nha, nhan đề bài thơ đã hé mở hình tượng nghệ thuật trung tâm của bài thơ là Lor-ca và gắn liền với hình tượng ấy biểu tương nghệ thuật mang tính cách tân của Lor-ca, của đất nước Tây Ban Nha: đàn ghi ta. Lor-ca là người nghệ sĩ sáng tạo, đàn ghi ta là phương tiện để người nghệ sĩ sáng tạo.
Lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” là lời chăng chối cuối cùng trước khi giã từ cuộc sống của Lor-ca, đồng thời cũng nói lên tâm nguyện của Lor-ca. Nếu cây đàn mang nghĩa biểu trưng cho xứ sở Tây Ban Nha, cho nền nghệ thuật Tây Ban Nha thì lời đề từ đã thể hiện tình yêu, sự gắn bó của Lor-ca đối với đất nước Tây Ban Nha, với nền nghệ thuật Tây Ban Nha. Cũng có thể hiểu cây đàn là biểu trưng cho sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca, điều này cho ta thấy Lor-ca sẵn sàng dũng cảm lùi mình vào quá khứ để mở ra con đường thênh thang cho thế hệ sau thỏa sức mà sáng tạo. Lor-ca coi sự nghiệp sáng tạo, những cống hiến của mình là nền móng chứ không phải bức tượng đài, không phải ranh giới để thế hệ sau có thể đứng trên nền móng đó được thỏa sức sáng tạo.
Bài thơ được viết theo trường phái thơ tương trưng siêu thực nên khi đọc thì độc giả có thể thỏa sức tưởng tượng để hiểu những hình ảnh theo nhiều chiều khác nhau. Khổ thơ đầu bài thơ Thanh Thảo tái hiện hình ảnh của Lor-ca trên nền nghệ thuật Tây Ban Nha. Hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” biểu trưng cho sự sống và sự sáng tạo của Lor-ca vô cùng mỏng manh và rất dễ vỡ, tan biến . “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” biểu trưng cho môi trường chính trị ở Tây Ban Nha bức bối, ngột ngạt, phản động. Trong hai câu thơ đầu tác giả đặt hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” bên cạnh hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” như một dụng ý cho thấy cuộc sống của Lor-ca đang cực kì bức bối, ông dường như đang phải cố gồng mình lên để đối mặt với một chế độ xã hội phản động, già nua, có thể nói cuộc sống của ông là đầy thách thức. Câu thơ thứ ba ghi lại chuỗi hợp âm của tiếng đàn ghi ta “li la li la li la”, nó biểu trưng cho những sáng tạo của Lor-ca . Như vậy dù sống trong một môi trường xã hội ngột ngạt nhưng người nghệ sĩ Lor-ca vẫn không ngừng sáng tạo nghệ thuật, vẫn say xưa với những sáng tạo nghệ thuật của mình. “Đi lang thang về miền đơn độc”, người nghệ sĩ đi nhưng chưa xác định rõ được đích đến, người nghệ sĩ vừa đi vừa suy nghĩ vừa tìm tòi. Đi về miền đơn độc là đi về miền của tâm trạng, miền của cảm xúc. Đây là hành trình đi tìm cái tôi sáng tạo, đi tìm cái tôi của người nghệ sĩ, tìm cảm hứng sáng tạo. Đồng hành cùng với người nghệ sĩ là vầng trăng, là chú ngựa nhưng lại là vầng trăng “chếnh choáng”, “yên ngựa mỏi mòn”. Vầng trăng thì xa vời, hư ảo, nửa say nửa tỉnh, chú ngựa cũng mỏi mòn, mệt mỏi rã rời, một hành trình vô cùng nhọc nhằn và cô đơn, hành trình “đơn thương độc mã”. Lor-ca là một người nghệ sĩ dám sống và cả dám chết vì nghệ thuật, dám cháy hết mình cho nghệ thuật. Mặc dù luôn luôn phải đối mặt với khó khăn khốc liệt nhưng khát vọng cách tân nền nghệ thuật già nua lúc nào cũng bùng cháy mãnh liệt trong Lor-ca.
Hai khổ thơ tiếp theo, Thanh Thảo tái hiện cái chết của Lor-ca cũng vẫn qua những hình ảnh thơ mang tính tượng trưng. “Tây ban Nha hát nghêu ngao”, Tây Ban Nha ở đây chính là Lor-ca, dường như tất cả những tinh hoa những vẻ đẹp của Tây Ban Nha đã hội tụ trong con người Lor-ca. Lor-ca bây giờ không chỉ là con người cá nhân mà là một biểu tương cho xứ sở Tây Ban Nha. Thanh Thảo đã thể hiện rất rõ tình cảm ngưỡng mộ, khâm phục, kính trọng của mình dành cho thần tượng – Lor-ca. Hành động “hát nghêu ngao” cho thấy một tâm trạng phấn khích, vui vẻ, một cuộc sống đang diễn ra bình dị. “bỗng kinh hoàng”, tín hiệu báo hiệu tin dữ, việc xấu ập đến. “áo choàng bê bết đỏ”, Lor-ca đã bị bắn trọng thương. Sau hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ”, nghĩa là sau khi Lor-ca đã bị bắn trọng thương là một loạt hình ảnh diễn tả sự biến đổi liên tục, liên hoàn của tiếng đàn: “tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta xanh”, “tiếng ghi ta tròn bọt nước”, “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Từ khi viên đạn xuyên thấu vào cơ thể Lor-ca, nó đã phá tan những điều giản dị nhưng đáng quí như là tình yêu, hi vọng, để rồi cuối cùng kết lại trong một cái chết oan nghiệt và thảm khốc. Thanh thảo đã có cách diễn đạt hình tượng hóa giúp chúng ta như cảm nhận được quá trình ập đến của cái chết và qua đó cũng ta cũng cảm nhận được sự đau đớn, xót xa của Thanh Thảo trước sự ra đi của thần tương trong lòng mình.
Khổ thơ tiếp theo chính là tiếng nói tri âm đồng vọng của Thanh Thảo với Lor-ca. Hai câu thơ đầu của khổ thơ mang hình thức đối thoại “không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang”, đó là lời đối của Thanh Thảo lại lời chăng chối của Lor-ca là lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Lor-ca nhắn nhủ rằng hãy đưa tôi vào quá khứ, hãy để tôi làm nền móng để cho thế hệ sau xây lên lâu đài nghệ thuật vĩ đại hơn nhưng thực tế thì “không ai chôn cất tiếng đàn” nghĩa là không ai thấu hiểu và thực hiện được tâm nguyện chân chính mà Lor-ca đã gửi gắm. Tiếng đàn được ví như cỏ mọc hoang, nền nghệ thuật của Tây Ban Nha đang phát triển nhưng không theo một đường lối thống nhất, nó phát triển tùy theo sở thích và cảm hứng của người sáng tạo. Thanh Thảo và Lor-ca là hai người nghệ sĩ cách xa nhau về thế hệ, khác xa nhau về nề văn hóa nhưng ở họ vẫn có những tiếng nói tri âm đồng vọng, phải chăng đó là sự gặp gỡ của người nghệ sĩ có cùng quan điểm sáng tác, có chung nguồn cảm hứng sáng tạo. hai câu thơ cuối đoạn thơ đã thể hiện cảm xúc mãnh liệt của Thanh Thảo trong một hình ảnh được khúc xạ nhiều chiều không gian “giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng”, Phải chăng hình ảnh này xuất phát từ một sự việc sau khi giết chết Lor-ca, để giấu giếm tôi ác, để phi tang, bọn giết Lor-ca đã vứt thi thể ông xuống giếng. Phải chăng đó là hình ảnh biểu thị cho một nỗi đau không thể nguôi ngoai?
Hai khổ thơ cuối bài thơ Thanh Thảo tập trung diễn tả sự giã từ của Lor-ca, Lor-ca đã chết nhưng đối với Thanh Thảo Lor-ca có thực sự đã vĩnh viễn ra đi? Thanh Thảo nhắc tới “đường chỉ tay đã đứt” là nhắc tới cái chết, nhắc tới sự hữu hạn của đời người, nhắc tới “dòng sông rộng vô cùng” chỉ sự vô hạn của cuộc đời chung, dòng sông cuộc đời. Đó là một quy luât nghiêt ngã mà mỗi người đều phải trải qua và Lor-ca cũng không thể tránh khỏi. Chỉ có điều trong cảm nhận của Thanh Thảo, đây là cuộc giã từ chủ động và thanh thản. Chàng chủ động bơi sang bên kia dòng sông cuộc đời trên chiếc ghi ta đã ngả màu bạc. Chàng chủ động để lại tín ngưỡng, tình yêu “chàng ném lá bùa cô gái Di-gan – vào xoáy nước – chàng ném trái tim mình – vào lặng yên bất chợt”. Lor-ca không chết trong cảm nhận của Thanh Thảo, Lor-ca vẫn sống, sống ở phía bên kia của dòng sông cuộc đời. thanh Thảo đã bất tử hóa hình tượg nhân vật Lor-ca. Với Thanh Thảo, Lor-ca vẫn sống bằng những sáng tạo, bằng những cống hiến cho nền nghệ thuật Tây Ban Nha và nền nghệ thuật thế giới. Câu thơ cuối bài ghi lại hợp âm tiếng đàn ghi ta “li la li la li la . . .” và nó tiếp tục biểu trưng cho những sáng tạo của Lor-ca. Như vậy trong cảm nhận của Thanh Thảo ở phía bên kia dòng sông cuộc đời Lor-ca vẫn không ngừng sáng tạo nghệ thuật. Hay nói cách khác Lor-ca và những sáng tạo của ông vẫn còn mãi trong tâm tưởng của tác giả Thanh Thảo và của mọi người. Hai câu thơ đặc biệt đã mang lại tính nhạc cho bài thơ, hơn nữa câu thơ cuối bài như một giai điệu ngân vang tạo nên dư âm trong lòng người đọc.
Bằng việc sử dụng hình ảnh thơ có tính tượng trưng cao, Thanh Thảo đã xây dựng thành công hình tượng Lor-ca từ sự sống tới cái chết, đồng thời thể hiện những tình cảm của mình dành cho thần tượng. Từ đó giúp người đọc cảm nhận được Lor-ca là một người chiến sĩ, người nghệ sĩ đấu tranh không ngừng nghỉ cho những khát vọng chân chính và cao cả: cách tân nền nghệ thuật già nua, đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân phát xít đã quá phản động.
Bên cạnh việc sử dụng hình ảnh thơ mang tính tượng trưng Thanh Thảo còn tổ chức bài thơ, phân câu theo một trật tự khác thường.Bài thơ có hình thức âm thanh, nhưng câu thơ không vần, không dấu chấm, không dấu phẩy, không viết hoa đầu dòng.
Bài thơ thành công trong việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật của trường phái thơ tượng trưng siêu thực . Tác phẩm cũng là một minh chứng cho việc luôn luôn tìm hướng để cách tân thơ Việt của ông. Hình tượng nghệ sĩ Lor-ca mang tầm vóc vĩ đại sẽ sống mãi trong lòng độc giả bao thế hệ.
Đề bài: Nêu cảm nhận của em về hình tượng Lor–ca trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo.
Bài làm
Lor-ca là nhà thơ lỗi lạc, là chiến sĩ tiên phong chống phát xít của Tây Ban Nha trong thế kỉ XX, Ngày 19-8-1936, ông đã bị bọn phát xít Phrăng-cô sát hại dã man.
