Văn mẫu lớp 12 Tập 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề bài: “Thơ là hùng biện du dương” hãy chứng minh điều đó qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

Bài làm

I. Mở bài

II. Thân bài

1. Khái quát chung

– “Thơ là hùng biện du dương”:

    + Hùng biện chính là đưa ra một thông tin, lí lẽ nào đó để thuyết phục người khác nghe theo ý của mình. Ngôn ngữ hùng biện thường chặt chẽ, logic và đanh thép.

    + Thơ ca có những đặc trưng riêng của thể loại, nó không tác động đến cảm xúc người nghe bằng những ngôn từ đanh thép, bằng cốt truyện li kì, … đặc trưng của thơ chính là tính nhạc, nhịp điệu, vần và hình ảnh thơ. Bởi vậy, nói thơ là hùng biện du dương nghĩa là ngôn ngữ thơ không hề thiếu tính thuyết phục, tranh luận, nhưng đó là sự tranh luận bằng cảm xúc, bằng nhạc điệu và hình ảnh.

– Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ chính là một bài thơ mang đậm tính chất “hùng biện du dương như vậy”

2. Thơ là hùng biện

– Cảm hứng sáng tác: từ xúc cảm mãnh liệt trước mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước, tác giả thể hiện khát vọng được dâng hiến “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn lao của cuộc đời.

– Bài thơ là lời hùng biện về tình yêu quê hương đất nước xứ sở

    + Tác giả thể hiện cho bạn đọc biết về tình yêu quê hương xứ sở thông qua niềm tự hào, say sưa ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở: “Dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc”, con chim chiền chiện hót vang trời, …

    + Qua niềm tự hào về một đất nước có lịch sử 4000 năm lâu bền, qua sự khẳng định niềm tin vào tương lai tươi sáng, hùng vĩ của đất nước: “đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”

– Bài thơ là lời hùng biện về khát vọng được dâng hiến mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân đất nước.

    + Trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời tác giả muốn làm những điều giản dị gần gũi như: con chim hót, nhành hoa, một nốt trầm, để tô điểm thêm cho bức tranh xuân.

    + Nguyện lặng lẽ dâng hiến mùa xuân nho nhỏ cuộc đời mình. Đó không phải khát khao của một lúc mà là cả một đời: “Dù là tuổi hai mươi/ Dù là …”

    + Đại từ “vừa” chỉ số ít vừa chỉ số nhiều, đó là tâm tư riêng của tác giả nhưng đó cũng như một lời thuyết phục tất cả mọi người cùng hòa nhập vào cuộc sống chung của đất nước.

– Nhận xét: bài thơ chính là lời hùng biện cho khát vọng được dâng hiến, khát vọng hòa cuộc đời nhỏ bé với cuộc sống tươi đẹp lớn lao.

3. Thơ là hùng biện nhưng không khô khan, đanh thép mà du dương

– Tác giả hùng biện về tình yêu quê hương đất nước thông qua những hình ảnh thơ trong trẻo, đầy sức sống, qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật trong những lời bộc lộ trực tiếp như nói chuyện với thiên nhiên: “ơi con chim chiền chiện …mà ”

– Lời hùng biện giàu tính nhạc của bài thơ thể hiện qua nhịp điệu trong sáng trong từng khổ thơ, qua âm thanh trong khổ thơ:

    + Âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời như đọng thành “từng giọt long lanh”

    + Đó còn là âm thanh vang vọng của nhịp phách tiền, của khúc nam ai nam bình xứ Huế

    + Cả bài thơ như một khúc ca nhịp nhàng với những hình ảnh sóng đôi, những điệp ngữ được sử dụng thường xuyên: “mùa xuân”, “tất cả như”, “ta làm”.

    + Nhịp điệu bài thơ khi nhẹ nhàng sâu lắng, khi khẩn trương hăng say, giống như một khúc nhạc: đoạn đầu vui say sưa với vẻ đẹp thiên nhiên, rồi phấn trấn trước khí thế lao động của đất nước, cuối cùng trầm lắng, trang nghiêm thiết tha bộc bạch tâm niệm.

    + Thơ 5 chữ nhẹ nhàng, tha thiết mang âm hưởng dân ca

– Lời hùng biện giàu hình ảnh:

    + Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khiên ngôn ngữ thơ đa nghĩa, giàu hình ảnh hơn: “từng giọt long lanh rơi” (giọt mưa mùa xuân, giọt tiếng chim hót)

    + Kết hợp hài hòa hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng khái quát.

– Đó còn là sự hùng biện bằng một cảm xúc chân thành của con người luôn yêu quê hương xứ sở, cả một đời khát khao được cống hiến và cũng khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

– Nhận xét: bài thơ Mùa Xuân nho nhỏ là một minh chứng rõ ràng cho nhận định “thơ là hùng biện du dương”, bài thơ đã hùng biện về khát khao cống hiến, tình yêu đất nước bằng cảm xúc chân thành, bằng nhạc điệu du nhịp nhàng và hình ảnh trong sáng.

III. Kết bài

– Bài thơ thể hiện những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, đất nước và khát vọng được cống hiến cho đất nước, cho cuộc đời.

Đề bài: “Thơ là hùng biện du dương” hãy chứng minh điều đó qua tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải.

Bài làm

    Voltaired đã từng nhận định rằng: “Thơ là hùng biện du dương”, quả đúng như vậy. Thơ phải vừa có lí lẽ thuyết phục lại vừa phải sâu sắc, đi vào lòng người. Một bài thơ phải đáp ứng được hai điều kiện ấy mới trở thành một tác phẩm thực thụ và sống mãi với thời gian. Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải sáng tác vào những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, tác phẩm là tâm huyết là kết tinh tài năng nghệ thuật của ông. Tác phẩm vừa sâu sắc, lập luận rõ ràng, lại vừa sâu lắng, tha thiết, tràn ngập tình cảm.

    Để có thể hiểu tính hùng biện và du dương trong tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải chúng ta trước hết cần hiểu nhận định của Voltaired có nghĩa là gì. Trước hết hùng biện là những lí lẽ, dẫn chứng, cách lập luận thuyết phục với người nghe; còn du dương có nghĩa là sự mềm mại của tính nhạc, vần điệu trong một tác phẩm. Như vậy, đối với một bài thơ không chỉ cần nội dung thuyết phục mà còn cần cả sự hấp dẫn trong câu chữ. Tác giả đã đề cập đến hai yếu tố của tác phẩm thơ là đặc sắc về nội dung và đẹp đẽ về nghệ thuật. Và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đã đáp ứng đầy đủ hai yêu cầu này của nhà phê bình Voltaired.

    Mùa xuân nho nhỏ là tác phẩm được viết một tháng trước khi nhà thơ qua đời. Vậy nhưng, trong bài thơ ta không hề thấy màu sắc bi quan, chán chường mà lại là một trái tim yêu cuộc sống tha thiết và khát vọng, nguyện ước cống hiến cho đời tha thiết, mãnh liệt. Tính hùng biện trong thơ ông chính là ở chỗ đó.

    Lòng yêu cuộc sống của Thanh Hải trước hết là niềm say mê, háo hức trước bức tranh thiên nhiên mùa xuân tuyệt đẹp: “Mọc giữa dòng sông xanh/ Một bong hoa tím biếc/ Ôi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời/ Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Bức tranh mở ra với không gian cao rộng của bầu trời và chiều dài của dòng sông. Màu tím biếc đặc trưng của xứ Huế khiến cho bức tranh thêm phần mơ mộng, lãng mạn . Và trên bầu trời cao rộng kia xuất hiện tiếng chim chiền chiện vui tươi, rộn ràng, như một lời hoan ca, chào đón mùa xuân. Một cách rất tự nhiên, nhà thơ đưa tay hứng lấy những “giọt long lanh rơi”. Giọt này là giọt gì, giọt sương, giọt mùa xuân, hay giọng hót của chim chiền chiện đã ngưng đọng thành từng giọt. Dù hiểu theo cách nào ta cũng đều thấy được sự trân trọng, nâng niu của tác giả trong từng hành động. Câu thơ đã cho thấy cảm xúc say sưa, ngây ngất, của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế.

    Từ cảm xúc của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải nâng len thành niềm tự hào trước mùa xuân của đất nước:

    Mùa xuân người cầm súng

    Lộc giắt đầy trên lưng

    Mùa xuân người ra đồng

    Lộc trải dài nương mạ

    Những hình ảnh thơ thật đẹp, đã khái quát được hai lực lượng chính của đất nước ta. Hình ảnh người cầm sung gợi liên tưởng đến những chiến sĩ ngày đêm chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh người ra đồng lại la những hậu phương vững chắc, sản xuất phục vụ tiền tuyến. Giữa họ là những thực thể không thể tách rời, thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Trong câu thơ xuất hiên hai từ “lộc”, nhưng mỗi từ lộc lại đem đến cho người đọc những liên tưởng khác nhau. Từ lộc thứ nhất gợi cho chúng ta nhớ đến những nhành cây trên ba lô ngụy trang người chiến sĩ, như vậy người lính khi ra trận đem theo cả sức sống mãnh liệt của dân tộc. Còn chữ “lộc” thứ hai lại gợi cho ta nhớ đến hình ảnh của những cánh đồng xanh rì, bát ngát, tràn đầy sự sống. Chính con người đã đem đến sức sống cho thiên nhiên đất nước. Và trong công cuộc đấy, con người trở nên hối hả, gấp gáp, vội vã hơn. Đây cũng như là tiếng reo vui trong trong tâm hồn của tinh thần lao động khẩn trương, hăng say.

    “Đất nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao/ Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Khổ thơ vừa nói về hành trình đầy gian lao, vất vả của đất nước trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trong bốn ngàn năm ấy, chúng ta đã phải đối mặt với biết bao kẻ thù nguy hiểm, biết bao người đã ngã xuống vì nên độc lập của dân tộc. Nhưng dù gian lao, vất vả, đất nước vẫn tiếp tục tiến về tương lai tươi sáng. Đất nước được tác giả ví như một ngôi sao, ngôi sao vĩnh cửa trong vũ trụ, trường tồn với thời gian, cũng như sự tồn tại tất yếu của dân tộc. Bên cạnh đó phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện niềm tin, sự quyết tâm cao độ của tác giả vào sức sống của quê hương, đất nước.

    Những vần thơ cuối cùng của bài là nguyện ước chân thành, mãnh liệt cống hiến cho đời, cho đất nước:

    Ta làm con chim hót

    Ta làm một cành hoa

    Ta nhập vào hòa ca

    Một nốt trầm xao xuyến.

    Tác giả ước mình là một con chim đem lại tiếng hót cho đời, ước làm một cành hoa tươi thắm làm cho bức tranh cuộc đời thêm tươi tắn sắc màu. Và đặc biệt tác giả muốn làm một nốt trầm lặng lẽ cống hiến cho bản nhạc cuộc đời. Một ước nguyện thật khiêm nhường, đẹp đẽ. Đặc biệt ở đây có sự chuyển đổi đại từ, từ “tôi” ở đầu tác phẩm đến đây là “ta” như một lần nữa khẳng định, đây không chỉ là nguyện ước của riêng cá nhân ông, mà là nguyện ước chung của rất nhiều người. Họ cống hiến cả tuổi trẻ, cả thanh xuân “Dù là tuổi hai mươi” hay khi “dù là khi tóc bạc” nguyện ước ấy vẫn chân thành tha thiết và không hề thay đổi. Đây là một lẽ sống đẹp đẽ và đáng trân trọng và đáng trân trọng hơn khi bài thơ được sáng tác vào những ngày tháng cuối cùng của tác giả.

    Bài thơ không chỉ có tính “hùng biện” mà trong nó còn dạt dào tính “du dương”. Tính du dương của bài thơ được thể hiện trong nhạc điệu vô cùng trong sáng, thiết tha. Bài thơ được viết bằng thể thơ năm chữ, thể thơ ngũ ngôn vốn giàu nhịp điệu, biến đổi linh hoạt cùng với đó là sự kết hợp hài hòa điệp từ, điệp ngữ đã khiến cho nhịp điều bài thơ càng trở nên linh hoạt, tựa như một bản nhạc. Không chỉ vậy, Thanh Hải còn sử dụng ngôn từ hết sức tài tình, ngôn ngữ trong thơ ông giản dị, dễ hiểu nhưng vẫn rất giàu ý nghĩa biểu tượng: cành hoa, con chim, mùa xuân,… gửi gắm những thông điệp đẽ của tác giả. Ngoài ra cũng không thể không kể đến cấu tứ thơ chặt chẽ, đi từ mùa xuân của đất trời đến mùa xuân đất nước và cuối cùng là con người, mạch thơ logic, hợp lí. Cuối cùng là giọng thơ cũng có sự biến đổi linh hoạt: mở đầu bài thơ giọng điêu say sưa, vui tươi, háo hức, phần cuối lại trầm lắng, nghiêm trang bộc lộ những tâm nguyện của ông.

    Mùa xuân nho nhỏ là tuyệt phẩm của nhà thơ Thanh Hải, gửi gắm đến bạn đọc những thông điệp ý nghĩa về lối sống cống hiến cho cuộc đời. Đồng thời bài thơ cũng là minh chứng cho nhận định “thơ là hùng biện du dương”. Bên cạnh đó, bài thơ cũng đến cho người đọc nhận thức, sáng tạo nghệ thuật phải luôn gắn bó và phục vụ cuộc sống.

Đề bài: “Thơ là hùng biện du dương” hãy chứng minh điều đó qua tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

Bài làm

   Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết trước một tháng trước khi ông qua đời. Đây có thể coi là kết tinh nghệ thuật của cuộc đời ông. Tác phẩm vừa có cái du dương, trầm lắng nhưng cũng đầy tính hùng biện, hào hùng. Một cách ngắn gọn thì có lẽ nhân xét này là vô cùng chuẩn xác: “Thơ là hùng biện du dương”

   Quả thực đúng như vậy, thơ không chỉ đơn thuần truyền tải, khuyên răn bạn đọc một thông điệp nào đó. Nếu chỉ đơn giản mục đích là như vậy, có lẽ không cần đến thơ ca cũng có thể tuyên truyền được. Nhưng cái hay của thơ chính là truyền tải thông điệp cứng nhắc bằng sự du dương, trầm bổng của mình. Khi ấy sẽ dễ dàng đi vào lòng bạn đọc hơn rất nhiều.

   Hùng biện được hiểu là những lí lẽ, dẫn chứng khiến người nghe bị thuyết phục. Tính hùng biện có quan hệ chặt chẽ trong cách sử dụng ngôn ngữ danh thép, lo gic và chặt chẽ. Còn tính du dương được coi như một đặc trưng khi biệt của thơ ca. Tính du dương trong mỗi tác phẩm bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố như nhịp điêu, thể thơ, hình ảnh. Khi nhận xét “Thơ là hùng biện du dương” tác giả muốn khẳng định ngôn ngữ, hình ảnh thơ phải thật du dương, nhưng cũng không thiếu được những lí lẽ thuyết phuc, logic làm cho gười đọc bị thuyết phục hoàn toàn.

   Tính hùng biện trong bài thơ Mùa xuân n ho nhỏ được thể hiện rất rõ nét. Nhưng để thấy được tính hùng biện của tác phẩm này cần hiểu rõ luận đề mà Thanh Hải đưa ra trong bài thơ này là gì. Nương theo dòng cảm xúc của toàn bộ văn bản có thể thấy luận đề trung tâm của tác phẩm chính là: khát vọng được cống hiến mùa xuân nho nhỏ của bản thân cho mùa xuân lớn của đất nước. Từ luận đề chung đó, Thanh Hải triển khai thành những ý nhỏ vô cùng logic, chặt chẽ. Trước hết đó là niềm tự hào, tình yêu quê hương xứ sở:

       Mọc giữa dòng sông xanh

       

       Tôi đưa tay tôi hứng

   Một bức tranh đậm đà chất Huế mà chỉ cần với năm câu thơ, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc. Bức tranh đó có còn sống xanh biếc bởi những nhánh cây lục bình, có những bông hoa tím mộng mơ, có tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Và tác giả yêu quý, trân trọng tất cả khung cảnh đẹp đẽ đó. Hành động “tôi đưa tay tôi hứng” đầy nâng niu, trân trọng, đã phần nào cho thấy tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Không chỉ vậy, tình yêu đất nước còn thể hiện trong niềm tin son sắt vào sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước với thời gian: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Dù trải qua bao mưa gió, bao phong ba, bão táp, tác giả vẫn có một niềm tin dai dẳng về sự phát triển, về sự trường tồn của quê hương.

   Lời hùng biện đó của tác giả nhằm hướng đến mục đích cuối cùng chính là lặng lẽ dâng cho đời một mùa xuân nhỏ nhỏ, góp chút công sức nhỏ nhoi cho sự phát triển chung của dân tộc.

       Ta làm con chim hót

       

       Một nốt trầm xao xuyến

   Những điều mà tác giả muốn hòa thân thật dung dị, đẹp đẽ là con chim, là nhành hoa, hay chỉ đơn thuần là một nốt trầm trong bản nhạc đạc lớn của cuộc đời. Và nguyện ước đó đâu chỉ là ngày một ngày hai mà nó đã được hình thành ngay từ khi tác giả còn rất trẻ: “Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc”. Đến đây tình hùng biện của bài thơ càng được khẳng định rõ nét hơn: bài thơ chính là lời hùng biện đanh thép cho lẽ sống đẹp: sống là cống hiến, là hiến dâng cả cuộc đời cho đất nước.

   Nhưng thơ đâu chỉ là những lời lẽ hùng biện khô khan, cứng nhắc, nếu vậy sẽ rất khó đi vào lòng người. Để người đọc dễ dàng cảm nhận thơ còn mang tính du dương, trầm bổng. Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải cũng như vậy. Tính du dương đó trước hết thể hiện ở tình cảm trực tiếp, ở những hình ảnh giản dị, thân thuộc của quê hương. Nhắc đến Huế ai chẳng nhớ đến dòng sông Hương hiền hòa, lặng lẽ, nhớ đến những cánh hoa lục bình tím biếc hay tiếng chim chiền chiện hót vang trời đón xuân sang. Bằng một tình yêu chân thành, sự gắn bó máu thịt, Thanh Hải nâng niu từng cảnh sắc của đất trời xứ Huế. Câu thơ cuối trong khổ thơ thứ nhất với từ cảm thán “ơi” và hành động “hứng” như một lần nữa khẳng định tình yêu tha thiết, chân thành đó.

   Tính du dương của thơ bao giờ cũng được thể hiện rõ nhất ở nhịp điệu. Mùa xuân nho nhỏ được viết bằng thể thơ năm chữ, giàu nhịp điệu. Nhịp điệu linh hoạt, khi tha thiết, trầm bổng trước hành trình đầy gian lao, vất vả của đất nước: “Mùa xuân người cầm súng/ Lộc dắt đầy trên lưng/ Mùa xuân người ra đồng/ Lộc trải dài nương mạ”; khi hối hả, gấp gáp: “Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao”; khi mạnh mẽ cuộn trào: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Nhịp điệu đó còn được kết hợp với tiếng chim chiền chiện vang trời, với nhịp phách Huế, câu Nam ai Nam bình đầy da diế. Cứ như vậy, từng khúc nhạc, từng nhịp điệu quấn quýt, hòa quyện với nhau tạo thành một bản nhạc tuyệt vời về lối sống đẹp, về sự cống hiến, hi sinh.

   Có thể thấy, Mùa xuân nho nhỏ chính là minh chứng rõ ràng nhất, điển hình nhất cho nhận xét: “Thơ là hùng biện du dương”. Chất hùng biện, triết lí được bao bọc, thể hiện bởi sự du dương đã đem đến cho bạn đọc một bài học, một triết lí lớn trong cuộc sống: sống là cống hiến, là cho đi không chỉ nhận riêng mình.

Đề bài: “Thơ là hùng biện du dương” hãy chứng minh điều đó qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

I. Mở bài

II. Thân bài

1. Khái quát chung

– “Thơ là hùng biện du dương”:

    + Hùng biện chính là đưa ra một thông tin, lí lẽ nào đó để thuyết phục người khác nghe theo ý của mình. Ngôn ngữ hùng biện thường chặt chẽ, logic và đanh thép.

    + Thơ ca có những đặc trưng riêng của thể loại, nó không tác động đến cảm xúc người nghe bằng những ngôn từ đanh thép, bằng cốt truyện li kì, … đặc trưng của thơ chính là tính nhạc, nhịp điệu, vần và hình ảnh thơ. Bởi vậy, nói thơ là hùng biện du dương nghĩa là ngôn ngữ thơ không hề thiếu tính thuyết phục, tranh luận, nhưng đó là sự tranh luận bằng cảm xúc, bằng nhạc điệu và hình ảnh.

– Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ chính là một bài thơ mang đậm tính chất “hùng biện du dương như vậy”

2. Thơ là hùng biện

– Cảm hứng sáng tác: từ xúc cảm mãnh liệt trước mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước, tác giả thể hiện khát vọng được dâng hiến “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn lao của cuộc đời.

– Bài thơ là lời hùng biện về tình yêu quê hương đất nước xứ sở

    + Tác giả thể hiện cho bạn đọc biết về tình yêu quê hương xứ sở thông qua niềm tự hào, say sưa ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở: “Dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc”, con chim chiền chiện hót vang trời, …

    + Qua niềm tự hào về một đất nước có lịch sử 4000 năm lâu bền, qua sự khẳng định niềm tin vào tương lai tươi sáng, hùng vĩ của đất nước: “đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”

– Bài thơ là lời hùng biện về khát vọng được dâng hiến mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân đất nước.

    + Trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời tác giả muốn làm những điều giản dị gần gũi như: con chim hót, nhành hoa, một nốt trầm, để tô điểm thêm cho bức tranh xuân.

    + Nguyện lặng lẽ dâng hiến mùa xuân nho nhỏ cuộc đời mình. Đó không phải khát khao của một lúc mà là cả một đời: “Dù là tuổi hai mươi/ Dù là …”

    + Đại từ “vừa” chỉ số ít vừa chỉ số nhiều, đó là tâm tư riêng của tác giả nhưng đó cũng như một lời thuyết phục tất cả mọi người cùng hòa nhập vào cuộc sống chung của đất nước.

– Nhận xét: bài thơ chính là lời hùng biện cho khát vọng được dâng hiến, khát vọng hòa cuộc đời nhỏ bé với cuộc sống tươi đẹp lớn lao.

3. Thơ là hùng biện nhưng không khô khan, đanh thép mà du dương

– Tác giả hùng biện về tình yêu quê hương đất nước thông qua những hình ảnh thơ trong trẻo, đầy sức sống, qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật trong những lời bộc lộ trực tiếp như nói chuyện với thiên nhiên: “ơi con chim chiền chiện …mà ”

– Lời hùng biện giàu tính nhạc của bài thơ thể hiện qua nhịp điệu trong sáng trong từng khổ thơ, qua âm thanh trong khổ thơ:

    + Âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời như đọng thành “từng giọt long lanh”

    + Đó còn là âm thanh vang vọng của nhịp phách tiền, của khúc nam ai nam bình xứ Huế

    + Cả bài thơ như một khúc ca nhịp nhàng với những hình ảnh sóng đôi, những điệp ngữ được sử dụng thường xuyên: “mùa xuân”, “tất cả như”, “ta làm”.

    + Nhịp điệu bài thơ khi nhẹ nhàng sâu lắng, khi khẩn trương hăng say, giống như một khúc nhạc: đoạn đầu vui say sưa với vẻ đẹp thiên nhiên, rồi phấn trấn trước khí thế lao động của đất nước, cuối cùng trầm lắng, trang nghiêm thiết tha bộc bạch tâm niệm.

    + Thơ 5 chữ nhẹ nhàng, tha thiết mang âm hưởng dân ca

– Lời hùng biện giàu hình ảnh:

    + Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khiên ngôn ngữ thơ đa nghĩa, giàu hình ảnh hơn: “từng giọt long lanh rơi” (giọt mưa mùa xuân, giọt tiếng chim hót)

    + Kết hợp hài hòa hình ảnh thơ tự nhiên, giản dị với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng khái quát.

– Đó còn là sự hùng biện bằng một cảm xúc chân thành của con người luôn yêu quê hương xứ sở, cả một đời khát khao được cống hiến và cũng khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

– Nhận xét: bài thơ Mùa Xuân nho nhỏ là một minh chứng rõ ràng cho nhận định “thơ là hùng biện du dương”, bài thơ đã hùng biện về khát khao cống hiến, tình yêu đất nước bằng cảm xúc chân thành, bằng nhạc điệu du nhịp nhàng và hình ảnh trong sáng.

III. Kết bài

– Bài thơ thể hiện những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, đất nước và khát vọng được cống hiến cho đất nước, cho cuộc đời.