Thanh Thảo đã nhắc lại câu thơ của Lor-ca “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” vừa làm đề từ cho bài thơ, vừa như nguyện cầu cho linh hồn Lor-ca, nhà nghệ sĩ tài ba đời đời bất tử.
Lor-ca đã nhiều năm ngồi vắt vẻo trên yên ngựa, mặc áo choàng đỏ như các lực sĩ đấu bò tót, khoác chiếc đàn ghi ta sau lưng đi rong ruổi ngược xuôi khắp đất nước Tây Ban Nha để sưu tầm dân ca, để học tập những điệu hát đồng quê dân dã. Tiếng đàn của chàng nghệ sĩ cứ tan ra như bọt nước. Các hình ảnh “áo choàng đỏ gắt”, “vâng trăng chếnh choáng”, “yên ngựa mỏi mòn” và các từ láy lang thang, đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn phối âm với tiếng đàn “li-la li-la li- la” như tan ra trong không trung, đã gợi lên bao liên tưởng về nhà thơ thiên tài, về nhạc sĩ Lor-ca xa xôi, thuở ấy:
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với trầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Khổ thơ thứ hai, thứ ba tái hiện lại giây phút “kinh hoàng” khi Lor-ca người chiến sĩ đấu tranh cho tự do đã bị bọn phát xít Phrăng-cô dẫn ra pháp trường sát hại. Chàng nghệ sĩ “đi như người mộng du” giữa bầy ác quỷ, tiếng hát nghêu ngao và tiếng đàn của chàng “bỗng kinh hoàng”, “đứt ngang giây” chỉ còn lại, chỉ nhìn thấy “áo choàng bê bết đỏ”.
Lor-ca đã ngã xuống trước làn đạn của bè lũ phát xít dã man, đã để lại một “bầu trời” thương nhớ mênh mông cho “cô gái ấy”, cho người yêu (nàng An-na Ma-ri-a)! “Tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta lá xanh” là biểu tượng cho một tâm hồn nghệ sĩ mang một tình yêu tha thiết và yêu đời, gắn bó với quê hương, với nhân dân. Sau loạt đạn của quân thù, một tài năng đã bị huỷ diệt; tiếng đàn bị “vỡ tan” như bọt nước, bị “đứt ngang dây”, với bao máu đỏ chảy “ròng ròng”. Thanh Thảo qua các ẩn dụ, so sánh, tượng trưng và điệp ngữ đã tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và biểu cảm, bộc lộ nỗi tiếc thương Lor-ca, một thiên tài bị cái ác sát hại. Điệp ngữ “tiếng ghi ta” bốn lần vang lên như tiếng nói, tiếng nấc nghẹn ngào:
Tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
Phần cuối bài thơ (13 câu), Thanh Thảo dùng lối nói phủ định để khẳng định một chân lí, để ca ngợi sự bất tử của người nghệ sĩ. Không ai có thể chôn cất được tiếng đàn? Sắc đẹp của giai nhân, tài năng nghệ sĩ có thế lực nào có thể “chôn cất” được? Có gì nhiều bằng cỏ? Có gì xanh bằng cỏ? Có gì sống mãnh liệt bằng cỏ trên mặt đất bao la? Và vầng trăng thì vĩnh hằng cùng vũ trụ mênh mông. Lor-ca cũng vậy. Cuộc đời chỉ có 38 mùa xuân nhưng tài năng và tinh thần của nhà thơ, nhà nghệ sĩ mãi mãi bất diệt như tiếng đàn ghi ta, như cỏ xanh trên thảo nguyên, như vầng trăng trên bầu trời lấp lánh soi đáy giếng. Thơ Thanh Thảo tuy hạn chế vé vần điệu, nhưng anh đã tạo nên được một số hình ảnh, một số đường nét đầy ấn tượng để khẳng định Lor-ca “thác là thể phách, còn là tinh anh”:
Không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Tài sắc của nàng Kiều còn mãi trong tâm hồn những chàng Kim trong cõi đời. Tiếng đàn, tiếng hát “thậm hay” của anh Trương Chi vãn còn thổn thức tâm hồn thiếu nữ gần xa. Tiếng đàn diệu huyền của cô Cầm mà thi hào Nguyễn Du đã nhắc tới trong bài thơ chữ Hán “Long Thành cầm già ca” vẫn còn vang vọng khấp 36 phố phường Hà Nội hôm nay và ngày mai! Hình như Thanh Thảo đã “nghĩ tới” những tài năng và thân phận đầy bi kịch ấy khi viết những dòng thơ trên đây?
Khi số phận đã hết, “đường chỉ tay đã đứt”, Lor-ca bước sang thế giới bên kia, đã “bơi sang ngang” dòng sông với chiếc ghi ta “màu bạc”. Chàng nghệ sĩ đã bỏ lại đời, “ném lại” tình yêu và số phận mình vào “xoáy nước” cuộc đời đầy máu và nước mắt để ra đi. Và âm thanh “li-la li-la li-la”diệu huyền của tiếng đàn ghi ta cứ vang vọng mãi, cứ “ròng ròng – máu chảy” mãi, để lại bao đau đớn tiếc thương trong lòng người.
Lor-ca như một lực sĩ đấu bò tót. Lor-ca áo choàng bê bết máu đỏ trên pháp trường. Lor-ca đã đi vào cõi bất tử và để lại tiếng đàn ghi ta. Đó là cấu tứ của bài thơ, cũng là hình tượng Lor-ca qua bài thơ của Thanh Thảo mà chúng ta cảm nhận được.
Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” là tiếng khóc thương, là tình đồng điệu liên tài của một nhà thơ xứ Quảng miền Trung Việt Nam gửi tới hương hồn nhà thơ xứ sở Grê-na-đa bên trời Âu. Có những câu thơ của Thanh Thảo cất lên như tiếng khóc “ròng máu chảy”….
Đề bài: Về hình tượng Lor-ca trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo, có ý kiến cho rằng: Đó là mẫu nghệ sĩ – chiến sĩ, vì dân thân tranh đấu cho dân chủ và tự do nên bị bọn phát xít hành hình. Ý kiến khác thì khẳng định: Đó là mẫu nghệ sĩ thuần túy chỉ đam mê cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật nhưng bị giết hại oan khuất. Từ cảm nhận của mình về hình tượng Lor-ca, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Bài làm
Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” là bài thơ đánh dấu sự cách tân về thi pháp của Thanh Thảo. Viết theo thể thơ tự do, các câu thơ dài, ngắn, phối hợp với nhau khá hài hòa, biểu lộ lòng cảm thương sâu sắc đối với nhạc sĩ tài ba của đất nước Tây Ban Nha. Lor-ca đã bị bọn phát xít sát hại dã man vào ngày 19 tháng 8 nãm 1936. Thanh Thảo đã lấy câu thơ: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” làm đề từ cho bài thơ của mình.
Lor-ca là một nghệ sĩ đa tài, để lại dấu ấn tuyệt đẹp. Về các ngành nghệ thuật như âm nhạc, thơ ca, hội hoạ, sân khấu, nhà sưu tầm văn hóa dân gian. Thời thơ ấu nổi tiếng thần đồng.
Sau khi lấy bằng Đại học, Lor-ca cưỡi ngựa, mặc áo choàng đỏ, vai khoác đàn ghi ta đi chu du khắp nơi trên đất nước Tây Ban Nha để biểu diễn nghệ thuật, để thu thập văn hóa dân gian, Lor-ca sống một cuộc sống phóng khoáng, tự do như những võ sĩ đấu bò tót:
Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Thanh Thảo đã sáng tạo nên một số ẩn dụ để nói lên tài nghệ và phong cách sống của Lor-ca. “Những tiếng đàn bọt nước… li-la li-la li-la” là tài nghệ âm nhạc của Lor-ca. “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” là biểu tượng cách sống lang thang, tự do của Lor-ca tựa như các võ sĩ đấu bò tót trong các lễ hội. “Với vầng trăng chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi mòn” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi tâm hồn Lor-ca rất đẹp, đam mê cái đẹp.
Đoạn thơ thứ hai lên án hành động dã man của lũ phát xít đã giết hại nghệ sĩ Lor-ca:
Tây Ban Nha
Hát nghêu ngao
Bỗng kinh hoàng
Áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
Chàng đi như người mộng du
Cuộc đời của Lor-ca thật ngắn ngủi (1988 – 1936;). Chữ “bỗng” nói lên cái chết bất ngờ của Lor-ca, Chàng đang biểu diễn nghệ thuật thì bọn phát xít điệu chàng ra bãi bắn, “chàng đi như người mộng du…”. Hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ” căm thù hành động dã man của bọn phát xít khát máu đã giết hại một nghệ sĩ tài danh.
Đây là đoạn thơ cảm động nhất, thương cảm nhất của Thanh Thảo nói về cuộc đời của Lor-ca. “Tiếng đàn ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” nói về cái chết của nhạc sĩ Lor-ca.
Hai tiếng “vỡ tan” chỉ rõ cuộc đời của người nghệ sĩ đã chấm dứt một cách đau thương; chàng đã vĩnh biệt người yêu. Hình ảnh ẩn dụ “tiếng ghi ta ròng ròng // máu chảy” kết hợp với điệp ngữ “tiếng ghi ta”, bốn lần cất lên đau đớn, nghẹn ngào, nức nở như tiếng khóc:
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Các tính từ: “nâu”, “xanh”, “tròn” đã khẳng định: nhạc sĩ Lor-ca tuy bị bọn phát xít giết hại dã man, nhưng tài danh của chàng thì đời đời còn mãi, đời đời bất tử!
Thanh Thảo đã khẳng định “không ai chôn cất tiếng đàn” không thể hủy diệt được nghệ thuật. “Tiếng đàn như cỏ mọc hoang” vẫn mãi mãi xanh tươi; Giọt nước mắt trong veo, tròn như mặt trăng, “long lanh trong đáy giếng” đã nói lên sự tiếc thương cái đẹp bị hủy diệt.
Những ẩn dụ và so sánh đã tạo nên hàng loạt hình ảnh có giá trị biểu cảm đầy ấn tượng. Chữ “không” trong đoạn thơ vừa phủ định vừa khẳng định: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”:
Không ai chôn cất tiếng
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Sau loạt đạn của lũ phát xít, số phận Lor-ca đã chấm dứt; “đường chỉ tay đã đứt” như một định mệnh. Chàng đã bước sang thế giới khác với hành trang “chiếc ghi ta màu bạc” và âm điệu “li-la li-la li-la” vẫn ngân vang trong cõi đời:
Lor-ca bơi sang ngang
trên ghi ta màu bạc
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la…
Nhan đề bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” là một ẩn dụ nói lên cuộc đời của nhạc sĩ Lor-ca. Thanh Thảo khẳng định và ca ngợi Lor-ca là một nghệ sĩ thiên tài – “mẫu nghệ sĩ thuần túy, chỉ đam mê cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật, nhưng bị giết hại oan khuất!”.
“Đàn ghi ta của Lor-ca” là một bài thơ hay, có nhiều hình ảnh ẩn dụ rất độc đáo, rất thơ nhưng khó cảm thụ!
Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật Lor-ca trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
I. Mở bài
– Đôi nét về tác giả Thanh Thảo: là nhà thơ luôn có trăn trở trong việc cách tân nghệ thuật thơ Việt, thơ ông là tiếng nói suy tư, triết lí về những vấn đề thời đại.