   Voltaired đã từng nhận định rằng: “Thơ là hùng biện du dương”, quả đúng như vậy. Thơ phải vừa có lí lẽ thuyết phục lại vừa phải sâu sắc, đi vào lòng người. Một bài thơ phải đáp ứng được hai điều kiện ấy mới trở thành một tác phẩm thực thụ và sống mãi với thời gian. Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải sáng tác vào những ngày cuối cùng của cuộc đời mình, tác phẩm là tâm huyết là kết tinh tài năng nghệ thuật của ông. Tác phẩm vừa sâu sắc, lập luận rõ ràng, lại vừa sâu lắng, tha thiết, tràn ngập tình cảm.

    Để có thể hiểu tính hùng biện và du dương trong tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải chúng ta trước hết cần hiểu nhận định của Voltaired có nghĩa là gì. Trước hết hùng biện là những lí lẽ, dẫn chứng, cách lập luận thuyết phục với người nghe; còn du dương có nghĩa là sự mềm mại của tính nhạc, vần điệu trong một tác phẩm. Như vậy, đối với một bài thơ không chỉ cần nội dung thuyết phục mà còn cần cả sự hấp dẫn trong câu chữ. Tác giả đã đề cập đến hai yếu tố của tác phẩm thơ là đặc sắc về nội dung và đẹp đẽ về nghệ thuật. Và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đã đáp ứng đầy đủ hai yêu cầu này của nhà phê bình Voltaired.

    Mùa xuân nho nhỏ là tác phẩm được viết một tháng trước khi nhà thơ qua đời. Vậy nhưng, trong bài thơ ta không hề thấy màu sắc bi quan, chán chường mà lại là một trái tim yêu cuộc sống tha thiết và khát vọng, nguyện ước cống hiến cho đời tha thiết, mãnh liệt. Tính hùng biện trong thơ ông chính là ở chỗ đó.

    Lòng yêu cuộc sống của Thanh Hải trước hết là niềm say mê, háo hức trước bức tranh thiên nhiên mùa xuân tuyệt đẹp: “Mọc giữa dòng sông xanh/ Một bong hoa tím biếc/ Ôi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời/ Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Bức tranh mở ra với không gian cao rộng của bầu trời và chiều dài của dòng sông. Màu tím biếc đặc trưng của xứ Huế khiến cho bức tranh thêm phần mơ mộng, lãng mạn . Và trên bầu trời cao rộng kia xuất hiện tiếng chim chiền chiện vui tươi, rộn ràng, như một lời hoan ca, chào đón mùa xuân. Một cách rất tự nhiên, nhà thơ đưa tay hứng lấy những “giọt long lanh rơi”. Giọt này là giọt gì, giọt sương, giọt mùa xuân, hay giọng hót của chim chiền chiện đã ngưng đọng thành từng giọt. Dù hiểu theo cách nào ta cũng đều thấy được sự trân trọng, nâng niu của tác giả trong từng hành động. Câu thơ đã cho thấy cảm xúc say sưa, ngây ngất, của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế.

    Từ cảm xúc của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải nâng len thành niềm tự hào trước mùa xuân của đất nước:

    Mùa xuân người cầm súng

    Lộc giắt đầy trên lưng

    Mùa xuân người ra đồng

    Lộc trải dài nương mạ

    Những hình ảnh thơ thật đẹp, đã khái quát được hai lực lượng chính của đất nước ta. Hình ảnh người cầm sung gợi liên tưởng đến những chiến sĩ ngày đêm chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh người ra đồng lại la những hậu phương vững chắc, sản xuất phục vụ tiền tuyến. Giữa họ là những thực thể không thể tách rời, thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Trong câu thơ xuất hiên hai từ “lộc”, nhưng mỗi từ lộc lại đem đến cho người đọc những liên tưởng khác nhau. Từ lộc thứ nhất gợi cho chúng ta nhớ đến những nhành cây trên ba lô ngụy trang người chiến sĩ, như vậy người lính khi ra trận đem theo cả sức sống mãnh liệt của dân tộc. Còn chữ “lộc” thứ hai lại gợi cho ta nhớ đến hình ảnh của những cánh đồng xanh rì, bát ngát, tràn đầy sự sống. Chính con người đã đem đến sức sống cho thiên nhiên đất nước. Và trong công cuộc đấy, con người trở nên hối hả, gấp gáp, vội vã hơn. Đây cũng như là tiếng reo vui trong trong tâm hồn của tinh thần lao động khẩn trương, hăng say.

    “Đất nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao/ Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Khổ thơ vừa nói về hành trình đầy gian lao, vất vả của đất nước trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trong bốn ngàn năm ấy, chúng ta đã phải đối mặt với biết bao kẻ thù nguy hiểm, biết bao người đã ngã xuống vì nên độc lập của dân tộc. Nhưng dù gian lao, vất vả, đất nước vẫn tiếp tục tiến về tương lai tươi sáng. Đất nước được tác giả ví như một ngôi sao, ngôi sao vĩnh cửa trong vũ trụ, trường tồn với thời gian, cũng như sự tồn tại tất yếu của dân tộc. Bên cạnh đó phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện niềm tin, sự quyết tâm cao độ của tác giả vào sức sống của quê hương, đất nước.

    Những vần thơ cuối cùng của bài là nguyện ước chân thành, mãnh liệt cống hiến cho đời, cho đất nước:

    Ta làm con chim hót

    Ta làm một cành hoa

    Ta nhập vào hòa ca

    Một nốt trầm xao xuyến.

    Tác giả ước mình là một con chim đem lại tiếng hót cho đời, ước làm một cành hoa tươi thắm làm cho bức tranh cuộc đời thêm tươi tắn sắc màu. Và đặc biệt tác giả muốn làm một nốt trầm lặng lẽ cống hiến cho bản nhạc cuộc đời. Một ước nguyện thật khiêm nhường, đẹp đẽ. Đặc biệt ở đây có sự chuyển đổi đại từ, từ “tôi” ở đầu tác phẩm đến đây là “ta” như một lần nữa khẳng định, đây không chỉ là nguyện ước của riêng cá nhân ông, mà là nguyện ước chung của rất nhiều người. Họ cống hiến cả tuổi trẻ, cả thanh xuân “Dù là tuổi hai mươi” hay khi “dù là khi tóc bạc” nguyện ước ấy vẫn chân thành tha thiết và không hề thay đổi. Đây là một lẽ sống đẹp đẽ và đáng trân trọng và đáng trân trọng hơn khi bài thơ được sáng tác vào những ngày tháng cuối cùng của tác giả.

    Bài thơ không chỉ có tính “hùng biện” mà trong nó còn dạt dào tính “du dương”. Tính du dương của bài thơ được thể hiện trong nhạc điệu vô cùng trong sáng, thiết tha. Bài thơ được viết bằng thể thơ năm chữ, thể thơ ngũ ngôn vốn giàu nhịp điệu, biến đổi linh hoạt cùng với đó là sự kết hợp hài hòa điệp từ, điệp ngữ đã khiến cho nhịp điều bài thơ càng trở nên linh hoạt, tựa như một bản nhạc. Không chỉ vậy, Thanh Hải còn sử dụng ngôn từ hết sức tài tình, ngôn ngữ trong thơ ông giản dị, dễ hiểu nhưng vẫn rất giàu ý nghĩa biểu tượng: cành hoa, con chim, mùa xuân,… gửi gắm những thông điệp đẽ của tác giả. Ngoài ra cũng không thể không kể đến cấu tứ thơ chặt chẽ, đi từ mùa xuân của đất trời đến mùa xuân đất nước và cuối cùng là con người, mạch thơ logic, hợp lí. Cuối cùng là giọng thơ cũng có sự biến đổi linh hoạt: mở đầu bài thơ giọng điêu say sưa, vui tươi, háo hức, phần cuối lại trầm lắng, nghiêm trang bộc lộ những tâm nguyện của ông.

    Mùa xuân nho nhỏ là tuyệt phẩm của nhà thơ Thanh Hải, gửi gắm đến bạn đọc những thông điệp ý nghĩa về lối sống cống hiến cho cuộc đời. Đồng thời bài thơ cũng là minh chứng cho nhận định “thơ là hùng biện du dương”. Bên cạnh đó, bài thơ cũng đến cho người đọc nhận thức, sáng tạo nghệ thuật phải luôn gắn bó và phục vụ cuộc sống.

    Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết trước một tháng trước khi ông qua đời. Đây có thể coi là kết tinh nghệ thuật của cuộc đời ông. Tác phẩm vừa có cái du dương, trầm lắng nhưng cũng đầy tính hùng biện, hào hùng. Một cách ngắn gọn thì có lẽ nhân xét này là vô cùng chuẩn xác: “Thơ là hùng biện du dương”

    Quả thực đúng như vậy, thơ không chỉ đơn thuần truyền tải, khuyên răn bạn đọc một thông điệp nào đó. Nếu chỉ đơn giản mục đích là như vậy, có lẽ không cần đến thơ ca cũng có thể tuyên truyền được. Nhưng cái hay của thơ chính là truyền tải thông điệp cứng nhắc bằng sự du dương, trầm bổng của mình. Khi ấy sẽ dễ dàng đi vào lòng bạn đọc hơn rất nhiều.

    Hùng biện được hiểu là những lí lẽ, dẫn chứng khiến người nghe bị thuyết phục. Tính hùng biện có quan hệ chặt chẽ trong cách sử dụng ngôn ngữ danh thép, lo gic và chặt chẽ. Còn tính du dương được coi như một đặc trưng khi biệt của thơ ca. Tính du dương trong mỗi tác phẩm bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố như nhịp điêu, thể thơ, hình ảnh. Khi nhận xét “Thơ là hùng biện du dương” tác giả muốn khẳng định ngôn ngữ, hình ảnh thơ phải thật du dương, nhưng cũng không thiếu được những lí lẽ thuyết phuc, logic làm cho gười đọc bị thuyết phục hoàn toàn.

    Tính hùng biện trong bài thơ Mùa xuân n ho nhỏ được thể hiện rất rõ nét. Nhưng để thấy được tính hùng biện của tác phẩm này cần hiểu rõ luận đề mà Thanh Hải đưa ra trong bài thơ này là gì. Nương theo dòng cảm xúc của toàn bộ văn bản có thể thấy luận đề trung tâm của tác phẩm chính là: khát vọng được cống hiến mùa xuân nho nhỏ của bản thân cho mùa xuân lớn của đất nước. Từ luận đề chung đó, Thanh Hải triển khai thành những ý nhỏ vô cùng logic, chặt chẽ. Trước hết đó là niềm tự hào, tình yêu quê hương xứ sở:

    Mọc giữa dòng sông xanh…

    Tôi đưa tay tôi hứng

    Một bức tranh đậm đà chất Huế mà chỉ cần với năm câu thơ, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc. Bức tranh đó có còn sống xanh biếc bởi những nhánh cây lục bình, có những bông hoa tím mộng mơ, có tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Và tác giả yêu quý, trân trọng tất cả khung cảnh đẹp đẽ đó. Hành động “tôi đưa tay tôi hứng” đầy nâng niu, trân trọng, đã phần nào cho thấy tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Không chỉ vậy, tình yêu đất nước còn thể hiện trong niềm tin son sắt vào sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước với thời gian: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Dù trải qua bao mưa gió, bao phong ba, bão táp, tác giả vẫn có một niềm tin dai dẳng về sự phát triển, về sự trường tồn của quê hương.

    Lời hùng biện đó của tác giả nhằm hướng đến mục đích cuối cùng chính là lặng lẽ dâng cho đời một mùa xuân nhỏ nhỏ, góp chút công sức nhỏ nhoi cho sự phát triển chung của dân tộc.

    Ta làm con chim hót…

    Một nốt trầm xao xuyến

    Những điều mà tác giả muốn hòa thân thật dung dị, đẹp đẽ là con chim, là nhành hoa, hay chỉ đơn thuần là một nốt trầm trong bản nhạc đạc lớn của cuộc đời. Và nguyện ước đó đâu chỉ là ngày một ngày hai mà nó đã được hình thành ngay từ khi tác giả còn rất trẻ: “Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc”. Đến đây tình hùng biện của bài thơ càng được khẳng định rõ nét hơn: bài thơ chính là lời hùng biện đanh thép cho lẽ sống đẹp: sống là cống hiến, là hiến dâng cả cuộc đời cho đất nước.

    Nhưng thơ đâu chỉ là những lời lẽ hùng biện khô khan, cứng nhắc, nếu vậy sẽ rất khó đi vào lòng người. Để người đọc dễ dàng cảm nhận thơ còn mang tính du dương, trầm bổng. Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải cũng như vậy. Tính du dương đó trước hết thể hiện ở tình cảm trực tiếp, ở những hình ảnh giản dị, thân thuộc của quê hương. Nhắc đến Huế ai chẳng nhớ đến dòng sông Hương hiền hòa, lặng lẽ, nhớ đến những cánh hoa lục bình tím biếc hay tiếng chim chiền chiện hót vang trời đón xuân sang. Bằng một tình yêu chân thành, sự gắn bó máu thịt, Thanh Hải nâng niu từng cảnh sắc của đất trời xứ Huế. Câu thơ cuối trong khổ thơ thứ nhất với từ cảm thán “ơi” và hành động “hứng” như một lần nữa khẳng định tình yêu tha thiết, chân thành đó.