– Giới thiệu bài thơ và hình tượng Lor – ca: bài thơ mang xu hướng cách tân, đạm chất tượng trưng siêu thực. Lor – ca là nguồn cảm hứng để tác giả viết bài thơ và cũng là hình tượng trung tâm trong bài
II. Thân bài
– Lor – ca là một người nghệ sĩ – chiến sĩ dành cả cuộc đời mình cho sự đấu tranh: mở đường cho sự cách tân nghệ thuật trên nền nghệ thuật già nua của Tây Ban Nha, đấu tranh với phát xít độc tài.
1. Lor – ca người nghệ sĩ tự do nhưng đơn độc
– “những tiếng đàn bọt nước”: gợi liên tưởng đến nghệ thuật lung linh mà Lor – ca tạo ra, con là dự cảm không lành vì ngắn ngủi, mong manh của số phận người nghệ sĩ bạc mệnh.
– “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”: gợi lên cuộc đấu tranh giữa một bên là dân chủ tự do với một bên là phát xít độc tài.
– Ở đó, Lor – ca như một người hùng tự do nhưng đơn độc trên trên con đường đấu tranh cho sự cách tân nghệ thuật, cho nền dân chủ. 2. Lor – ca cái chết đầy oan khuất
– Lor – ca đầy khí phách, yêu đời, “nghêu ngao” những lời ca ngợi ca tự do trên quê hương Tây Ban Nha của mình.
– Cái chết oan khuất, bi thảm “bổng” ập đến với người nghệ sĩ, người hùng ấy. Cả đất nước “Tây Ban Nha” “kinh hoàng”, nuối tiếc trước sự ra đi của chàng, của nghệ thuật chân chính.
– Dù đối diện trước cái chết, Lor – ca vẫn hiên ngang, say sưa trong miền cách tân nghệ thuật “chàng đi như người mộng du”.
3. Lor – ca người nghệ sĩ bất tử cùng nghệ thuật chân chính
– “tiếng ghi ta nâu/ bầu trời cô gái ấy”: màu nâu gợi đến màu của vỏ đàn, của đất mẹ, màu của đôi mắt, mái tóc, làn da người thương. Đó là những cảm hứng trong nghệ thuật của Lor – ca (vì quê hương, vì tình yêu và vì chính nghệ thuật).
– “tiếng ghi ta lá xanh”: nghệ thuật của Lor – ca gắn với tuổi trẻ,
– “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” “tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy” là biểu trưng về sự mong manh của nghệ thuật, về cái chết của người nghệ sĩ.
– Số phận của nghệ thuật Lor – ca sau khi chàng mất:
+ “Không ai chôn … mọc hoang”: hành trình cách tân nghệ thuật của Lor – ca không còn ai bước tiếp, bởi vậy nghệ thuật như bị bỏ hoang.
+ Mặt khác, dù Lor – ca đã mất nhưng nghệ thuật vẫn bất diệt, tồn tại với thời gian với sức sống mãnh liệt như cỏ hoang.
– “giọt nước mắt” là sự tiếc thương, “vầng trăng” là niềm tin nghệ thuật, dù ở nơi tối tăm sâu thẳm thì tâm hồn trong sáng của người nghệ sĩ vẫn soi tỏ cho thế hệ sau.
– Lor – ca đã mất “đương chỉ tay đã đứt”, chàng giã từ cuộc đời hữu hạn để đến thế giới vô hạn bằng phương tiện “chiếc ghi ta” – nghệ thuật.
– “ném lá bùa”, “ném trái tim”: chính là sự giải thoát của Lor – ca sau khi chết. Người nghệ sĩ chân chính ý thức được “cái chết” của bản thân là để nghệ thuật được tái sinh mạnh mẽ, để hệ sau tiếp tục cách tân.
+ Ý thức của Lor – ca cũng thể hiện qua lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”: đó là sự gắn bó của Lỏ – ca với nghệ thuật, cũng là thông điệp muốn thế hệ sau vượt qua án ngữ nghệ thuật của mình.
– “li la li la …”: tiếng ghi ta bất tử dùng người nghệ sĩ đã chết, có thể là vòng hoa tử đinh hương viếng linh hồn Lor – ca.
III. Kết bài
– Trình bày suy nghĩ về hình tượng Lor – ca.
– Tổng kết giá trị nghệ thuật: thể thơ tự do, hình thức phóng khoáng, xây dụng thành công hình tượng Lor – ca và tiếng đàn, kết hợp hà hòa giữa thơ và nhạc, …
– Bài thơ thể hiện sự trân trọng, xót thương của tác giả với Lor – ca, thể hiện khát khao cách tân nghệ thuật của mình.
Đàn ghi ta của Lor-ca tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Thanh Thảo. Với lời thơ giàu ý nghĩa biểu tượng, Thanh thảo đã vô cùng thành công khi tái hiện lại chân dung đẹp đẽ, hiên ngang, dũng cảm và cái chết đầy bi thương của con người tài hoa Lor-ca. Hình tượng Lor-ca là hình tượng trung tâm, làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.
Trước hết Lor-ca là người nghệ sĩ, người chiến sĩ đơn độc. Hình ảnh đầu tiên Thanh Thảo dùng để khái quát về Lor-ca: Những tiếng đàn bọt nước, đây là hình ảnh được sáng tạo dựa trên thuyết tương giao của chủ nghĩa tượng trưng. Bọt nước gợi ra tiếng đàn tròn trịa, trong trẻo, long lanh, nhưng đồng thời bọt nước còn gắn với sự mong manh dễ vỡ. Hình ảnh đã góp phần thể hiện cuộc đời ngắn ngủi của Lor-ca. Chọn ấn tượng đầu tiên để giới thiệu về Lor-ca không phải ấn tượng ngoại hình mà là sử dụng tiếng đàn, bởi tiếng đàn – nghệ thuật là phần tinh túy, đẹp đẽ nhất của Lor-ca. Lối vẽ chân dung ghi lại cái thần thái, cái hồn, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Tuy nhiên, tài năng nghệ thuật của Lor-ca bị đặt vào thử thách khắc nghiệt:
Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
Sự phóng khoáng, lãng mạn của Lor-ca phải đối mặt mặt cái đẫm máu, độc tài của chế độ Phát-xít, tư tưởng cách tân tiến bộ phải đối mặt với nghệ thuật già nua, bảo thủ lúc bấy giờ. Chình vì vậy mà Lor-ca trở vên vô cùng cô đơn: “Đi lang thang về miền đơn độc”. Hai chữ ‘lang thang” nhấn mạnh vào hành trình biên viễn, không có điểm dừng, đây cũng chính là hành trình nghệ thuật của Lor-ca. Trên con đường sáng tạo nghệ thuật, hành trang mà Lor-ca mang theo vô cùng giản dị:
với vầng trăng chếnh choàng
trên yên ngựa mỏi mòn
Hành trang của chàng là niềm đam mê, tình yêu nghệ thuật tha thiết. Lor-ca không đơn thuần là người nghệ sĩ suốt một đời khao khát đi tìm cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật mà ông còn là người chiến sĩ dám chiến đấu bảo vệ cái đẹp, nghệ thuật được trường tồn, phát triển. Dù trên con đường đó còn nhiều chông gai, đơn độc nhưng chưa một phút ông nản lòng, từ bỏ. Với sáu câu thơ đầu tiên, Thanh Thảo đã dựng lên chân dung người nghệ sĩ Lor-ca tài hoa, lãng mạn, tự do, phóng khoáng, dành trọn cuộc đời cho nghệ thuật. Song người nghệ sĩ ấy cũng thật cô đơn trên hành trình sáng tạo nghệ thuật trên chính quê hương mình.
Không chỉ vậy, Lor-ca còn là một con người có số phận bất hạnh. Trong khuôn khổ một bài thơ ngắn, Thanh Thảo không đi sâu vào nhiều chi tiết, sự kiện mà chỉ nhấn mạnh, tô đậm vào phút giây bi phẫn, đau đớn nhất trong cuộc đời Lor-ca, đó là khi Lor-ca bị chủ nghĩa phát xít xát hại. “Bỗng kinh hoàng” tiếng nói giật mình, thảng thốt, nhấn mạnh sự đột ngột, đau đớn. Hai từ “bê bết” được đảo lên trước từ “đỏ” khiến cho sắc đỏ trở nên đông đặc, ám ảnh, đập mạnh vào thị giác người đọc. Đó là màu của tội ác đã thành hình, thành khối. Hình ảnh thơ đã tô đậm cái chết vô cùng đau đớn của người nghệ sĩ Lor-ca.
Đối lập với cái chết đau đớn là tâm thế, cách ứng xử của Lor-ca. Nghệ thuật tương phản đối lập tiếp tục được khai thác triệt để trong hai câu thơ:
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
Nếu câu thơ trên sử dụng cấu trúc câu bị động cùng nhiều thanh trắc, tạo nên ấn tượng nặng nền buốt nhói tô đậm vào sự tàn bạo, áp chế dã man của chủ nghĩa phát xít thì câu thơ dưới lại sử dụng cấu trúc câu chủ động và trải dài mênh mang với nhiều vần bằng. Vượt lên trên sự áp chế của chủ nghĩa phát xít Lor-ca vẫn để tâm hồn mình vào một cõi khác, tìm cho mình một thế giới riêng. Tư thế đi như người mộng du cho thấy cái chết vật lí không hề làm Lor-ca lo lắng, mà đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời, tâm hồn chàng vẫn phiêu diêu ở nơi nghệ thuật.
Dù thân thể đã vĩnh viễn bị tước đoạt, nhưng Lor-ca vẫn còn sống mãi trong lòng mọi người, Lor-ca đã đến với thế giới của sự bất tử hóa: “Đường chỉ tay đã đứt/ dòng song rộng vô cùng/ Lor-ca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc” đường chỉ tay là một ẩn dụ về cuộc đời con người, khi đường chỉ tay mất cũng đồng nghĩa với cái chết. Hình ảnh đó đột ngột, bất ngờ đầy đau đớn. Người nghệ sĩ đang đạt đến độ chín nhất về tư tưởng cũng như nghệ thuật đã vĩnh viễn lìa xa cõi đời. Nhưng dù Lor-ca đã mất đi thì thứ nghệ thuật trác tuyệt ông để lại vẫn tồn tại mãi mãi. Hình ảnh cây đàn cùng người nghệ sĩ Lor-ca phát quang, tỏa rang, lung linh và rực rỡ. Đến đây cây đàn không chỉ là người bạn song hành mà con là đôi cánh, phương tiện để đưa Lor-ca đến cõi bất tử. Như vậy sự gắn bó, hòa quyện giữa Lor-ca và nghệ thuật là sự gắn bó khăng khít mà ngay cả cái chết cũng không thể chia lìa.
Những câu thơ cuối bài chính là lời tổng kết của Thanh Thảo về ý nghĩa cái chết, về vẻ đẹp nhân cách và bản lĩnh của Lor-ca. Có thể nhận thấy trong bốn câu thơ cuối Thanh Thảo dung cấu trúc câu chủ động: chàng ném …, cấu trúc này tô đậm vào sự chủ động, dứt khoát. Nếu cái chết của Lor-ca ở phần trên được nhìn nhận như là sản phẩm của sự tàn bạo của chế độ Phát xít thì ở đây lại được nhìn nhận như sự lựa chọn đầy chủ động của Lor-ca. Hành động chủ động ném lá bùa chính là hành động biểu tượng của sự tự tin, bản lĩnh khi tự quyết định điều khiển số phận mình. Không chỉ làm chủ số phận mình, chàng còn: “chàng ném trái tim mình/ vào lặng yên bất chợt”, cái lặng yên đầy ý nghĩa. Đó là cái lặng yên vĩnh hằng mà Lor-ca muốn trở về sau cuộc đời hoạt động sôi nổi. Đồng thời cái chết của Lor-ca cũng như một lời cảnh tỉnh cho người dân Tây Ban Nha lúc bất giờ, để họ thức tỉnh trước sự cai trị tàn độc của chế độ phát xít. Bởi vậy, cái chết của Lor-ca càng trở nên nhân văn, giàu ý nghĩa hơn.
Bằng lối thơ tượng trưng siêu thực giàu ý nghĩa, Thanh Thảo đã tái hiện thành công chân dung người nghệ sĩ tài hoa Lor-ca. Tái hiện chân dung nhân vật thể hiện tình yêu, niềm ngưỡng mộ trước một tài năng kiệt xuất, đồng thời cũng thể hiện khao khát canh tân nghệ thuật của Thanh Thảo ở nước nhà.
Là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, Thanh Thảo lại làm cho bản thân mình bằng những cách tân mới mẻ trong các sáng tác thơ ca của mình. Thơ ca của ông hàm súc, đa nghĩa, giàu giá trị . Đàn ghi ta của Lor-ca có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông với hình tượng người nghệ sĩ Lor-ca thiên tài.
Đàn ghi ta của Lor-ca được rút ra từ tập thơ Khối vuông ru bích được coi là tập thơ tiêu biểu cho phong cách tư duy thơ mới của Thanh Thảo. Đây quả thực không phải là tập thơ dễ đọc, thơ nhuốm màu siêu thực, người đọc cần có trình độ văn hóa, có tư duy và hiểu biết mới có thể tìm ra những tầng nghĩa ẩn kín mà tác giả muốn gửi gắm.
Trước hết để có thể hiểu được hình tượng Lor-ca được tác giả khắc họa trong bài thơ thì cần hiểu về tiểu sử về nhân vật này. Lor-ca được đánh giá là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thế kỉ XX, với những đóng góp nghệ thuật xuất sắc của mình. Ông mang trong mình niềm khát vọng lớn lao canh tân, đổi mới nghệ thuật Tây Ban Nha đang dần già cỗi. Nhưng số phận của ông lại đầy bất hạnh bởi ông không chỉ là một nghệ sĩ thuần túy mà còn là một người chiến sĩ. Ông đã bị chế độ độc tài tàn sát vô cùng dã man.
Từ chính cuộc đời của ông, Thanh Thảo đã sáng tác tác phẩm vừa đẹp đẽ vừa bi phẫn về cuộc đời tài hoa mà bạc mệnh của Lor-ca. Nắm được những nét tiểu sử chính của Lor-ca cũng là cơ sở để ta thấu hiểu và lí giải được những điều mà Thanh Thảo muốn nhắn nhủ.
Trước hết Lor-ca là một người nghệ sĩ hết sức cô đơn. Trong hành trình làm nghệ thuật của minh, ông không có người bạn đồng hành, ông như một kẻ du ca trong hành trình đầy gian khổ, biên viễn của bản thân:
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Chỉ với ba dòng thơ thôi, nhưng người đọc cũng có thể hình dung được dáng điệu đơn độc, lẻ loi của Lor-ca trên hành trình đầy những truân chuyên, vất vả. Nhưng trong cái cô đơn, đơn độc ấy ta vẫn thấy một người nghệ sĩ tài hoa lãng mạn với sự xuất hiện của ánh trăng chếnh choáng. Vầng trăng dưới con mắt Lor-ca mà chếnh choáng, hay trong men say Lor-ca chếnh choáng trước nghệ thuật. Nếu hiểu theo nghĩa đó, thì vầng trăng kia chính là thứ nghệ thuật tuyệt mĩ mà Lor-ca hằng theo đuổi.
Nhưng dù mang trong mình những khát vọng nghệ thuật lớn lao nhưng cuộc đời của Lor-ca lại vô cùng bi kịch:
Tây Ban Nha, hát nghêu ngao
bỗng kinh hoang
áo choàng bê bết đỏ…
Tiếng ghita ròng ròng
máu chảy
Hai khổ thơ đã ghi lại giây phút bi phẫn, đau đớn nhất trong cuộc đời của Lor-ca. Cuộc đời ông cả đời đều mang trong mình những nguyện ước lớn lao, cách tân nghệ thuật, đem đến một làn gió mới mẻ cho nền thơ ca già cỗi. Nhưng ông và thứ nghệ thuật đẹp đẽ kia lại vấp phải trở lực quá lớn, bị các thế lực tàn ác hủy hoại đến tận cùng. Bản thân ông khi chết đi còn bị chúng ném xác phi tang. Còn điều gì đau đớn và tuyệt vọng hơn. Trong hai khổ thơ này, hình tượng Lor-ca được khắc họa với tương quan đất nước Tây Ban Nha và tiếng đàn. Câu thơ đầu tiên cho thấy tiếng hát của ông không đơn thuần chỉ là tiếng nghêu ngao mà tiếng nói của dân tộc. Cùng với đó là hình ảnh rất đỗi đặc trưng của đất nước này, những trận đấu bò tót nảy lửa. Nhưng đồng thời màu đỏ chói của máu lại khiến ta giật mình. Trong khổ thơ, ông sử dụng hình ảnh thơ mang tính tượng trưng cao, kết hợp linh hoạt các biện pháp ẩn dụ, hóa dụ khiến cho hình ảnh thơ càng trở nên đa nghĩa, giàu giá trị biểu đạt hơn. Tiếng ghi-ta hóa thân, hiện thân của Lor-ca lần lượt xuất hiện. Tiếng ghita nâu là những khát khao đổi mới cách tân. Tiếng ghi ta lá xanh là niềm hi vọng, mơ ước vào tương lại. Nhưng hiện thực phũ phàng, khi khát vọng chưa thực hiện được thì thứ nghệ thuật ông dày công vun đắp đã bị phá hủy:“Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan/ tiếng ghi tàn ròng ròng/ máu chảy”.
Dù bị hủy hoại, nhưng Lor-ca và thứ nghệ thuật tuyệt mĩ mà ông tạo nên sẽ không bao giờ bị mất đi: “không ai chôn cất tiếng đàn/…/ long lanh trong đáy giếng”. Ở đây tiếng đàn – thứ nghệ thuật trác tuyệt của Lor-ca không bị mất đi, mà ngược lại chúng có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, có sức truyền bá cảm hứng đến tất cả mọi người. Cho thấy sức sống bền bỉ, dai dẳng mà không thế lực nào có thể hủy diệt được. Nhưng ẩn đằng sau đó là cả sự xót thương vô hạn mà Thanh Thảo giành cho Lor-ca: “giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh trong đáy giếng”. Hình ảnh vầng trăng nơi đáy giếng là một hình ảnh thơ đã nghĩa: có thể hiểu là vầng trăng rơi nước mắt trước sự ra đi của Lorca, nếu sử dụng liên từ “như” thì câu thơ có thể hiểu giọt nước mắt như vầng trăng tỏa rạng. Với việc bỏ trống liên từ, khiến cho câu thơ càng trở nên đa nghĩa hơn, giàu giá trị biểu đạt hơn.
Bài thơ khép lại bằng tiếng lia-la li-la li-la trải dài bất tận, cũng là minh chứng cho sức sống trường tồn của Lor-ca và thứ nghệ thuật tuyệt mĩ mà ông đã dày công tạo dựng.
Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh tượng trưng, siêu thực đặc trưng cho phong cách thơ ca của Thanh Thảo để tạc nên tượng đài người nghệ sĩ bất tử Lor-ca. Qua những hình ảnh đa trị, nhiều ý nghĩa, người đọc có thể cảm nhận một cách chân thực và đầy đủ hơn vẻ đẹp nhân cách và tài năng của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca.
Thanh Thảo là một nhà thơ khoác áo lính, ông sinh ra tại Quảng Ngãi, tốt nghiệp khoa văn trường Đại Học Tổng Hợp nhưng sau đó vào chiến trường miền Nam công tác. Thanh Thảo luôn nỗ lực tìm tòi hướng để cách tân thơ Việt. Ông đi theo trường phái thơ tượng trưng siêu thực có nguồn gốc từ phương Tây mà Lor-ca là một trong những người đi đầu trong trường phái thơ đó. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” đã xây dựng thành công hình tượng nghệ sĩ Lor-ca.
Lor-ca là một nghệ sĩ thiên tài người Tây Ban Nha. Ông có một tầm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính trị cũng như đời sống nghệ thuật của Tây Ban Nha. Trong đời sống nghệ thuật, ông là một trong những người đi đầu đẻ cách tân nền nghệ thuật già nua của Tây Ban Nha thời bấy giờ. Trong đời sống chính trị ông là người khởi xướng phong trào đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân phát xít đã hết sức phản động. Năm 1936 bè lũ Phrăng-cô quá hoảng sợ trước tầm ảnh hưởng của Lor-ca nên chúng đã tìm cách bắt và sát hại ông. Tuy nhiên sau cái chết của Lor-ca , sự ảnh hưởng của ông càng trở nên mạnh mẽ hơn. Nó vượt qua biên giới của Tây Ban Nha. Tên tuổi của Lor-ca đã trở thành biểu tượng cho công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ văn hóa dân tộc và văn minh nhân loại. Sự ảnh hưởng của Lor-ca không chỉ trong thời đại của ông mà nó còn tồn tại cho tới bây giờ. Cuộc đời, sự nghiệp, những cống hiến của Lor-ca chính là những tác động khơi nguồn cảm xúc để Thanh Thảo viết bài thơ.
Thanh Thảo đặt nhan đề bài thơ là “Đàn ghi ta của Lor-ca”, đàn ghi ta là nhạc cụ truyền thống của Tây Ban Nha, Lor-ca là người nghệ sĩ thiên tài của Tây Ban Nha, nhan đề bài thơ đã hé mở hình tượng nghệ thuật trung tâm của bài thơ là Lor-ca và gắn liền với hình tượng ấy biểu tương nghệ thuật mang tính cách tân của Lor-ca, của đất nước Tây Ban Nha: đàn ghi ta. Lor-ca là người nghệ sĩ sáng tạo, đàn ghi ta là phương tiện để người nghệ sĩ sáng tạo.
Lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” là lời chăng chối cuối cùng trước khi giã từ cuộc sống của Lor-ca, đồng thời cũng nói lên tâm nguyện của Lor-ca. Nếu cây đàn mang nghĩa biểu trưng cho xứ sở Tây Ban Nha, cho nền nghệ thuật Tây Ban Nha thì lời đề từ đã thể hiện tình yêu, sự gắn bó của Lor-ca đối với đất nước Tây Ban Nha, với nền nghệ thuật Tây Ban Nha. Cũng có thể hiểu cây đàn là biểu trưng cho sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca, điều này cho ta thấy Lor-ca sẵn sàng dũng cảm lùi mình vào quá khứ để mở ra con đường thênh thang cho thế hệ sau thỏa sức mà sáng tạo. Lor-ca coi sự nghiệp sáng tạo, những cống hiến của mình là nền móng chứ không phải bức tượng đài, không phải ranh giới để thế hệ sau có thể đứng trên nền móng đó được thỏa sức sáng tạo.