    Tính du dương của thơ bao giờ cũng được thể hiện rõ nhất ở nhịp điệu. Mùa xuân nho nhỏ được viết bằng thể thơ năm chữ, giàu nhịp điệu. Nhịp điệu linh hoạt, khi tha thiết, trầm bổng trước hành trình đầy gian lao, vất vả của đất nước: “Mùa xuân người cầm súng/ Lộc dắt đầy trên lưng/ Mùa xuân người ra đồng/ Lộc trải dài nương mạ”; khi hối hả, gấp gáp: “Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao”; khi mạnh mẽ cuộn trào: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Nhịp điệu đó còn được kết hợp với tiếng chim chiền chiện vang trời, với nhịp phách Huế, câu Nam ai Nam bình đầy da diế. Cứ như vậy, từng khúc nhạc, từng nhịp điệu quấn quýt, hòa quyện với nhau tạo thành một bản nhạc tuyệt vời về lối sống đẹp, về sự cống hiến, hi sinh.

    Có thể thấy, Mùa xuân nho nhỏ chính là minh chứng rõ ràng nhất, điển hình nhất cho nhận xét: “Thơ là hùng biện du dương”. Chất hùng biện, triết lí được bao bọc, thể hiện bởi sự du dương đã đem đến cho bạn đọc một bài học, một triết lí lớn trong cuộc sống: sống là cống hiến, là cho đi không chỉ nhận riêng mình.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Bài làm

I. Mở bài

– Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường, thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khao khát tình yêu, tiếng thơ vừa hồn nhiên vừa nồng nàn, mãnh liệt.

– Bài thơ đuợc in trong tập Hoa dọc chiến hào, là một trong những bông hoa rực rỡ nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ là tâm trạng mãnh liệt của người phụ nữ trong tình yêu.

II. Thân bài

– Hai hình tượng sóng đôi trong tác phẩm là hình tượng “sóng” và “em”, có khi tách riêng, nhưng lúc lại hòa làm một đã thể hiện thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của người phụ nữ trong tình yêu.

– Khổ 1: + Con sóng của đại dương hiện lên với nhiều đối cực khác nhau dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là hình ảnh trái tim chứa đựng nhiều cảm xúc phong phú phức tạp của người phụ nữ.

    + Hai câu sau là sự bứt phá của sóng thoát khỏi không gian sông nhỏ hẹp, “không hiểu mình” để tìm đến biển cả rộng lớn, người phụ nữ cũng luôn khát khao những giá trị tuyệt đích trong tình yêu, luôn muốn khám phá chính mình.

– Khổ 2: + Thời gian có đổi thay, những bản tính của sóng “ngày xưa”, “ngày sau” vẫn như vậy: luôn dạt dào, khao khát tìm kiếm không gian rộng lớn vẫy vùng, luôn hướng đến bờ.

    + Cũng như trong, trái tim của người con gái luôn rạo rực, “bồi hồi” khát khao được yêu thương, khát khao đến bến bờ nơi anh.

– Khổ 3: + Trái tim tình yêu của người con gái đã hòa nhịp chung với nhịp vỗ của “muôn trùng sóng bể”.

    + Người con gái trong tình yêu luôn khát khao nhận thức về mình, người mình yêu và về tình yêu. Nỗi khắc khoải “Từ nơi ..lên” là khát khao tìm nguồn cội tình yêu.

– Khổ 4: + Đến đây chính là lời giải đáp cho những băn khoăn ở khổ trước.

    + Vì trái tim người con gái đã hòa nhịp cùng sóng, nên để tìm nguồn cội tình yêu người con gái muốn lí giải nguồn cội của sóng trước, nhưng tất cả đều bí ẩn, để rồi ngại ngùng thốt lên “Em cũng không biết nữa”.

– Khổ 5: + Nỗi nhớ bờ của sóng triền miên, bao trùm khắp không gian “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, thời gian “ngày” – “đêm”, dạt dào đến “không ngủ được”. Đó cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.

    + Nỗi nhớ “anh” của “em” còn ăn sâu vào cả tiềm thức, luôn thường trực trong mọi suy mọi lúc, mọi nơi ngay cả trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.

– Khổ 6: + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

    + Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.

– Khổ 7: khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ … Dù… cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.

– Khổ 8: + “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.

    + “Như biển kia … bay về xa”: cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.

– Khổ 9: + “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.

    + Đó là khát khao của người phụ được sống “biển lớn trong tình yêu ” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về bài thơ Sóng

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …

– Sóng là bài thơ in đậm dấu ấn tâm hồn người phụ nữ vừa đời thường, chắt chiu nhưng khát khao những gì tuyệt đích trong tình yêu.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Bài làm

    Đối với Xuân Quỳnh tình yêu là lẽ sống, là chân lí trong cuộc đời. Thơ tình của bà giản dị, chân thành mà cũng vô cùng sâu sắc. Sóng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của bà. Người đọc không chỉ ấn tượng bởi ngôn từ dung dị, giàu cảm xúc mà còn xúc động bởi một trái tim yêu chân thành, đắm thắm và nguyện ước cống hiến đẹp đẽ, cao cả trong tình yêu.

    Bài thơ “Sóng” trước hết đặc sắc cách tác giả xây cặp hình tượng sóng – em vô cùng độc đáo, giữa sóng và em có những điểm tương đồng, giao thoa với nhau. Dùng sóng để nói về tình yêu, Xuân Quỳnh không phải là người đầu tiên, ta có thể kể đến Xuân Diệu với vần thơ yêu đương nồng cháy: “Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi/ Đã hôn rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Anh mới thôi dào dạt”. Nhưng Xuân Quỳnh, bằng tài năng và phong cách riêng đã khiến cho hình tượng này mang những điểm khác biệt. Nếu thông thường sóng – động thường gắn liền với người con trai, thì trong thơ Xuân Quỳnh, sóng lại gắn với người con gái, nó cho thấy vẻ đẹp táo bạo, mạnh mẽ, hiện đại ở người phụ nữ.

    Mở đầu bài thơ, là những nhận thức, khám phá của em về chính bản thân: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ/ Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”. Hai câu thơ đầu tác giả khai thác triệt để hiệu quả nghệ thuật đối, giữa cái ồn ào, mãnh mẽ với cái dịu êm, lặng lẽ, giúp người đọc có thể hình dung thuộc tính tự nhiên của con sóng. Nhưng quan trọng hơn đó chính là ẩn dụ về tâm hồn của một người con gái đang yêu, thế giới tình yêu vô cùng phức tạp, bí ẩn với nhiều cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau. Từ việc nhận thức về bản thân mình, và tình yêu là vô cùng phức tạp, đã khiến em có một khát vọng muốn truy nguyên, tìm hiểu tình yêu. Có thể thấy khát vọng của nhân vật trữ tình là vô cùng lớn lao, mạnh mẽ bởi dám rời bỏ cái quen thuộc, để tìm cái rộng lớn mênh mông, đầy bất trắc. Khát vọng lớn lao ấy xuất phát từ nhu cầu cắt nghĩa, lí giải thế giới đa chiều, phức tạp trong tình yêu.

    Đứng trước không gian biển cả rộng lớn, nhân vật trữ tình đi từ tình yêu bé nhỏ của mình để chiêm nghiệm tình yêu muôn đời. Tiếp tục là sự tương đồng giữa sóng và tình yêu: “Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”. Nếu như con sóng dù của ngày xưa, hay ngày sau, quá khứ hay hiện tại thì vẫn luôn ào ạt vỗ vào bờ thì tình yêu cũng vậy, các thế hệ sẽ nối tiếp yêu nhau bằng một tình yêu nồng nàn, tha thiết.

    Nhân vật trữ tình tiếp tục cắt nghĩa, lí giải về nguồn gốc của sóng và gió, đồng thời cũng là cắt nghĩa lí, giải về tình yêu:

    Trước muôn trùng sóng bể

   

    Khi nào ta yêu nhau

    Trong hai khổ thơ tác giả đưa ra ba câu hỏi tu từ: Từ nơi nào sóng lên? Gió bắt đầu từ đâu? Và Khi nào ta yêu nhau? Những từ để hỏi: khi nào, nơi nào,… tạo nên giọng thơ suy tư, lí trí những lại bất lực khi tìm hiểu nguồn gốc của tình yêu, nhân vật trữ tình phải thú nhận một cách thành thực, đáng yêu về việc không thể đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “Khi nào ta yêu nhau”. Điều này, chính ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng đã từng thú nhận: “Làm sao cắt nghĩa nổi tình yêu”. Khổ thơ đã nói lên được quy luật tâm lí chung của tất cả những người đang yêu đó là luôn hào hứng tìm cách cắt nghĩa tình yêu của mình. Song cuối cùng đều phải thừa nhận tình yêu là thứ chỉ có thể tận hưởng chứ không thể lí giải.

    Bằng sự sóng đôi, hòa quyện giữa hai hình tượng sóng – em, nhân vật trữ tình đã cắt nghĩa, lí giải về chính mình và về tình yêu. Qua sự cắt nghĩa ấy cho ta thấy hình ảnh một cô gái mang trong mình tình yêu sôi nổi, khát vọng to lớn, mãnh liệt nhưng vẫn hết sức đằm thắm, dịu dàng.

    Sang đến khổ thơ thứ năm và thứ sáu Xuân Quỳnh tập trung làm rõ những cung bậc cảm xúc quan trọng nhất và cũng mãnh liệt nhất trong tình yêu đó chính là nỗi nhớ. Để thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, Xuân Quỳnh cũng mượn quy luật chung của sóng, sóng ở đây đã nhân hóa thành một cô gái có tình yêu mãnh liệt với bờ. Nỗi nhớ của sóng được trải dài ra cả hai trục không gian và thời gian. Trên trục không gian, con sóng trên mặt nước dào dạt, ồn ào, dưới lòng sâu lại đau đáu, khắc khoải. Trên trục thời gian nỗi nhớ trải dài cả ngày và đêm. Nỗi nhớ của sóng đã diễn tả đầy đủ tình yêu nồng nàn, cháy bỏng của người con gái đang yêu. Và dường như nỗi nhớ ấy vẫn là chưa đủ, để tác giả nhận mạnh thêm: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ của em vừa có sự tương đồng, vượt lên trên nỗi nhớ của sóng. Nỗi nhớ của sóng mãnh liệt những vẫn có giới hạn, còn nỗi nhớ của em vượt qua mọi giới hạn của lí trí, xâm chiếm cả tâm hồn em, cả vùng vô thức đó là trong những giấc mơ.

    Vượt qua sự ngượng ngùng, nhân vật trữ tình đã tự phơi trải nỗi nhớ mãnh liệt, ồn ào, để rồi sau đó lắng xuống trở về đúng với bản chất, cốt cách của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Xuân Quỳnh đã hoán đổi vị trí: xuôi về Bắc, ngược về Nam, để khẳng định, dù có biến động gì thì tình yêu và nỗi nhớ giành cho người mình yêu vẫn là vĩnh cửu.

    Ba khổ thơ cuối cùng là niềm tin, khát vọng tình yêu cao cả, mãnh liệt. Với đặc trưng phong cách của mình, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh gắn với sự lo âu, khắc khoải, khổ thơ thứ tám chính là mình chứng cho phong cách thơ của bà, giọng thơ trùng xuống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua/ Như biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa”. Nhà thơ khắc khoải, lo âu về cái hữu hạn, mong manh của kiếp người, tình yêu trước cái bao la của vũ trụ. Lo âu, khắc khoải song Xuân Quỳnh không hề bi quan, bà ý thức được sự ngắn ngủi của đời người, nên nâng niu, trân trọng từng khoảnh khắc của hiện tại để vĩnh cửu hóa nó, để được sống mãi trong tình yêu. Bởi vậy bà khao khát hóa thân thành những con sóng nhỏ, để trường tồn với tình yêu ngàn năm. Dọc chiều dài bài thơ, sóng là phương tiện để em thể hiện tình yêu, nỗi nhớ, để khổ thơ cuối sóng còn trở thành phương tiện để em bất tử hóa tình yêu.