Bài thơ được viết theo trường phái thơ tương trưng siêu thực nên khi đọc thì độc giả có thể thỏa sức tưởng tượng để hiểu những hình ảnh theo nhiều chiều khác nhau. Khổ thơ đầu bài thơ Thanh Thảo tái hiện hình ảnh của Lor-ca trên nền nghệ thuật Tây Ban Nha. Hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” biểu trưng cho sự sống và sự sáng tạo của Lor-ca vô cùng mỏng manh và rất dễ vỡ, tan biến . “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” biểu trưng cho môi trường chính trị ở Tây Ban Nha bức bối, ngột ngạt, phản động. Trong hai câu thơ đầu tác giả đặt hình ảnh “tiếng đàn bọt nước” bên cạnh hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” như một dụng ý cho thấy cuộc sống của Lor-ca đang cực kì bức bối, ông dường như đang phải cố gồng mình lên để đối mặt với một chế độ xã hội phản động, già nua, có thể nói cuộc sống của ông là đầy thách thức. Câu thơ thứ ba ghi lại chuỗi hợp âm của tiếng đàn ghi ta “li la li la li la”, nó biểu trưng cho những sáng tạo của Lor-ca . Như vậy dù sống trong một môi trường xã hội ngột ngạt nhưng người nghệ sĩ Lor-ca vẫn không ngừng sáng tạo nghệ thuật, vẫn say xưa với những sáng tạo nghệ thuật của mình. “Đi lang thang về miền đơn độc”, người nghệ sĩ đi nhưng chưa xác định rõ được đích đến, người nghệ sĩ vừa đi vừa suy nghĩ vừa tìm tòi. Đi về miền đơn độc là đi về miền của tâm trạng, miền của cảm xúc. Đây là hành trình đi tìm cái tôi sáng tạo, đi tìm cái tôi của người nghệ sĩ, tìm cảm hứng sáng tạo. Đồng hành cùng với người nghệ sĩ là vầng trăng, là chú ngựa nhưng lại là vầng trăng “chếnh choáng”, “yên ngựa mỏi mòn”. Vầng trăng thì xa vời, hư ảo, nửa say nửa tỉnh, chú ngựa cũng mỏi mòn, mệt mỏi rã rời, một hành trình vô cùng nhọc nhằn và cô đơn, hành trình “đơn thương độc mã”. Lor-ca là một người nghệ sĩ dám sống và cả dám chết vì nghệ thuật, dám cháy hết mình cho nghệ thuật. Mặc dù luôn luôn phải đối mặt với khó khăn khốc liệt nhưng khát vọng cách tân nền nghệ thuật già nua lúc nào cũng bùng cháy mãnh liệt trong Lor-ca.
Hai khổ thơ tiếp theo, Thanh Thảo tái hiện cái chết của Lor-ca cũng vẫn qua những hình ảnh thơ mang tính tượng trưng. “Tây ban Nha hát nghêu ngao”, Tây Ban Nha ở đây chính là Lor-ca, dường như tất cả những tinh hoa những vẻ đẹp của Tây Ban Nha đã hội tụ trong con người Lor-ca. Lor-ca bây giờ không chỉ là con người cá nhân mà là một biểu tương cho xứ sở Tây Ban Nha. Thanh Thảo đã thể hiện rất rõ tình cảm ngưỡng mộ, khâm phục, kính trọng của mình dành cho thần tượng – Lor-ca. Hành động “hát nghêu ngao” cho thấy một tâm trạng phấn khích, vui vẻ, một cuộc sống đang diễn ra bình dị. “bỗng kinh hoàng”, tín hiệu báo hiệu tin dữ, việc xấu ập đến. “áo choàng bê bết đỏ”, Lor-ca đã bị bắn trọng thương. Sau hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ”, nghĩa là sau khi Lor-ca đã bị bắn trọng thương là một loạt hình ảnh diễn tả sự biến đổi liên tục, liên hoàn của tiếng đàn: “tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta xanh”, “tiếng ghi ta tròn bọt nước”, “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Từ khi viên đạn xuyên thấu vào cơ thể Lor-ca, nó đã phá tan những điều giản dị nhưng đáng quí như là tình yêu, hi vọng, để rồi cuối cùng kết lại trong một cái chết oan nghiệt và thảm khốc. Thanh thảo đã có cách diễn đạt hình tượng hóa giúp chúng ta như cảm nhận được quá trình ập đến của cái chết và qua đó cũng ta cũng cảm nhận được sự đau đớn, xót xa của Thanh Thảo trước sự ra đi của thần tương trong lòng mình.
Khổ thơ tiếp theo chính là tiếng nói tri âm đồng vọng của Thanh Thảo với Lor-ca. Hai câu thơ đầu của khổ thơ mang hình thức đối thoại “không ai chôn cất tiếng đàn – tiếng đàn như cỏ mọc hoang”, đó là lời đối của Thanh Thảo lại lời chăng chối của Lor-ca là lời đề từ của bài thơ “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Lor-ca nhắn nhủ rằng hãy đưa tôi vào quá khứ, hãy để tôi làm nền móng để cho thế hệ sau xây lên lâu đài nghệ thuật vĩ đại hơn nhưng thực tế thì “không ai chôn cất tiếng đàn” nghĩa là không ai thấu hiểu và thực hiện được tâm nguyện chân chính mà Lor-ca đã gửi gắm. Tiếng đàn được ví như cỏ mọc hoang, nền nghệ thuật của Tây Ban Nha đang phát triển nhưng không theo một đường lối thống nhất, nó phát triển tùy theo sở thích và cảm hứng của người sáng tạo. Thanh Thảo và Lor-ca là hai người nghệ sĩ cách xa nhau về thế hệ, khác xa nhau về nề văn hóa nhưng ở họ vẫn có những tiếng nói tri âm đồng vọng, phải chăng đó là sự gặp gỡ của người nghệ sĩ có cùng quan điểm sáng tác, có chung nguồn cảm hứng sáng tạo. hai câu thơ cuối đoạn thơ đã thể hiện cảm xúc mãnh liệt của Thanh Thảo trong một hình ảnh được khúc xạ nhiều chiều không gian “giọt nước mắt vầng trăng – long lanh trong đáy giếng”, Phải chăng hình ảnh này xuất phát từ một sự việc sau khi giết chết Lor-ca, để giấu giếm tôi ác, để phi tang, bọn giết Lor-ca đã vứt thi thể ông xuống giếng. Phải chăng đó là hình ảnh biểu thị cho một nỗi đau không thể nguôi ngoai?
Hai khổ thơ cuối bài thơ Thanh Thảo tập trung diễn tả sự giã từ của Lor-ca, Lor-ca đã chết nhưng đối với Thanh Thảo Lor-ca có thực sự đã vĩnh viễn ra đi? Thanh Thảo nhắc tới “đường chỉ tay đã đứt” là nhắc tới cái chết, nhắc tới sự hữu hạn của đời người, nhắc tới “dòng sông rộng vô cùng” chỉ sự vô hạn của cuộc đời chung, dòng sông cuộc đời. Đó là một quy luât nghiêt ngã mà mỗi người đều phải trải qua và Lor-ca cũng không thể tránh khỏi. Chỉ có điều trong cảm nhận của Thanh Thảo, đây là cuộc giã từ chủ động và thanh thản. Chàng chủ động bơi sang bên kia dòng sông cuộc đời trên chiếc ghi ta đã ngả màu bạc. Chàng chủ động để lại tín ngưỡng, tình yêu “chàng ném lá bùa cô gái Di-gan – vào xoáy nước – chàng ném trái tim mình – vào lặng yên bất chợt”. Lor-ca không chết trong cảm nhận của Thanh Thảo, Lor-ca vẫn sống, sống ở phía bên kia của dòng sông cuộc đời. thanh Thảo đã bất tử hóa hình tượg nhân vật Lor-ca. Với Thanh Thảo, Lor-ca vẫn sống bằng những sáng tạo, bằng những cống hiến cho nền nghệ thuật Tây Ban Nha và nền nghệ thuật thế giới. Câu thơ cuối bài ghi lại hợp âm tiếng đàn ghi ta “li la li la li la . . .” và nó tiếp tục biểu trưng cho những sáng tạo của Lor-ca. Như vậy trong cảm nhận của Thanh Thảo ở phía bên kia dòng sông cuộc đời Lor-ca vẫn không ngừng sáng tạo nghệ thuật. Hay nói cách khác Lor-ca và những sáng tạo của ông vẫn còn mãi trong tâm tưởng của tác giả Thanh Thảo và của mọi người. Hai câu thơ đặc biệt đã mang lại tính nhạc cho bài thơ, hơn nữa câu thơ cuối bài như một giai điệu ngân vang tạo nên dư âm trong lòng người đọc.
Bằng việc sử dụng hình ảnh thơ có tính tượng trưng cao, Thanh Thảo đã xây dựng thành công hình tượng Lor-ca từ sự sống tới cái chết, đồng thời thể hiện những tình cảm của mình dành cho thần tượng. Từ đó giúp người đọc cảm nhận được Lor-ca là một người chiến sĩ, người nghệ sĩ đấu tranh không ngừng nghỉ cho những khát vọng chân chính và cao cả: cách tân nền nghệ thuật già nua, đấu tranh chống lại chế độ độc tài thân phát xít đã quá phản động.
Bên cạnh việc sử dụng hình ảnh thơ mang tính tượng trưng Thanh Thảo còn tổ chức bài thơ, phân câu theo một trật tự khác thường.Bài thơ có hình thức âm thanh, nhưng câu thơ không vần, không dấu chấm, không dấu phẩy, không viết hoa đầu dòng.
Bài thơ thành công trong việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật của trường phái thơ tượng trưng siêu thực . Tác phẩm cũng là một minh chứng cho việc luôn luôn tìm hướng để cách tân thơ Việt của ông. Hình tượng nghệ sĩ Lor-ca mang tầm vóc vĩ đại sẽ sống mãi trong lòng độc giả bao thế hệ.
Đề bài: Cảm nhận hình tượng tiếng đàn trong Đàn ghi ta của Lor-ca
Bài làm
I. Mở bài
– Thanh Thảo là nhà thơ luôn khát khao cách tân thơ Việt, những sáng tác của ông luôn nhuốm màu sắc tượng trưng siêu thực, thơ ông còn là tiếng nói cua nhưng suy tư, trăn trở về cuộc đời.
– Đàn ghi ta của Lor – ca là một trong những thi phẩm đặc sắc của ông.
– Cả bài thơ tràn ngập tiếng đàn ghi ta, đây cũng chính là hình tượng nổi bật xuyên suốt tác phẩm này.
II. Thân bài
– Đàn ghi ta là nhạc cụ truyền thống của đất nước Tây Ban Nha, nó có tên gọi khác là Tây Ban cầm, như vậy, tiếng đàn là biểu trưng cho đất nước Tây Ban Nha.
– Trong lời đề từ: “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”: tiếng đàn ghi ta gắn bó với vận mệnh, là tâm hồn, là những sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ.
– Ở khổ thơ đầu, chuỗi âm thanh tiếng đàn vang lên da diết “li la li la …” gợi hình ảnh người người nghệ sĩ say sưa trong nghệ thuật, gợi không gian tràn ngập âm nhạc của Tây Ban Nha.