    Với hình tượng nghệ thuật sóng đôi sóng – em đặc sắc, ngôn từ giản dị mà dạt dào cảm xúc, Xuân Quỳnh đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc nhất về tình yêu, những cung bạc cảm xúc trong tình yêu đôi lứa. Tình yêu, đề tài muôn thuở của thi ca, nhưng với một cách riêng, một trái tim yêu chân thành, táo bạo mà cũng hết sức tha thiết, dịu dàng, Xuân Quỳnh đã nói lên tiếng lòng của biết bao cô gái khi yêu.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Bài làm

   Trong bài “Tương tư chiều” Xuân Diệu đã từng viết:

       Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh

       Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi

   Đó là những lời yêu tha thiết, nồng nàn của một chàng trai trước người con gái mình yêu. Thật táo bạo mạnh mẽ, mà cũng đầy chân thành, da diết. Nếu như nam nhân viết thơ tình ta nhớ đến Xuân Diệu, thì nữ nhân viết thơ tình không thể không nhắc đến Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh người phụ nữ của hạnh phúc đời thường, thơ bà viết dung dị, ngâp đầy cảm xúc. Sóng là một ví dụ điển hình về hồn thơ của bà.

   Viết về sóng, thuyền biển không chỉ đến Sóng của Xuân Quỳnh mới có, mà ta đa biết đến Xuân Diệu, hay chính bản thân bà đã có bài Thuyền và biển. Nhưng nếu như Thuyền và biển da diết, sâu lắng thì Sóng lại mang trong mình cái nồng nàn, mãnh liệt, của con người trẻ tuổi đang cuống quýt yêu đương, cuốn quýt bày tỏ:

       Lòng em nhớ đến anh

       Cả trong mơ còn thức.

   Tình yêu của tuổi trẻ đam mê cuồng nhiệt. Cũng như bao nhiêu người yêu nhau khác, họ luôn có một ham muốn truy nguyên nguồn gốc của tình yêu. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng vậy:

       Dữ dội và dịu êm

       Ồn ào và lặng lẽ

       Sông không hiểu ổi mình

       Sóng tìm ra tận bể

   Hai câu thơ đầu đã nói lên hai trạng thái đối lập trong tình yêu, khi dữ dội ồn ào, khi lại dịu êm, lặng lẽ. Đó cũng chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh quả là một người phụ nữ tài tình khi biểu lộ tình cảm, cảm xúc của nhưng người đang yêu nhau. Đọc khổ thơ bất giác ta cũng phải không ngừng thổn thức trước những cung bậc cảm xúc ấy. Trong cuộc sống hay đặc biệt là tình yêu, ai mà chẳng có khao khát hiểu tường tận, kĩ lưỡng, nhưng “sông” cũng đành bất lực mà không hiểu, bởi vậy mang trong mình quyết tâm tìm ra tận bể đê truy nguyên nguồn gốc. Ý nghĩ thật táo bạo, thật độc đáo. Xưa nay có người con gái nào lại có những suy nghĩ và hành động như vậy. Qua đó cũng thể hiện được trái tim yêu cháy bỏng của nhân vật trữ tình.

   Sóng tìm nguồn gốc của tình yêu thật logic, bắt đầu truy tim từ nguồn gốc của song:

       Sóng bắt đầu từ gió

       Gió bắt đầu từ đâu

       Em cũng không biết nữa

       Khi nào ta yêu nhau

   Nếu như quy luật của tình yêu thật dễ dàng để phân tích, lý giải, sóng được sinh ra từ gió. Thì quy luật của tình cảm lại là một câu đố không bao giờ có lời giải đáp. Chúng ta yêu một người mà chẳng thể lí giải vì sao lại yêu, chúng ta cũng chẳng lí giải được con tim kia rung động từ khi nào. Chỉ biết một ngày trái tim bỗng lạc nhịp vì một ai khác, ấy chính là lúc ta nhận ra mình yêu từ lúc nào không hay. Nhân vật trữ tình cũng buộc phải thừa nhận, không biết tình yêu đó bắt đầu từ lúc nào.

   Cả bài thơ là tình yêu nồng nàn, tha thiết, nó như trăm ngàn con sóng dội vào bờ, tình yêu vì thế mà cũng không ngừng dâng lên:

       Con sóng dưới lòng sâu

       Con sóng trên mặt nước

       Ôi con sóng nhớ bờ

       Ngày đêm không ngủ được

       Lòng em nhớ đến anh

       Cả trong mơ còn thức

   Trong câu thơ này, tình yêu như con ngọn sóng cao nhất, mạnh mẽ nhất, đây là khổ thơ duy nhất có đến sáu câu, cũng là khổ thơ thể hiện nỗi nhớ mãnh liệt nhất của nhân vật trữ tình. Dù là dưới đáy sông hay trên mặt nước, dù ngày hay đêm sóng vẫn luôn thao thức. Em cũng vậy, vẫn luôn nhớ về anh, thậm chí ngay cả miền vô thức tình yêu, nỗi nhớ vẫn dâng trào, cuộn sóng. Đọc câu thơ ta lại bất giác nhớ đến bài Thuyền và biển: “Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau rạn vỡ”. Ở bất cứ thời điểm nào, dường như tình yêu đối với Xuân Quỳnh vẫn luôn là lẽ sống, luôn da diết, cuộn trào.

   Nếu như đầu bài thơ tình yêu thơ dại, cuống quýt, nồng nhiệt, thì đến cuối bài thơ lại càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn. Tình yêu của bà thủy chung, son sắt “Dẫu xuôi về phương bắc/ Dẫu ngược về phương Nam” vẫn luôn một lòng hướng về phương anh. Và để khẳng định hơn nữa tình yêu của mình hai khổ thơ cuối thể hiện ý chí quyết tâm, thể hiện nguyện ước chân thành của tác giả trong tình yêu:

       Ở ngoài kia đại dương

       

       Để ngàn năm còn vỗ

   Dù cuộc đời còn nhiều chông gai, còn nhiều spsng gió nhưng sóng vẫn đến bờ, mây vẫn bay về xa cũng như tình yêu của em dành cho anh vẫn luôn vẹn tròn, thủy chung không bao giờ thay đổi. Kết thúc bài thơ là nguyện ước tha thiết được tan ra vào tình yêu lớn của đất trời, để ngàn năm sống trong tình yêu. Lời thơ trở nên mạnh mẽ, gấp gáp cũng như nhịp đập trái tim chân thành, mãnh liệt.

   Bài thơ được viết bằng thể thơ ngữ ngôn giàu nhịp điệp, hình ảnh biểu tượng giàu cảm xúc, ý nghĩa. Sóng là bài thơ bất hủ về tình yêu, về lẽ sống và những khát khao đẹp đẽ. Gấp lại trang thơ long người đọc vẫn không khỏi bùi ngùi, xúc động trước tình yêu chân thành và mãnh liệt đó.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

I. Mở bài

– Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường, thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn luôn khao khát tình yêu, tiếng thơ vừa hồn nhiên vừa nồng nàn, mãnh liệt.

– Bài thơ đuợc in trong tập Hoa dọc chiến hào, là một trong những bông hoa rực rỡ nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ là tâm trạng mãnh liệt của người phụ nữ trong tình yêu.

II. Thân bài

– Hai hình tượng sóng đôi trong tác phẩm là hình tượng “sóng” và “em”, có khi tách riêng, nhưng lúc lại hòa làm một đã thể hiện thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của người phụ nữ trong tình yêu.

– Khổ 1: + Con sóng của đại dương hiện lên với nhiều đối cực khác nhau dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là hình ảnh trái tim chứa đựng nhiều cảm xúc phong phú phức tạp của người phụ nữ.

    + Hai câu sau là sự bứt phá của sóng thoát khỏi không gian sông nhỏ hẹp, “không hiểu mình” để tìm đến biển cả rộng lớn, người phụ nữ cũng luôn khát khao những giá trị tuyệt đích trong tình yêu, luôn muốn khám phá chính mình.

– Khổ 2: + Thời gian có đổi thay, những bản tính của sóng “ngày xưa”, “ngày sau” vẫn như vậy: luôn dạt dào, khao khát tìm kiếm không gian rộng lớn vẫy vùng, luôn hướng đến bờ.

    + Cũng như trong, trái tim của người con gái luôn rạo rực, “bồi hồi” khát khao được yêu thương, khát khao đến bến bờ nơi anh.

– Khổ 3: + Trái tim tình yêu của người con gái đã hòa nhịp chung với nhịp vỗ của “muôn trùng sóng bể”.

    + Người con gái trong tình yêu luôn khát khao nhận thức về mình, người mình yêu và về tình yêu. Nỗi khắc khoải “Từ nơi ..lên” là khát khao tìm nguồn cội tình yêu.

– Khổ 4: + Đến đây chính là lời giải đáp cho những băn khoăn ở khổ trước.

    + Vì trái tim người con gái đã hòa nhịp cùng sóng, nên để tìm nguồn cội tình yêu người con gái muốn lí giải nguồn cội của sóng trước, nhưng tất cả đều bí ẩn, để rồi ngại ngùng thốt lên “Em cũng không biết nữa”.

– Khổ 5: + Nỗi nhớ bờ của sóng triền miên, bao trùm khắp không gian “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, thời gian “ngày” – “đêm”, dạt dào đến “không ngủ được”. Đó cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.

    + Nỗi nhớ “anh” của “em” còn ăn sâu vào cả tiềm thức, luôn thường trực trong mọi suy mọi lúc, mọi nơi ngay cả trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.

– Khổ 6: + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

    + Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.

– Khổ 7: khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ … Dù… cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.

– Khổ 8: + “Cuộc đời tuy dài thế / Năm tháng vẫn đi qua”: cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.

    + “Như biển kia … bay về xa”: cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.

– Khổ 9: + “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.

    + Đó là khát khao của người phụ được sống “biển lớn trong tình yêu ” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về bài thơ Sóng

– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng thành công hình tượng “sóng”ngôn từ, hình ảnh trong sáng bình dị, …

– Sóng là bài thơ in đậm dấu ấn tâm hồn người phụ nữ vừa đời thường, chắt chiu nhưng khát khao những gì tuyệt đích trong tình yêu.

   Đối với Xuân Quỳnh tình yêu là lẽ sống, là chân lí trong cuộc đời. Thơ tình của bà giản dị, chân thành mà cũng vô cùng sâu sắc. Sóng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của bà. Người đọc không chỉ ấn tượng bởi ngôn từ dung dị, giàu cảm xúc mà còn xúc động bởi một trái tim yêu chân thành, đắm thắm và nguyện ước cống hiến đẹp đẽ, cao cả trong tình yêu.

    Bài thơ “Sóng” trước hết đặc sắc cách tác giả xây cặp hình tượng sóng – em vô cùng độc đáo, giữa sóng và em có những điểm tương đồng, giao thoa với nhau. Dùng sóng để nói về tình yêu, Xuân Quỳnh không phải là người đầu tiên, ta có thể kể đến Xuân Diệu với vần thơ yêu đương nồng cháy: “Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi/ Đã hôn rồi hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Anh mới thôi dào dạt”. Nhưng Xuân Quỳnh, bằng tài năng và phong cách riêng đã khiến cho hình tượng này mang những điểm khác biệt. Nếu thông thường sóng – động thường gắn liền với người con trai, thì trong thơ Xuân Quỳnh, sóng lại gắn với người con gái, nó cho thấy vẻ đẹp táo bạo, mạnh mẽ, hiện đại ở người phụ nữ.

    Mở đầu bài thơ, là những nhận thức, khám phá của em về chính bản thân: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ/ Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”. Hai câu thơ đầu tác giả khai thác triệt để hiệu quả nghệ thuật đối, giữa cái ồn ào, mãnh mẽ với cái dịu êm, lặng lẽ, giúp người đọc có thể hình dung thuộc tính tự nhiên của con sóng. Nhưng quan trọng hơn đó chính là ẩn dụ về tâm hồn của một người con gái đang yêu, thế giới tình yêu vô cùng phức tạp, bí ẩn với nhiều cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau. Từ việc nhận thức về bản thân mình, và tình yêu là vô cùng phức tạp, đã khiến em có một khát vọng muốn truy nguyên, tìm hiểu tình yêu. Có thể thấy khát vọng của nhân vật trữ tình là vô cùng lớn lao, mạnh mẽ bởi dám rời bỏ cái quen thuộc, để tìm cái rộng lớn mênh mông, đầy bất trắc. Khát vọng lớn lao ấy xuất phát từ nhu cầu cắt nghĩa, lí giải thế giới đa chiều, phức tạp trong tình yêu.

    Đứng trước không gian biển cả rộng lớn, nhân vật trữ tình đi từ tình yêu bé nhỏ của mình để chiêm nghiệm tình yêu muôn đời. Tiếp tục là sự tương đồng giữa sóng và tình yêu: “Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”. Nếu như con sóng dù của ngày xưa, hay ngày sau, quá khứ hay hiện tại thì vẫn luôn ào ạt vỗ vào bờ thì tình yêu cũng vậy, các thế hệ sẽ nối tiếp yêu nhau bằng một tình yêu nồng nàn, tha thiết.