– Hình ảnh “tiếng đàn bọt nước”: nghệ thuật của Lor – ca lung linh như bọt nước, nhưng lại có thể vỡ tan bất cứ lúc nào, hình ảnh như điềm báo cho số phận ngắn ngủi của Lor – ca.
– Tiếng đàn là thế giới giới của những cách tân nghệ thuật mà Lor – ca say mê:
+ “tiếng ghi ta nâu/ bầu trời cô gái ấy”: màu nâu có thể là màu của vỏ đàn, của đất đai quê hương, của đôi mắt, màu da, mái tóc cô gái, Lor – ca sáng tác vì quê hương, tình yêu, vì tình yêu, vì chính nghệ thuật.
+ “tiếng ghi ta lá xanh”: nghệ thuật của Lor – ca luôn dồi dào sức sống tuổi trẻ.
+ “tiếng ghi ta tròn bọt”: gợi đến thứ nghệ thuật trong trẻo, hoàn mĩ, tuyệt đích
– Thế nhưng, tiếng tiếng ghi ta – nghệ thuật của Lor – ca lại chịu số phận đau thương:
+ “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”: dù đẹp, dù lung linh nhưng nghệ thuật ấy lại “vỡ tan” dưới tay bọn phát xít tàn ác.
“tiếng ghi ta tòng ròng/ máu chảy”: tiếng ghi ta như hòa làm một với người nghệ sĩ, chịu chung nỗi đau, cái chết với người nghệ sĩ. Đó là sự gắn bó giữa người nghệ sĩ và nghệ thuật. Câu thơ cũng thể hiện sự phẫn uất của tác giả trước cái chết mà bọ phát xít gây ra cho Lor – ca.
– Sau khi Lor – ca chết đi, tiếng ghi ta – nghệ thuật Lor – ca vẫn không thể bị chôn vùi, thậm chí còn có sức sống mãnh liệt: “không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang”.
+ Nhưng có thể hiểu hai dòng thơ trên: sau khi Lor – ca mất, không còn ai bước tiếp con đường cách tân nghệ thuật, khiến nghệ thuật như bị bỏ hoang. Ý thơ thể hiện sự xót xa của tác giả trước cái chết của nghệ thuật.
– “Lor – ca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc”: chiếc ghi ta – nghệ thuật chính là phương tiện để Lor – ca từ giã thế giới hữu hạn đến với thế giới vô hạn. Chiếc ghi ta như hóa thành thứ vũ khí đầy quyền năng của người nghệ sĩ.
– Âm thanh tiếng đàn cuối bài thơ: kết cấu đầu cuối tương ứng, là sự vang vọng mãi tiếng đàn của Lor – ca trong lòng tác giả và những người yêu nghệ thuật chân chính. Là sự vĩnh cửu của nghệ thuật.
III. Kết bài
– Nêu cảm nghĩ chung về hình tượng tiếng đàn.
– Nghệ thuật: thể thơ tự do, mới lạ, đậm chất tượng trung siêu thực, kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca và âm nhạc, kết hợp ngôn từ, hình ảnh độc đáo.
– Đây là bài thơ giàu chất suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm, thể hiện sự xót thương trước cái chết bi thảm của Lor – ca thiên tài, là thông điệp, khát khao cách tân nghệ thuật của Thanh Thảo
Đề bài: Cảm nhận về hình tượng tiếng đàn trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
Bài làm
Đàn ghi ta của Lor-ca là tiếng long đầy ngưỡng mộ cũng như cảm thương cho số phận bất hạnh của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca. Bên cạnh việc tái hiện thành công hình tượng Lor-ca, Thanh Thảo còn thể hiện xuất sắc hình tượng tiếng đàn. Một biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa và giàu giá trị nghệ thuật.
Tiếng đàn là hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm, nhưng tiếng đàn đã được Thanh Thảo tái hiện hết sức đặc biệt:
Những tiếng đàn bọt nước
Tiếng đàn vốn thuộc về trường thính giác, nhưng dưới cái nhìn của Thanh Thảo nó đã được hữu hình hóa tựa như những bọt nước. Bọt nước gợi ra hình ảnh của những âm thanh tròn trịa, trong trẻo, thanh khiết nhưng đồng thời nó cũng gắn liền với sự mong manh, dễ vỡ, cũng như chính cuộc đời ngắn ngủi của Lor-ca vậy. Tiếng đàn còn vô cùng phóng khoáng tự do: “Tây Ban Nha/ hát nghêu ngao”, tiếng hát vô tư, chìm đắm trong nghệ thuật của Lor-ca đã khiến cho chàng phải chịu một cái chết vô cùng đột ngột, bất ngờ.
Đoạn thơ tiếp theo là đoạn thơ hay nhất, đặc sắc nhất miêu tả tiếng đàn với nhiều cung bậc cảm xúc, sắc thái khác nhau.
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Trong đoạn thơ này ảnh hưởng từ thơ tượng trưng, Thanh Thảo đã sáng tạo một loạt hình ảnh dựa trên cơ chế tương giao chuyển đổi cảm giác. Hình ảnh đầu tiên chính là tiếng ghi ta nâu, âm thanh của tiếng đàn đã được ghi lại bằng mày sắc. Bản thân màu sắc gợi ra nhiều lới nghĩa khác nhau, có thể là màu khởi nguyên của sự sống – đất; có thể là màu của cây đàn ghi ta; nhưng cũng có thể là màu mắt của cô gái di-gan sống trên thảo nguyên.
Hình ảnh tiếng ghi ta xanh lại tiếp tục là một hình ảnh thơ đa nghĩa nữa. Có thể hiểu tiếng đàn ghi ta như là xanh biết mấy, sự chuyển đổi giữa âm thanh tiếng đàn đến sức xanh của lá, gợi nên sức sống, sự tươi non, góp phần khẳng định sức sống bền bỉ của tiếng đàn. Cũng có thể hiểu tiếng đàn ghi ta làm lá xanh biết mấy, ở đây sức sống và giá trị của tiếng đàn còn to lớn và mãnh liệt hơn nữa. Nó không chỉ là giá trị tự thân của tiếng đàn mà còn có sức lao tỏa, tác động làm các sự vật, hiện tượng bừng lên sức sống, lá cây xanh hơn, cuộc đời đẹp đẽ hơn.
Tiếp tục phát huy tài năng của mình, Thanh Thảo sáng tạo ra âm thanh thứ ba, đó là tiếng đàn tròn. Hình ảnh tiếng đàn tròn đã xuất hiện ở đầy tác phẩm đến đây lại được lặp lại một lần nữa. Tiếng đàn bọt nước biểu tượng cho sự tròn trịa, long lanh, nếu ở đầu bài thơ mới chỉ là dự cảm về sự mong manh, dễ vỡ thì đến đây đã trở thành hiện thực. Động từ “vỡ tan” đã một lần nữa khẳng định sự mong manh ấy, nó diễn ra vô cùng nhanh chóng và bất ngờ.
Cuối cùng là hình ảnh “tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy” vô cùng ám ảnh người đọc. Đến đây tiếng đàn thực sự đã trở thành sinh thể sống, không chỉ tồn tại với giá trị tinh thần vô hình mà dường như nó còn có cả thể xác – hữu hình. Bởi vậy, khi bị hủy diệt, bị chà đạp nó vỡ tan thành muôn ngàn dòng máu. Một số phận đầy đau thương, bi thảm trước sự tàn sát đẫm máu của chủ nghĩa phát xít. Cảm nhận nỗi đau thuộc vể thể xác của tiếng đàn vốn được coi là thuộc về tinh thần, cho thấy sự đồng điệu, tri âm của Thanh Thảo với tiếng đàn hay chính với người nghệ sĩ Lor-ca.
Đoạn thơ đã sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác để cảm nhận tiếng đàn qua những hình khối, màu sắc khác nhau. Ở đây có thể hiểu khi người nghệ sĩ Lor-ca bị sát hại thì nghệ thuật của chàng không còn nguyên vẹn, nó vỡ ra, tan ra thành các mảng, mảnh màu sắc và hình khối.
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Khi so sánh tiếng đàn của Lor-ca với cỏ, Thanh Thảo đã khẳng định sức sống bất tử, mãnh liệt của tiếng đàn. Tuy nhiên hai câu thơ đầu nghiêng về sắc thái nuối tiếc, xót xa, câu thơ buông ra như một tiếng thở dài. Thanh Thảo xót xa không chỉ bởi cái chết của Lor-ca mà còn bởi di nguyện ông để lại sau khi chết, đó là phải chôn thứ nghệ thuật trác tuyệt mà ông sáng tạo để thế hệ sau có thể tiếp tục cách tân nghệ thuật. Nhưng không một ai dám làm điều đó, bởi họ không đủ bản lĩnh, tài năng để vượt qua. Hình ảnh thơ tiếp, lại là một sự kết hợp hết sức lạ giữa hai hình ảnh giọt nước mắt và vầng trăng. Tác giả tối giản hoàn toàn quan hệ từ, cũng chính vì vậy mà đem đến cho câu thơ nhiều cách hiểu. Nếu là quan hệ từ “của” câu thơ sẽ là niềm xót xa đau đớn của vầng trăng trước cái đẹp. Nếu là quan hệ từ “như”, giọt nước mắt ở đây không còn là giọt nước mắt thông thường mà trở nên vĩ đại, đẹp đẽ, trong sáng. Dù hiểu theo cách nào, giọt nước mắt nào nó cũng đều thể hiện sự tiếc nối, xót thương cho cái đẹp, cái tài.
Bài thơ khép lại bằng âm thanh “li-la li-la li-la ….” , âm thanh đó chứng tỏ sự bất tử của Lor-ca trong cuộc đời cũng như trong lòng mọi người, đúng theo quy luật “Thác là thể phách, còn là tinh anh”. Đồng thời tạo ra dư ba cho tác phẩm, khi lượng ngôn tư ít ỏi của bàn thơ đã kết thúc.
Hình tượng tiếng đàn trong tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca là một sáng tạo độc đáo, xuất sắc của Thanh Thảo mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Kết hợp với hình tượng người nghệ sĩ Lor-ca đã góp phần truyền tải đầy đủ thong điệp của tác phẩm. Những cảm nhận sâu sắc về tiếng đàn cho thấy sự tri âm sâu sắc với tài năng, phẩm chất của Lor-ca. Cùng với đó là sự vận dụng sáng tạo những hình ảnh, ngôn ngữ thơ hiện đại, các yếu tố tượng trưng siêu thực tài tình đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Đề bài: Cảm nhận về hình tượng tiếng đàn ghi-ta trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của nhà thơ Thanh Thảo.
Bài làm
Trong tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca Thanh Thảo đã sử dụng chính lời thơ của Lor-ca để làm đề từ cho tác phẩm của mình: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Chỉ với lời đề từ này cũng đã có thể khẳng định vị trí, ý nghĩa vô cùng quan trọng của hình tượng tiếng đàn trong tác phẩm này. Đây là hình tượng đầy sức hút, đầy ám thị, ám ảnh đối với người đọc, bởi nó chất chứa những ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.
Tiếng đàn tràn ngập tác phẩm, từ khi tác phẩm được mở ra, cho đến những câu thơ cuối cùng khép lại bài thơ nhưng dư âm vang vọng của nó thì vẫn còn mãi ván vương trong long người đọc.