    Nhân vật trữ tình tiếp tục cắt nghĩa, lí giải về nguồn gốc của sóng và gió, đồng thời cũng là cắt nghĩa lí, giải về tình yêu:

    Trước muôn trùng sóng bể…

    Khi nào ta yêu nhau

    Trong hai khổ thơ tác giả đưa ra ba câu hỏi tu từ: Từ nơi nào sóng lên? Gió bắt đầu từ đâu? Và Khi nào ta yêu nhau? Những từ để hỏi: khi nào, nơi nào,… tạo nên giọng thơ suy tư, lí trí những lại bất lực khi tìm hiểu nguồn gốc của tình yêu, nhân vật trữ tình phải thú nhận một cách thành thực, đáng yêu về việc không thể đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “Khi nào ta yêu nhau”. Điều này, chính ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng đã từng thú nhận: “Làm sao cắt nghĩa nổi tình yêu”. Khổ thơ đã nói lên được quy luật tâm lí chung của tất cả những người đang yêu đó là luôn hào hứng tìm cách cắt nghĩa tình yêu của mình. Song cuối cùng đều phải thừa nhận tình yêu là thứ chỉ có thể tận hưởng chứ không thể lí giải.

    Bằng sự sóng đôi, hòa quyện giữa hai hình tượng sóng – em, nhân vật trữ tình đã cắt nghĩa, lí giải về chính mình và về tình yêu. Qua sự cắt nghĩa ấy cho ta thấy hình ảnh một cô gái mang trong mình tình yêu sôi nổi, khát vọng to lớn, mãnh liệt nhưng vẫn hết sức đằm thắm, dịu dàng.

    Sang đến khổ thơ thứ năm và thứ sáu Xuân Quỳnh tập trung làm rõ những cung bậc cảm xúc quan trọng nhất và cũng mãnh liệt nhất trong tình yêu đó chính là nỗi nhớ. Để thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, Xuân Quỳnh cũng mượn quy luật chung của sóng, sóng ở đây đã nhân hóa thành một cô gái có tình yêu mãnh liệt với bờ. Nỗi nhớ của sóng được trải dài ra cả hai trục không gian và thời gian. Trên trục không gian, con sóng trên mặt nước dào dạt, ồn ào, dưới lòng sâu lại đau đáu, khắc khoải. Trên trục thời gian nỗi nhớ trải dài cả ngày và đêm. Nỗi nhớ của sóng đã diễn tả đầy đủ tình yêu nồng nàn, cháy bỏng của người con gái đang yêu. Và dường như nỗi nhớ ấy vẫn là chưa đủ, để tác giả nhận mạnh thêm: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ của em vừa có sự tương đồng, vượt lên trên nỗi nhớ của sóng. Nỗi nhớ của sóng mãnh liệt những vẫn có giới hạn, còn nỗi nhớ của em vượt qua mọi giới hạn của lí trí, xâm chiếm cả tâm hồn em, cả vùng vô thức đó là trong những giấc mơ.

    Vượt qua sự ngượng ngùng, nhân vật trữ tình đã tự phơi trải nỗi nhớ mãnh liệt, ồn ào, để rồi sau đó lắng xuống trở về đúng với bản chất, cốt cách của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Xuân Quỳnh đã hoán đổi vị trí: xuôi về Bắc, ngược về Nam, để khẳng định, dù có biến động gì thì tình yêu và nỗi nhớ giành cho người mình yêu vẫn là vĩnh cửu.

    Ba khổ thơ cuối cùng là niềm tin, khát vọng tình yêu cao cả, mãnh liệt. Với đặc trưng phong cách của mình, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh gắn với sự lo âu, khắc khoải, khổ thơ thứ tám chính là mình chứng cho phong cách thơ của bà, giọng thơ trùng xuống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua/ Như biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa”. Nhà thơ khắc khoải, lo âu về cái hữu hạn, mong manh của kiếp người, tình yêu trước cái bao la của vũ trụ. Lo âu, khắc khoải song Xuân Quỳnh không hề bi quan, bà ý thức được sự ngắn ngủi của đời người, nên nâng niu, trân trọng từng khoảnh khắc của hiện tại để vĩnh cửu hóa nó, để được sống mãi trong tình yêu. Bởi vậy bà khao khát hóa thân thành những con sóng nhỏ, để trường tồn với tình yêu ngàn năm. Dọc chiều dài bài thơ, sóng là phương tiện để em thể hiện tình yêu, nỗi nhớ, để khổ thơ cuối sóng còn trở thành phương tiện để em bất tử hóa tình yêu.

    Với hình tượng nghệ thuật sóng đôi sóng – em đặc sắc, ngôn từ giản dị mà dạt dào cảm xúc, Xuân Quỳnh đã cho người đọc cảm nhận sâu sắc nhất về tình yêu, những cung bạc cảm xúc trong tình yêu đôi lứa. Tình yêu, đề tài muôn thuở của thi ca, nhưng với một cách riêng, một trái tim yêu chân thành, táo bạo mà cũng hết sức tha thiết, dịu dàng, Xuân Quỳnh đã nói lên tiếng lòng của biết bao cô gái khi yêu.

   Trong bài “Tương tư chiều” Xuân Diệu đã từng viết:

    Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh

    Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi

    Đó là những lời yêu tha thiết, nồng nàn của một chàng trai trước người con gái mình yêu. Thật táo bạo mạnh mẽ, mà cũng đầy chân thành, da diết. Nếu như nam nhân viết thơ tình ta nhớ đến Xuân Diệu, thì nữ nhân viết thơ tình không thể không nhắc đến Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh người phụ nữ của hạnh phúc đời thường, thơ bà viết dung dị, ngâp đầy cảm xúc. Sóng là một ví dụ điển hình về hồn thơ của bà.

    Viết về sóng, thuyền biển không chỉ đến Sóng của Xuân Quỳnh mới có, mà ta đa biết đến Xuân Diệu, hay chính bản thân bà đã có bài Thuyền và biển. Nhưng nếu như Thuyền và biển da diết, sâu lắng thì Sóng lại mang trong mình cái nồng nàn, mãnh liệt, của con người trẻ tuổi đang cuống quýt yêu đương, cuốn quýt bày tỏ:

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức.

    Tình yêu của tuổi trẻ đam mê cuồng nhiệt. Cũng như bao nhiêu người yêu nhau khác, họ luôn có một ham muốn truy nguyên nguồn gốc của tình yêu. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng vậy:

    Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ

    Sông không hiểu ổi mình

    Sóng tìm ra tận bể

    Hai câu thơ đầu đã nói lên hai trạng thái đối lập trong tình yêu, khi dữ dội ồn ào, khi lại dịu êm, lặng lẽ. Đó cũng chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh quả là một người phụ nữ tài tình khi biểu lộ tình cảm, cảm xúc của nhưng người đang yêu nhau. Đọc khổ thơ bất giác ta cũng phải không ngừng thổn thức trước những cung bậc cảm xúc ấy. Trong cuộc sống hay đặc biệt là tình yêu, ai mà chẳng có khao khát hiểu tường tận, kĩ lưỡng, nhưng “sông” cũng đành bất lực mà không hiểu, bởi vậy mang trong mình quyết tâm tìm ra tận bể đê truy nguyên nguồn gốc. Ý nghĩ thật táo bạo, thật độc đáo. Xưa nay có người con gái nào lại có những suy nghĩ và hành động như vậy. Qua đó cũng thể hiện được trái tim yêu cháy bỏng của nhân vật trữ tình.

   Sóng tìm nguồn gốc của tình yêu thật logic, bắt đầu truy tim từ nguồn gốc của song:

    Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau

    Nếu như quy luật của tình yêu thật dễ dàng để phân tích, lý giải, sóng được sinh ra từ gió. Thì quy luật của tình cảm lại là một câu đố không bao giờ có lời giải đáp. Chúng ta yêu một người mà chẳng thể lí giải vì sao lại yêu, chúng ta cũng chẳng lí giải được con tim kia rung động từ khi nào. Chỉ biết một ngày trái tim bỗng lạc nhịp vì một ai khác, ấy chính là lúc ta nhận ra mình yêu từ lúc nào không hay. Nhân vật trữ tình cũng buộc phải thừa nhận, không biết tình yêu đó bắt đầu từ lúc nào.

    Cả bài thơ là tình yêu nồng nàn, tha thiết, nó như trăm ngàn con sóng dội vào bờ, tình yêu vì thế mà cũng không ngừng dâng lên:

    Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức

    Trong câu thơ này, tình yêu như con ngọn sóng cao nhất, mạnh mẽ nhất, đây là khổ thơ duy nhất có đến sáu câu, cũng là khổ thơ thể hiện nỗi nhớ mãnh liệt nhất của nhân vật trữ tình. Dù là dưới đáy sông hay trên mặt nước, dù ngày hay đêm sóng vẫn luôn thao thức. Em cũng vậy, vẫn luôn nhớ về anh, thậm chí ngay cả miền vô thức tình yêu, nỗi nhớ vẫn dâng trào, cuộn sóng. Đọc câu thơ ta lại bất giác nhớ đến bài Thuyền và biển: “Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau rạn vỡ”. Ở bất cứ thời điểm nào, dường như tình yêu đối với Xuân Quỳnh vẫn luôn là lẽ sống, luôn da diết, cuộn trào.

    Nếu như đầu bài thơ tình yêu thơ dại, cuống quýt, nồng nhiệt, thì đến cuối bài thơ lại càng trở nên thâm trầm, sâu sắc hơn. Tình yêu của bà thủy chung, son sắt “Dẫu xuôi về phương bắc/ Dẫu ngược về phương Nam” vẫn luôn một lòng hướng về phương anh. Và để khẳng định hơn nữa tình yêu của mình hai khổ thơ cuối thể hiện ý chí quyết tâm, thể hiện nguyện ước chân thành của tác giả trong tình yêu:

    Ở ngoài kia đại dương…

    Để ngàn năm còn vỗ

    Dù cuộc đời còn nhiều chông gai, còn nhiều spsng gió nhưng sóng vẫn đến bờ, mây vẫn bay về xa cũng như tình yêu của em dành cho anh vẫn luôn vẹn tròn, thủy chung không bao giờ thay đổi. Kết thúc bài thơ là nguyện ước tha thiết được tan ra vào tình yêu lớn của đất trời, để ngàn năm sống trong tình yêu. Lời thơ trở nên mạnh mẽ, gấp gáp cũng như nhịp đập trái tim chân thành, mãnh liệt.

    Bài thơ được viết bằng thể thơ ngữ ngôn giàu nhịp điệp, hình ảnh biểu tượng giàu cảm xúc, ý nghĩa. Sóng là bài thơ bất hủ về tình yêu, về lẽ sống và những khát khao đẹp đẽ. Gấp lại trang thơ long người đọc vẫn không khỏi bùi ngùi, xúc động trước tình yêu chân thành và mãnh liệt đó.

Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ

Bài làm

I. Mở bài

– Tô Hoài rất nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của con người các vùng miền, tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc bởi vốn hiểu biết sâu sắc.

– Tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Đặc biệt, hình tượng nhân vật Mị đã trở thành biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.

II. Thân bài

– Sức sống tiềm tàng là sức sống vốn có của con người nhưng bị hoàn cảnh bên ngoài tác động làm che khuất đi, nhưng luôn thường trực, chờ cơ hội trỗi dậy.

1. Sức sống vốn có của Mị trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra

– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

    + Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cung hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”

    + Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.

    + Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

2. Sức sống tiềm tàng của Mị bị khuất lấp trong cảnh làm con dâu gạt nợ

– Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …

– Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng”.

– Mị sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khỏ Mị quen rồi”.

3. Sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy

– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.

– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

    + Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.

    + Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.

    + Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do, chấm dứt sự tù đày.

    + Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

– Trong đêm mùa đông, khi A Phủ bị trói:

    + Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.

    + Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.

    + Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ

    + Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.

– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

III. Kết bài

– Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.

– Nghệ thuật: ngôn ngữ đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Bài làm

    Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mạng, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mạng, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động ấy. Quá trình vận động từ khổ đau đến hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.

    Vợ chồng A Phủ ra đời khi Tô Hoài cùng đơn vị bộ đội tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời gian dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính chân thực.

    Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm không cảm xúc, không ngừng nghỉ từ sáng đến đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời gian, tái hiện lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và có tài năng. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị. Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn đến nguy cơ cô phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay lập tức Mị đã yêu cầu với cha không bán mình đi mà cô sẽ chăm chỉ làm việc để trả nợ dần. Mị hội tụ đầy đủ trong mình những yếu tố được hưởng một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tế trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ giây phút đó cuộc đời cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột đến tận xương tủy, công việc chất chồng khiến cô không có giờ phút nghỉ ngơi. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống khi bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt tinh thần. Nhưng không, bản chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hi vọng ấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái hiện đầy đủ qua hai lần: Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ.

    Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn đầu tiên của Mị. Có rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới tâm lí cô, khiến cô thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiên này. Trước hết là không khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên các triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với không khí mùa xuân đã phần nào tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng không khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng không phải để mừng một năm mới đến mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những cay đắng, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và tinh thần mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đến đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp đẽ. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của thiên nhiên, bên ngoài đến tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.

    Sau khi nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, khiến cho Mị bất ngờ quay vào buồng, dường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ đến khi nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ không thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc ấy, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị chặn đứng bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ không thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công.

    Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, tiếp tục cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khao khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may để ý đến A Phủ, nhưng đêm ấy lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm. Giọt nước mắt đó đã tác động mạnh mẽ đến cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc như vậy nhưng không một ai để ý. Giọt nước mắt ấy cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết” “người kia việc gì mà phải chết thế”. Cùng với lòng thương cảm là sự căm phẫn, khi Mị đã nhận ra sự độc ác của gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi tình trạng mơ hồ trong việc nhận thức kẻ thù, đây chính là bước đầu tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.

    Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “Ta là phận đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” chính vì vậy đã đưa Mị đến một quyết định cao cả, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, nhưng lại hết sức logic, hợp lí, bởi đó là hành động của tình yêu thương, sẵn sàng hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành động mình vừa thực hiện. Sau cuộc nổi loại này, cô tiếp tục thực hiện cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình: “A Phủ cho tôi đi” “Ở đây thì chết mình” đầy bản lĩnh và chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ không đơn thuần chỉ là sự giao tiếp mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Hai con người khốn khổ ấy đã cùng nhau bỏ trốn để xây dựng một cuộc sống mới, cuộc sống tự do, hạnh phúc.

    Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị – một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.

    Bằng ngòi bút tinh vi, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời thể hiện niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tươi sáng cho những con người có số phận bất hạnh.

Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ

Bài làm

   Sau cách mạng tháng 8, ngòi bút của Tô Hoài đi sâu khám phá sức sống mạnh mẽ của những người dân tộc thiểu số miền núi. Trong chuyến đi lên vùng núi phía Bắc của mình, ông đã cho ra đời tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, mang trong mình sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

   Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như bao người con gái khác, chịu thương chịu khó, có một sức sống mạnh mẽ. Mặc dù gia đình gánh trên vai món nợ truyền kiếp, nhưng cô sẵn sang nói với cha để minh lao động rồi trả nợ dần; cô trẻ trung, yêu đời, có tiếng sao hay khiến biết bao chàng trai say đắm. Nhưng sau đêm bị A Sử bắt về, “Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” thì cuộc đời của cô đã sang một trang khác, đầy bi thương và thảm kịch.

   Những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phải chịu bao nỗi đắng cay, tủi cực. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Quanh năm cô quanh quẩn làm việc, chẳng có lấy một giây phút nghỉ ngơi. Nơi ở của cô chẳng khác nào nhà tù, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.

   Phải chăng sức sống, sự yêu đời của cô trước đây đã bị bào mòn cạn kiệt? Nhưng không qua đêm tình mùa xuân và đêm đông tự giải cứu chính mình, ta biết rằng trong sâu thẳm người con gái kia, niềm yêu cuộc sống vẫn tiềm tàng mạnh mẽ.

   Trong những ngày mùa xuân, không khí rộn vang, tưng bừng hơn. Những tảng đá mèo được tô điểm bởi những chiếc váy rực rỡ, tựa như những bông hoa rộ nở; tiếng trẻ em vui đùa càng trở nên vui vẻ, đầy phấn khích. Lòng Mị cũng chợt có những tía sáng nhỏ le lói. Mùa xuân ai cũng uống rượu và Mị cũng vậy. Nhưng cách uống rượu của Mị lại rất khác, cô uống ừng ực từng bát lớn, uống để tiêu tan sầu muộn. Dường như trong mờ hồ Mị bắt đầu sống lại niềm yêu cuộc sống. Rồi bất chợt “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sau vọng lại tha thiết, bòi hồi”. Tiếng sáo này đã thực sự khơi lại sức sống trong Mị. Nó khiến Mị nhớ lại những ngày trước đây, về những ngày tự do, yêu đời cả mình. Tiếng sáo thấm dần vào tâm trí, trái tim Mị, dần thức tỉnh cô.

   Tiếng sao thức tỉnh khao khát được đi chơi, được giao tiếp với mọi người. Từ trước đến nay Mị chưa bao giờ được đi chơi, bởi A Sử cấm. Một cách đầy hữu ý tiếng sáo lại xuất hiện “trong đầu Mị rập rời tiếng sáo” đã thúc đẩy từ suy nghĩ trở thành hành động nổi loạn của Mị. Mị vào buồng sẵn mỡ thắp cho sáng, rồi với tay lấy vát chuẩn bị đi chơi. Để Mị có thể rời xa hiện tại đau thương trở về với quá khứ vui vẻ. Nhưng khi hành động chuẩn bị được tiến hành, Mị bị A Sử bắt gặp, hắn dùng chính tóc cô mà trói đứng lại ở tường. Cô khóc, bởi không ai giúp mình, bởi quá khứ tươi đẹp một lần nữa ùa về trong cô, đánh thức con người tưởng như đã chết trong cô

   Sau lần phản kháng đầu tiên, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái sống mòn. Trong lúc này, A Phủ một người cũng có thân phận chuộc nợ như Mị, do làm mất bò mà bị trói đứng ngoài sân. Đêm nào Mị cũng ra sân đốt lửa, nhưng tuyệt nhiên không chú ý đến A Phủ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi khi này lòng Mị đã nguội lạnh, tâm can đã câm nín, chính số phận mình Mị đã chẳng còn quan tâm nữa, huống chi số phận người khác.

   Nhưng trong lần ấy, dưới sự tác động của giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã thay đổi suy nghĩ hoàn toàn: “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt đó khiến cô bất giác nhớ về mùa xuân trước đây, khi cô bị trói đứng, cô khóc nhưng không ai đến giúp cô cả, cũng không thể lau đi được. Giọt nước mắt của A Phủ đã làm trỗi dậy sức sống của Mị. Trong Mị hình thành tình thương và sự hi sinh: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Mị đã quyết định giải cứu A Phủ. Đây không phải là quyết định bông bột nhất thời mà nó xuất phát từ sự đồng cảm, từ lòng yêu thương con người.

   Sau khi giải cứu A Phủ, trong một khoảng khắc Mị cũng vụt chạy theo A Phủ để giải cứu cho chính mình. Hành động cởi trói tư tưởng giải cứu chính mình là hành động tuy bất ngờ nhưng vô cùng hợp lí. Nó cho thấy sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ trong Mị.

   Với biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã đem đến cho bạn đọc chân dung của một người con gái không chỉ đẹp người, đẹp nết mà còn có sức sống tiềm tang mạnh mẽ. Mị là đại diện tiêu biểu cho sức sống của con người, là đại diện cho hành trình đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến hạnh phúc của những người nông dân dân tộc tiểu số.

Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

I. Mở bài

– Tô Hoài rất nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của con người các vùng miền, tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc bởi vốn hiểu biết sâu sắc.

– Tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Đặc biệt, hình tượng nhân vật Mị đã trở thành biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.

II. Thân bài

– Sức sống tiềm tàng là sức sống vốn có của con người nhưng bị hoàn cảnh bên ngoài tác động làm che khuất đi, nhưng luôn thường trực, chờ cơ hội trỗi dậy.

1. Sức sống vốn có của Mị trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra

– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

    + Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cung hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”

    + Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.

    + Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

2. Sức sống tiềm tàng của Mị bị khuất lấp trong cảnh làm con dâu gạt nợ

– Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …

– Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng”.

– Mị sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khỏ Mị quen rồi”.

3. Sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy

– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.

– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

    + Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.

    + Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.

    + Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do, chấm dứt sự tù đày.

    + Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

– Trong đêm mùa đông, khi A Phủ bị trói:

    + Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.

    + Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.

    + Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ

    + Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.

– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

III. Kết bài

– Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.

– Nghệ thuật: ngôn ngữ đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.

– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

    Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mạng, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mạng, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động ấy. Quá trình vận động từ khổ đau đến hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.

    Vợ chồng A Phủ ra đời khi Tô Hoài cùng đơn vị bộ đội tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời gian dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính chân thực.

    Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm không cảm xúc, không ngừng nghỉ từ sáng đến đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời gian, tái hiện lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và có tài năng. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị. Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn đến nguy cơ cô phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay lập tức Mị đã yêu cầu với cha không bán mình đi mà cô sẽ chăm chỉ làm việc để trả nợ dần. Mị hội tụ đầy đủ trong mình những yếu tố được hưởng một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tế trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ. Chính từ giây phút đó cuộc đời cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột đến tận xương tủy, công việc chất chồng khiến cô không có giờ phút nghỉ ngơi. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống khi bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt tinh thần. Nhưng không, bản chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hi vọng ấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái hiện đầy đủ qua hai lần: Đêm tình mùa xuân và Đêm đông cứu A Phủ.

    Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn đầu tiên của Mị. Có rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới tâm lí cô, khiến cô thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiên này. Trước hết là không khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên các triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với không khí mùa xuân đã phần nào tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng không khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng không phải để mừng một năm mới đến mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những cay đắng, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và tinh thần mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ. Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đến đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp đẽ. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của thiên nhiên, bên ngoài đến tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.

    Sau khi nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, khiến cho Mị bất ngờ quay vào buồng, dường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ đến khi nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại. Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ không thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc ấy, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị đi chơi. Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị chặn đứng bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ không thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công.

    Sau cuộc nổi loạn không thành ở đêm tình mùa xuân, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái tê liệt, tiếp tục cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Nhưng với sự xuất hiện của A Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã thức tỉnh trong Mị tình yêu thương và khao khao sống. Hằng đêm Mị vẫn ra bếp lửa hong tay, cô chẳng mảy may để ý đến A Phủ, nhưng đêm ấy lại là một đêm rất khác, cô nhìn thấy giọt nước mắt lăn dài trên hốc mắt sâu hoắm. Giọt nước mắt đó đã tác động mạnh mẽ đến cô, để Mị nhớ rằng trước đây mình cũng từng bị trói đứng, cũng từng khóc như vậy nhưng không một ai để ý. Giọt nước mắt ấy cũng dấy lên trong cô lòng thương cảm, xót xa “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết” “người kia việc gì mà phải chết thế”. Cùng với lòng thương cảm là sự căm phẫn, khi Mị đã nhận ra sự độc ác của gia đình thống lí. Mị đã thoát khỏi tình trạng mơ hồ trong việc nhận thức kẻ thù, đây chính là bước đầu tiên nhóm lên trong Mị ý thức phản kháng, vùng lên đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.

    Bằng sự bao dung, vị tha, Mị tự thấy “Ta là phận đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” chính vì vậy đã đưa Mị đến một quyết định cao cả, Mị lấy dao cởi trói cho A Phủ. Hành động diễn ra nhanh chóng, nhưng lại hết sức logic, hợp lí, bởi đó là hành động của tình yêu thương, sẵn sàng hi sinh cho người khác. Cứu A Phủ xong, Tô Hoài rất tinh tế khi miêu tả Mị đứng lặng trong bóng tối vì những hành động mình vừa thực hiện. Sau cuộc nổi loại này, cô tiếp tục thực hiện cuộc nổi loại thứ hai để tự cứu chính mình: “A Phủ cho tôi đi” “Ở đây thì chết mình” đầy bản lĩnh và chủ động, Mị đã tự cứu lấy chính mình. Tiếng gọi của Mị với A Phủ không đơn thuần chỉ là sự giao tiếp mà còn là tiếng gọi của tự do, tiếng gọi của hạnh phúc. Hai con người khốn khổ ấy đã cùng nhau bỏ trốn để xây dựng một cuộc sống mới, cuộc sống tự do, hạnh phúc.

    Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị – một con người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn.

    Bằng ngòi bút tinh vi, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời thể hiện niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tươi sáng cho những con người có số phận bất hạnh.