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
Những câu thơ đầu tiên gợi cho chúng ta về hình ảnh của tiếng đàn tròn trịa, được vươn mình, được sống, được làm nên những áng nghệ thuật đặc sắc. Nhưng bên cạnh đó lại vô cùng mong manh, yếu ớt. Tiếng đàn kia cũng chỉ tựa như bọt nước, đẹp, tròn , lung linh đấy nhưng lại có thể dễ dàng tan vỡ bất cứ lúc nào. Đây cũng chính là thứ nghệ thuật mà Lor-ca đã dày công tạo nên. Tiếng đàn đó được sống trong không gian văn hóa đậm chất Tây Ban Nha, với những trận đấu bò, những người đấu sĩ nổi tiếng. Nhưng sắc đỏ gắt kia cũng nhưng một điềm chẳng lành dự cảm về số phận bất hạnh của nghệ thuật và người nghệ sĩ.
Và quả thực những điềm báo đó đã trở thành hiện thực. Tiếng đàn thanh khiết, đẹp đẽ đã bị chế độ độc tài tàn sát dã man:
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy.
Tiếng ghi ta trở thành điệp khúc trong bài thơ, đây đồng thời cũng là khổ thơ khắc họa rõ nét nhất vẻ đẹp cũng như số phận của tiếng đàn. Tiếng đàn mang trong mình những hoài bão, những mơ ước lớn lao “tiếng ghi ta nâu” “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”. Tiếng ghi ta đó chính là quá trình, là cả khát khao canh tân nghệ thuật của người nghệ sĩ. Nó không chỉ đong đầy niềm tin, hi vọng mà còn đong đầy khát khao,tình yêu quê hương đất nước. Nhưng cuối cùng tiếng đàn, hay chính người tạo tác ra tiếng đàn cũng không thể chống lại sự khắc nghiệt của chế độ độc tài. Người nghệ sĩ hi sinh, thứ nghệ thuật đẹp đẽ bị thiêu hủy. Tiếng ghi ta tròn mong manh ở khổ đầu đến đây vỡ tan, vỡ cả mơ ước và hi vọng. Nhịp thơ như trùng lại, lắng xuống cảm xúc xót thương, đau đớn đến tận cùng. Bởi vậy tiếng ghi ta càng trở nên đau đớn và bi phẫn hơn “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Sự đau đớn, uất nghẹn đã không thể kìm nén trong lòng mà bật ra thành dòng máu đỏ tươi. Với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, Thanh Thảo đã tạc rõ nỗi đau đớn, uất nghẹn đến tận cùng trước bi kịch cuộc đời của một người nghệ sĩ thiên tài.
Liệu có phải thứ nghệ thuật trác tuyệt đó sẽ bị vĩnh viễn chôn vùi. Liệu hậu thế không bao giờ có thể thưởng thức thứ nghệ thuật đẹp đẽ đó? Nhưng không. Dù bị tàn sát, dù bị tận diệt, những tiếng đàn – nghệ thuật chân chính ấy vẫn mạnh mẽ sống, mạnh mẽ vươn lên:
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng.
Có phải không ai bận tâm đến việc chôn cất tiếng đàn, hay không ai có thể thực hiện được việc chôn cất thứ nghệ thuật tuyệt mĩ đó. Có lẽ phải là nghĩa thứ hai mới đúng, bởi thứ nghệ thuật đó không ai có đủ khả năng để vươn lên, nó sẽ trở thành kim chỉ nam, chỉ đường dẫn lối để người nghệ sĩ thoát ra khỏi lối mòn, những công thức sáo mòn trước đây. Tiếng đàn được ví như cỏ hoang, tuy hoang dại mà sức sống vô cùng mạnh mẽ, trong bất cứ điều kiện nào dù gian nan khắc khổ cũng có thể vươn lên, hướng đến ánh sáng. Hình ảnh thơ “giọt nước mắt vầng trăng” là một hình ảnh đa nghĩa khi tác giả tối giản liên từ, cho phép người đọc có những trường liên tưởng khác nhau, từ đó làm đã dạng phong phú thêm ý nghĩa cho tác phẩm. Nhưng dù có bao nhiêu cách hiểu đi chăng nữa thì vầng trăng chính là nghệ thuật, là vẻ đẹp của nhân cách cao đẹp người nghệ sĩ. Dù ở bất cứ không gian, thời gian nào nó cũng là vầng trăng lung linh, tỏa rạng.
Cùng với hình tượng người nghệ sĩ, tiếng đàn đã góp phần tạo nên thành công cho Thanh Thảo. Tiếng đàn cùng hình tượng người nghệ sĩ đàn cài, hòa quyện vào nhau. Tiếng đàn chính là đời sống tình thần của Lor-ca và nghệ thuật đẹp đẽ mà ông đã để lại cho hậu thế. Tiếng đàn đan cài, hòa quyệ mà vẫn vô cùng tách bạch thể hiện những quan niệm sâu sắc về nghệ thuật.
Đàn ghita của Lor-ca đã đưa người đọc đến với thế giới nghệ thuật trác tuyệt, đem đến cho chúng ta những tình cảm nghệ thuật đẹp đẽ. Đồng thời qua tác phẩm này ta cũng có thể hiểu được những nỗ lực cách tân không ngừng của Thanh Thảo trong quá trình đổi mình, cách tân nghệ thuật.
Đề bài: Cảm nhận về hình tượng tiếng đàn trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
I. Mở bài
– Thanh Thảo là nhà thơ luôn khát khao cách tân thơ Việt, những sáng tác của ông luôn nhuốm màu sắc tượng trưng siêu thực, thơ ông còn là tiếng nói cua nhưng suy tư, trăn trở về cuộc đời.
– Đàn ghi ta của Lor – ca là một trong những thi phẩm đặc sắc của ông.
– Cả bài thơ tràn ngập tiếng đàn ghi ta, đây cũng chính là hình tượng nổi bật xuyên suốt tác phẩm này.
II. Thân bài
– Đàn ghi ta là nhạc cụ truyền thống của đất nước Tây Ban Nha, nó có tên gọi khác là Tây Ban cầm, như vậy, tiếng đàn là biểu trưng cho đất nước Tây Ban Nha.
– Trong lời đề từ: “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”: tiếng đàn ghi ta gắn bó với vận mệnh, là tâm hồn, là những sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ.
– Ở khổ thơ đầu, chuỗi âm thanh tiếng đàn vang lên da diết “li la li la …” gợi hình ảnh người người nghệ sĩ say sưa trong nghệ thuật, gợi không gian tràn ngập âm nhạc của Tây Ban Nha.
– Hình ảnh “tiếng đàn bọt nước”: nghệ thuật của Lor – ca lung linh như bọt nước, nhưng lại có thể vỡ tan bất cứ lúc nào, hình ảnh như điềm báo cho số phận ngắn ngủi của Lor – ca.
– Tiếng đàn là thế giới giới của những cách tân nghệ thuật mà Lor – ca say mê:
+ “tiếng ghi ta nâu/ bầu trời cô gái ấy”: màu nâu có thể là màu của vỏ đàn, của đất đai quê hương, của đôi mắt, màu da, mái tóc cô gái, Lor – ca sáng tác vì quê hương, tình yêu, vì tình yêu, vì chính nghệ thuật.
+ “tiếng ghi ta lá xanh”: nghệ thuật của Lor – ca luôn dồi dào sức sống tuổi trẻ.
+ “tiếng ghi ta tròn bọt”: gợi đến thứ nghệ thuật trong trẻo, hoàn mĩ, tuyệt đích
– Thế nhưng, tiếng tiếng ghi ta – nghệ thuật của Lor – ca lại chịu số phận đau thương:
+ “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”: dù đẹp, dù lung linh nhưng nghệ thuật ấy lại “vỡ tan” dưới tay bọn phát xít tàn ác.
“tiếng ghi ta tòng ròng/ máu chảy”: tiếng ghi ta như hòa làm một với người nghệ sĩ, chịu chung nỗi đau, cái chết với người nghệ sĩ. Đó là sự gắn bó giữa người nghệ sĩ và nghệ thuật. Câu thơ cũng thể hiện sự phẫn uất của tác giả trước cái chết mà bọ phát xít gây ra cho Lor – ca.
– Sau khi Lor – ca chết đi, tiếng ghi ta – nghệ thuật Lor – ca vẫn không thể bị chôn vùi, thậm chí còn có sức sống mãnh liệt: “không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang”.
+ Nhưng có thể hiểu hai dòng thơ trên: sau khi Lor – ca mất, không còn ai bước tiếp con đường cách tân nghệ thuật, khiến nghệ thuật như bị bỏ hoang. Ý thơ thể hiện sự xót xa của tác giả trước cái chết của nghệ thuật.
– “Lor – ca bơi sang ngang/ trên chiếc ghi ta màu bạc”: chiếc ghi ta – nghệ thuật chính là phương tiện để Lor – ca từ giã thế giới hữu hạn đến với thế giới vô hạn. Chiếc ghi ta như hóa thành thứ vũ khí đầy quyền năng của người nghệ sĩ.
– Âm thanh tiếng đàn cuối bài thơ: kết cấu đầu cuối tương ứng, là sự vang vọng mãi tiếng đàn của Lor – ca trong lòng tác giả và những người yêu nghệ thuật chân chính. Là sự vĩnh cửu của nghệ thuật.
III. Kết bài
– Nêu cảm nghĩ chung về hình tượng tiếng đàn.
– Nghệ thuật: thể thơ tự do, mới lạ, đậm chất tượng trung siêu thực, kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca và âm nhạc, kết hợp ngôn từ, hình ảnh độc đáo.
– Đây là bài thơ giàu chất suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm, thể hiện sự xót thương trước cái chết bi thảm của Lor – ca thiên tài, là thông điệp, khát khao cách tân nghệ thuật của Thanh Thảo
Đàn ghi ta của Lor-ca là tiếng long đầy ngưỡng mộ cũng như cảm thương cho số phận bất hạnh của người nghệ sĩ thiên tài Lor-ca. Bên cạnh việc tái hiện thành công hình tượng Lor-ca, Thanh Thảo còn thể hiện xuất sắc hình tượng tiếng đàn. Một biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa và giàu giá trị nghệ thuật.
Tiếng đàn là hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm, nhưng tiếng đàn đã được Thanh Thảo tái hiện hết sức đặc biệt:
Những tiếng đàn bọt nước
Tiếng đàn vốn thuộc về trường thính giác, nhưng dưới cái nhìn của Thanh Thảo nó đã được hữu hình hóa tựa như những bọt nước. Bọt nước gợi ra hình ảnh của những âm thanh tròn trịa, trong trẻo, thanh khiết nhưng đồng thời nó cũng gắn liền với sự mong manh, dễ vỡ, cũng như chính cuộc đời ngắn ngủi của Lor-ca vậy. Tiếng đàn còn vô cùng phóng khoáng tự do: “Tây Ban Nha/ hát nghêu ngao”, tiếng hát vô tư, chìm đắm trong nghệ thuật của Lor-ca đã khiến cho chàng phải chịu một cái chết vô cùng đột ngột, bất ngờ.
Đoạn thơ tiếp theo là đoạn thơ hay nhất, đặc sắc nhất miêu tả tiếng đàn với nhiều cung bậc cảm xúc, sắc thái khác nhau.
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng
máu chảy
Trong đoạn thơ này ảnh hưởng từ thơ tượng trưng, Thanh Thảo đã sáng tạo một loạt hình ảnh dựa trên cơ chế tương giao chuyển đổi cảm giác. Hình ảnh đầu tiên chính là tiếng ghi ta nâu, âm thanh của tiếng đàn đã được ghi lại bằng mày sắc. Bản thân màu sắc gợi ra nhiều lới nghĩa khác nhau, có thể là màu khởi nguyên của sự sống – đất; có thể là màu của cây đàn ghi ta; nhưng cũng có thể là màu mắt của cô gái di-gan sống trên thảo nguyên.
Hình ảnh tiếng ghi ta xanh lại tiếp tục là một hình ảnh thơ đa nghĩa nữa. Có thể hiểu tiếng đàn ghi ta như là xanh biết mấy, sự chuyển đổi giữa âm thanh tiếng đàn đến sức xanh của lá, gợi nên sức sống, sự tươi non, góp phần khẳng định sức sống bền bỉ của tiếng đàn. Cũng có thể hiểu tiếng đàn ghi ta làm lá xanh biết mấy, ở đây sức sống và giá trị của tiếng đàn còn to lớn và mãnh liệt hơn nữa. Nó không chỉ là giá trị tự thân của tiếng đàn mà còn có sức lao tỏa, tác động làm các sự vật, hiện tượng bừng lên sức sống, lá cây xanh hơn, cuộc đời đẹp đẽ hơn.
Tiếp tục phát huy tài năng của mình, Thanh Thảo sáng tạo ra âm thanh thứ ba, đó là tiếng đàn tròn. Hình ảnh tiếng đàn tròn đã xuất hiện ở đầy tác phẩm đến đây lại được lặp lại một lần nữa. Tiếng đàn bọt nước biểu tượng cho sự tròn trịa, long lanh, nếu ở đầu bài thơ mới chỉ là dự cảm về sự mong manh, dễ vỡ thì đến đây đã trở thành hiện thực. Động từ “vỡ tan” đã một lần nữa khẳng định sự mong manh ấy, nó diễn ra vô cùng nhanh chóng và bất ngờ.
Cuối cùng là hình ảnh “tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy” vô cùng ám ảnh người đọc. Đến đây tiếng đàn thực sự đã trở thành sinh thể sống, không chỉ tồn tại với giá trị tinh thần vô hình mà dường như nó còn có cả thể xác – hữu hình. Bởi vậy, khi bị hủy diệt, bị chà đạp nó vỡ tan thành muôn ngàn dòng máu. Một số phận đầy đau thương, bi thảm trước sự tàn sát đẫm máu của chủ nghĩa phát xít. Cảm nhận nỗi đau thuộc vể thể xác của tiếng đàn vốn được coi là thuộc về tinh thần, cho thấy sự đồng điệu, tri âm của Thanh Thảo với tiếng đàn hay chính với người nghệ sĩ Lor-ca.
Đoạn thơ đã sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác để cảm nhận tiếng đàn qua những hình khối, màu sắc khác nhau. Ở đây có thể hiểu khi người nghệ sĩ Lor-ca bị sát hại thì nghệ thuật của chàng không còn nguyên vẹn, nó vỡ ra, tan ra thành các mảng, mảnh màu sắc và hình khối.
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Khi so sánh tiếng đàn của Lor-ca với cỏ, Thanh Thảo đã khẳng định sức sống bất tử, mãnh liệt của tiếng đàn. Tuy nhiên hai câu thơ đầu nghiêng về sắc thái nuối tiếc, xót xa, câu thơ buông ra như một tiếng thở dài. Thanh Thảo xót xa không chỉ bởi cái chết của Lor-ca mà còn bởi di nguyện ông để lại sau khi chết, đó là phải chôn thứ nghệ thuật trác tuyệt mà ông sáng tạo để thế hệ sau có thể tiếp tục cách tân nghệ thuật. Nhưng không một ai dám làm điều đó, bởi họ không đủ bản lĩnh, tài năng để vượt qua. Hình ảnh thơ tiếp, lại là một sự kết hợp hết sức lạ giữa hai hình ảnh giọt nước mắt và vầng trăng. Tác giả tối giản hoàn toàn quan hệ từ, cũng chính vì vậy mà đem đến cho câu thơ nhiều cách hiểu. Nếu là quan hệ từ “của” câu thơ sẽ là niềm xót xa đau đớn của vầng trăng trước cái đẹp. Nếu là quan hệ từ “như”, giọt nước mắt ở đây không còn là giọt nước mắt thông thường mà trở nên vĩ đại, đẹp đẽ, trong sáng. Dù hiểu theo cách nào, giọt nước mắt nào nó cũng đều thể hiện sự tiếc nối, xót thương cho cái đẹp, cái tài.
Bài thơ khép lại bằng âm thanh “li-la li-la li-la ….” , âm thanh đó chứng tỏ sự bất tử của Lor-ca trong cuộc đời cũng như trong lòng mọi người, đúng theo quy luật “Thác là thể phách, còn là tinh anh”. Đồng thời tạo ra dư ba cho tác phẩm, khi lượng ngôn tư ít ỏi của bàn thơ đã kết thúc.
Hình tượng tiếng đàn trong tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca là một sáng tạo độc đáo, xuất sắc của Thanh Thảo mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Kết hợp với hình tượng người nghệ sĩ Lor-ca đã góp phần truyền tải đầy đủ thong điệp của tác phẩm. Những cảm nhận sâu sắc về tiếng đàn cho thấy sự tri âm sâu sắc với tài năng, phẩm chất của Lor-ca. Cùng với đó là sự vận dụng sáng tạo những hình ảnh, ngôn ngữ thơ hiện đại, các yếu tố tượng trưng siêu thực tài tình đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Trong tác phẩm Đàn ghi ta của Lor-ca Thanh Thảo đã sử dụng chính lời thơ của Lor-ca để làm đề từ cho tác phẩm của mình: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Chỉ với lời đề từ này cũng đã có thể khẳng định vị trí, ý nghĩa vô cùng quan trọng của hình tượng tiếng đàn trong tác phẩm này. Đây là hình tượng đầy sức hút, đầy ám thị, ám ảnh đối với người đọc, bởi nó chất chứa những ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.
Tiếng đàn tràn ngập tác phẩm, từ khi tác phẩm được mở ra, cho đến những câu thơ cuối cùng khép lại bài thơ nhưng dư âm vang vọng của nó thì vẫn còn mãi ván vương trong long người đọc.
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
Những câu thơ đầu tiên gợi cho chúng ta về hình ảnh của tiếng đàn tròn trịa, được vươn mình, được sống, được làm nên những áng nghệ thuật đặc sắc. Nhưng bên cạnh đó lại vô cùng mong manh, yếu ớt. Tiếng đàn kia cũng chỉ tựa như bọt nước, đẹp, tròn , lung linh đấy nhưng lại có thể dễ dàng tan vỡ bất cứ lúc nào. Đây cũng chính là thứ nghệ thuật mà Lor-ca đã dày công tạo nên. Tiếng đàn đó được sống trong không gian văn hóa đậm chất Tây Ban Nha, với những trận đấu bò, những người đấu sĩ nổi tiếng. Nhưng sắc đỏ gắt kia cũng nhưng một điềm chẳng lành dự cảm về số phận bất hạnh của nghệ thuật và người nghệ sĩ.
Và quả thực những điềm báo đó đã trở thành hiện thực. Tiếng đàn thanh khiết, đẹp đẽ đã bị chế độ độc tài tàn sát dã man:
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy.
Tiếng ghi ta trở thành điệp khúc trong bài thơ, đây đồng thời cũng là khổ thơ khắc họa rõ nét nhất vẻ đẹp cũng như số phận của tiếng đàn. Tiếng đàn mang trong mình những hoài bão, những mơ ước lớn lao “tiếng ghi ta nâu” “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”. Tiếng ghi ta đó chính là quá trình, là cả khát khao canh tân nghệ thuật của người nghệ sĩ. Nó không chỉ đong đầy niềm tin, hi vọng mà còn đong đầy khát khao,tình yêu quê hương đất nước. Nhưng cuối cùng tiếng đàn, hay chính người tạo tác ra tiếng đàn cũng không thể chống lại sự khắc nghiệt của chế độ độc tài. Người nghệ sĩ hi sinh, thứ nghệ thuật đẹp đẽ bị thiêu hủy. Tiếng ghi ta tròn mong manh ở khổ đầu đến đây vỡ tan, vỡ cả mơ ước và hi vọng. Nhịp thơ như trùng lại, lắng xuống cảm xúc xót thương, đau đớn đến tận cùng. Bởi vậy tiếng ghi ta càng trở nên đau đớn và bi phẫn hơn “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”. Sự đau đớn, uất nghẹn đã không thể kìm nén trong lòng mà bật ra thành dòng máu đỏ tươi. Với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, Thanh Thảo đã tạc rõ nỗi đau đớn, uất nghẹn đến tận cùng trước bi kịch cuộc đời của một người nghệ sĩ thiên tài.
Liệu có phải thứ nghệ thuật trác tuyệt đó sẽ bị vĩnh viễn chôn vùi. Liệu hậu thế không bao giờ có thể thưởng thức thứ nghệ thuật đẹp đẽ đó? Nhưng không. Dù bị tàn sát, dù bị tận diệt, những tiếng đàn – nghệ thuật chân chính ấy vẫn mạnh mẽ sống, mạnh mẽ vươn lên:
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng.
Có phải không ai bận tâm đến việc chôn cất tiếng đàn, hay không ai có thể thực hiện được việc chôn cất thứ nghệ thuật tuyệt mĩ đó. Có lẽ phải là nghĩa thứ hai mới đúng, bởi thứ nghệ thuật đó không ai có đủ khả năng để vươn lên, nó sẽ trở thành kim chỉ nam, chỉ đường dẫn lối để người nghệ sĩ thoát ra khỏi lối mòn, những công thức sáo mòn trước đây. Tiếng đàn được ví như cỏ hoang, tuy hoang dại mà sức sống vô cùng mạnh mẽ, trong bất cứ điều kiện nào dù gian nan khắc khổ cũng có thể vươn lên, hướng đến ánh sáng. Hình ảnh thơ “giọt nước mắt vầng trăng” là một hình ảnh đa nghĩa khi tác giả tối giản liên từ, cho phép người đọc có những trường liên tưởng khác nhau, từ đó làm đã dạng phong phú thêm ý nghĩa cho tác phẩm. Nhưng dù có bao nhiêu cách hiểu đi chăng nữa thì vầng trăng chính là nghệ thuật, là vẻ đẹp của nhân cách cao đẹp người nghệ sĩ. Dù ở bất cứ không gian, thời gian nào nó cũng là vầng trăng lung linh, tỏa rạng.
Cùng với hình tượng người nghệ sĩ, tiếng đàn đã góp phần tạo nên thành công cho Thanh Thảo. Tiếng đàn cùng hình tượng người nghệ sĩ đàn cài, hòa quyện vào nhau. Tiếng đàn chính là đời sống tình thần của Lor-ca và nghệ thuật đẹp đẽ mà ông đã để lại cho hậu thế. Tiếng đàn đan cài, hòa quyệ mà vẫn vô cùng tách bạch thể hiện những quan niệm sâu sắc về nghệ thuật.
Đàn ghita của Lor-ca đã đưa người đọc đến với thế giới nghệ thuật trác tuyệt, đem đến cho chúng ta những tình cảm nghệ thuật đẹp đẽ. Đồng thời qua tác phẩm này ta cũng có thể hiểu được những nỗ lực cách tân không ngừng của Thanh Thảo trong quá trình đổi mình, cách tân nghệ thuật.