   Sau cách mạng tháng 8, ngòi bút của Tô Hoài đi sâu khám phá sức sống mạnh mẽ của những người dân tộc thiểu số miền núi. Trong chuyến đi lên vùng núi phía Bắc của mình, ông đã cho ra đời tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, mang trong mình sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

    Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như bao người con gái khác, chịu thương chịu khó, có một sức sống mạnh mẽ. Mặc dù gia đình gánh trên vai món nợ truyền kiếp, nhưng cô sẵn sang nói với cha để minh lao động rồi trả nợ dần; cô trẻ trung, yêu đời, có tiếng sao hay khiến biết bao chàng trai say đắm. Nhưng sau đêm bị A Sử bắt về, “Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” thì cuộc đời của cô đã sang một trang khác, đầy bi thương và thảm kịch.

    Những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phải chịu bao nỗi đắng cay, tủi cực. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Quanh năm cô quanh quẩn làm việc, chẳng có lấy một giây phút nghỉ ngơi. Nơi ở của cô chẳng khác nào nhà tù, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.

    Phải chăng sức sống, sự yêu đời của cô trước đây đã bị bào mòn cạn kiệt? Nhưng không qua đêm tình mùa xuân và đêm đông tự giải cứu chính mình, ta biết rằng trong sâu thẳm người con gái kia, niềm yêu cuộc sống vẫn tiềm tàng mạnh mẽ.

    Trong những ngày mùa xuân, không khí rộn vang, tưng bừng hơn. Những tảng đá mèo được tô điểm bởi những chiếc váy rực rỡ, tựa như những bông hoa rộ nở; tiếng trẻ em vui đùa càng trở nên vui vẻ, đầy phấn khích. Lòng Mị cũng chợt có những tía sáng nhỏ le lói. Mùa xuân ai cũng uống rượu và Mị cũng vậy. Nhưng cách uống rượu của Mị lại rất khác, cô uống ừng ực từng bát lớn, uống để tiêu tan sầu muộn. Dường như trong mờ hồ Mị bắt đầu sống lại niềm yêu cuộc sống. Rồi bất chợt “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sau vọng lại tha thiết, bòi hồi”. Tiếng sáo này đã thực sự khơi lại sức sống trong Mị. Nó khiến Mị nhớ lại những ngày trước đây, về những ngày tự do, yêu đời cả mình. Tiếng sáo thấm dần vào tâm trí, trái tim Mị, dần thức tỉnh cô.

    Tiếng sao thức tỉnh khao khát được đi chơi, được giao tiếp với mọi người. Từ trước đến nay Mị chưa bao giờ được đi chơi, bởi A Sử cấm. Một cách đầy hữu ý tiếng sáo lại xuất hiện “trong đầu Mị rập rời tiếng sáo” đã thúc đẩy từ suy nghĩ trở thành hành động nổi loạn của Mị. Mị vào buồng sẵn mỡ thắp cho sáng, rồi với tay lấy vát chuẩn bị đi chơi. Để Mị có thể rời xa hiện tại đau thương trở về với quá khứ vui vẻ. Nhưng khi hành động chuẩn bị được tiến hành, Mị bị A Sử bắt gặp, hắn dùng chính tóc cô mà trói đứng lại ở tường. Cô khóc, bởi không ai giúp mình, bởi quá khứ tươi đẹp một lần nữa ùa về trong cô, đánh thức con người tưởng như đã chết trong cô

    Sau lần phản kháng đầu tiên, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái sống mòn. Trong lúc này, A Phủ một người cũng có thân phận chuộc nợ như Mị, do làm mất bò mà bị trói đứng ngoài sân. Đêm nào Mị cũng ra sân đốt lửa, nhưng tuyệt nhiên không chú ý đến A Phủ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi khi này lòng Mị đã nguội lạnh, tâm can đã câm nín, chính số phận mình Mị đã chẳng còn quan tâm nữa, huống chi số phận người khác.

    Nhưng trong lần ấy, dưới sự tác động của giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã thay đổi suy nghĩ hoàn toàn: “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt đó khiến cô bất giác nhớ về mùa xuân trước đây, khi cô bị trói đứng, cô khóc nhưng không ai đến giúp cô cả, cũng không thể lau đi được. Giọt nước mắt của A Phủ đã làm trỗi dậy sức sống của Mị. Trong Mị hình thành tình thương và sự hi sinh: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Mị đã quyết định giải cứu A Phủ. Đây không phải là quyết định bông bột nhất thời mà nó xuất phát từ sự đồng cảm, từ lòng yêu thương con người.

    Sau khi giải cứu A Phủ, trong một khoảng khắc Mị cũng vụt chạy theo A Phủ để giải cứu cho chính mình. Hành động cởi trói tư tưởng giải cứu chính mình là hành động tuy bất ngờ nhưng vô cùng hợp lí. Nó cho thấy sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ trong Mị.

    Với biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã đem đến cho bạn đọc chân dung của một người con gái không chỉ đẹp người, đẹp nết mà còn có sức sống tiềm tang mạnh mẽ. Mị là đại diện tiêu biểu cho sức sống của con người, là đại diện cho hành trình đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến hạnh phúc của những người nông dân dân tộc tiểu số.

Đề bài: Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết:

“Văn chương … có loại đáng nhớ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.

Bài làm

   Từ xa xưa, văn chương đã xuất hiện và phát triển song song với lịch sử xã hội loài người. Trong kho tàng văn học nhân loại, có biết bao nhiêu kiệt tác mà giá trị đã vượt qua giới hạn không gian, thời gian để trở thành bất hủ. Ấy thế nhưng rất nhiều thế hệ cầm bút vẫn không nguôi trăn trở về ý nghĩa và giá trị đích thực của văn chương.

   Đầu thế kỉ XX, trên văn đàn nước ta diễn ra những cuộc tranh luận gay gắt giữa các quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về văn chương, tiêu biểu là hai trường phái: Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh. Tuy nhiên, từ cuối thế kỉ XIX, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định: Văn chương… có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Nhận định đúng đắn này rất gần gũi với quan điểm: Mục đích tối thượng của văn học là phục vụ con người, phục vụ nhân sinh.

   Thế nào là loại văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương? Đó là loại văn chương chỉ chú trọng về mặt nghệ thuật, coi nghệ thuật là trên hết, thậm chí tôn sùng nghệ thuật như một tôn giáo kì bí. Người cầm bút chỉ lo trau chuốt cho vẻ đẹp hình thức của tác phẩm chứ không quan tâm tới nội dung tư tưởng có liên quan đến vận mệnh con người và trách nhiệm của nhà văn, nhà thơ đối với xã hội hay không. Những sáng tác như thế đều không chịu nổi thử thách nghiêm ngặt của thời gian và dư luận. Bài thơ vịnh Mùa thu sau đây của tác giả Ngô Chỉ Lan thế kỉ XV toàn là hình ảnh tượng trưng, ước lệ vay mượn từ thơ Đường, thơ Tống, như: gió vàng, bông nhạn, giống ngọc, rừng phong:

    Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,

    Lồ tổ bôn trời bóng nhạn thưa,

    Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,

    Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.

   Cho đến khi trào lưu Thơ mới xuất hiện và phát triển, làm chủ thi đàn Việt Nam vào những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ XX thì không ít thi sĩ vẫn quan niệm rằng văn chương chỉ là văn chương. Thế Lữ lúc đầu khẳng định mình chỉ tôn sùng Cái Đẹp:

    Tôi chỉ là một khách tình si

    Ham vẻ đẹp cỏ muôn hình, muôn thể

    Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ

    Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca

        (Cây đàn muôn điệu)

   Trong bài thơ trên, Thế Lữ cho rằng thi nhân, nghệ sĩ là những khách tình si ham mô Cái Đẹp. Thiên chức duy nhất và cao cả nhất của nghệ sĩ là đi tìm Cái Đẹp, phụng sự Cái Đẹp chứ không bận tâm đến những vấn đề thiết thực của con người và xã hội. Thi sĩ muốn được sống trên cõi tiên để xa lánh cuộc đời trần tục và coi đó là biểu hiện của thái độ thoát li thực tại. Thơ văn ấy tuy đẹp, tuy hay nhưng nó xa lạ với dân tộc đang phải sống đói khổ, tủi nhục dưới ách nô lệ của thực dân, phong kiến.

   Cực đoan hơn nữa, một vài nhà thơ, nhà văn theo quan niệm văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương đã phủ nhận nội dung tư tưởng và giá trị nhân sinh trong tác phẩm. Hoặc khẳng định thơ không cần phải có nội dung, ý nghĩa cụ thể mà thơ là nghệ thuật của âm thanh, hình ảnh; thậm chí chỉ là ảo thuật của ngôn từ mà thôi.

   Còn thế nào là văn chương chuyên chú ở con người? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết đến số phận con người và cuộc sống, luôn hướng tới mục đích phục vụ con người. Các nhà văn, nhà thơ theo quan điểm này cho rằng giá trị của văn chương là ở chỗ nó có ích cho cuộc đời nhiều hay ít, gần hay xa. Đây chính là quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Các tác phẩm thuộc trào lưu hiện thực và cách mạng, kể cả một số tác phẩm thuộc trào lưu lãng mạn có nội dung tích cực cũng được viết theo quan điểm đúng đắn này.

   Văn chương chân chính phải phục vụ con người, phải phản ánh được đời sống vật chất, tinh thần của con người với những niềm vui, nỗi đau muôn thuở. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định: Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học. Cách đây hơn một trăm năm, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nêu rõ chức năng của văn học và trách nhiệm xã hội của người cầm bút:

    Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,

    Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

   Đạo ở đây là nhân nghĩa, là yêu nước, thương dân. Văn chương là con thuyền chở đạo (đạo lí làm người) và ngòi bút là vũ khí sắc bén để trừ gian, diệt ác, cứu đời, cứu người.

   Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát triển và nâng cao ý nghĩa của quan niệm tích cực ấy trong bài cảm tưởng đọc Thiên gia thi:

    Nay ở trong thơ nên có thép,

    Nhà thơ cũng phải biết xung phong.

   Theo Bác thì văn chương phải là vũ khí chiến đấu để cải tạo, xây dựng xã hội và văn nghệ sĩ là người chiến sĩ đứng trong hàng ngũ cách mạng, cống hiến, hi sinh để bào vệ chủ quyền độc lập tự do của đất nước, hạnh phúc của nhân dân.

   Loại văn chương đáng thờ mà Nguyễn Văn Siêu nhắc tới chính là văn chương viết về con người, phục vụ con người. Ý kiến này của ông rút ra từ hiện thực nền văn học nước nhà nên hoàn toàn xác đáng. Có ý kiến cho rằng: Văn học không chỉ phải chân thực, sâu sắc, nhân đạo mà còn phải hay, phải đẹp. Vậy hai ý kiến này có mâu thuẫn với nhau chăng?

   Như trên đã nói, con người là trung tâm của cuộc sống mà văn chương lại là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nếu văn chương không đề cập tới con người thì nó sẽ không có giá trị; Mặt khác, giá trị nội dung và nghệ thuật của văn chương luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Nội dung chi phối và lựa chọn hình thức thể hiện. Do vậy mà không có nội dung thì cũng không thể có hình thức. Xét cho cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm chủ yếu là ở chỗ nó đã thể hiện nội dung tác phẩm như thế nào? Văn chương sáng tạo ra Cái Đẹp mà Cái Đẹp lại chính là sự sống. Không có Cái Đẹp thuần túy, trừu tượng chẳng liên quan gì đến cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Phản ánh con người chính là cách thức duy nhất để văn chương đến với Chân, Thiện, Mĩ của cuộc đời.

   Một tác phẩm có giá trị lâu dài nghĩa là phải vừa hay, vừa đẹp. Nhà văn sáng tạo ra nó phải thực sự có tài năng và tâm huyết. Cái tâm chính là tấm lòng là tình người, tình đời của người cầm bút. Cái tâm mới là gốc rễ bền vững làm nên mọi giá trị thực sự của văn chương chân chính.

   Lòng thương yêu, cảm phục người nông dân yêu nước giúp nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu dựng nên một tượng đài hùng tráng về người nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử văn học Việt Nam. Sự đau xót chân thành trước số phận bi thảm của con người lương thiện; thái độ bất bình, căm phẫn xã hội phong kiến thối nát, bất công là cơ sở để thi hào Nguyễn Du viết nên một Truyện Kiều bất hủ, bởi đó là tác phẩm chuyên chú ở con người. Những tác phẩm như Đời thừa, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt… và đặc biệt là Chí Phèo của Nam Cao là lời kêu cứu hãy bảo vệ con người, hãy chặn đứng bàn tay tội ác tha hóa con người. Phần tích cực, trong sáng của Thơ mới cũng được coi là tiếng nói trẻ trung, yêu đời tha thiết, yêu tiếng Việt sâu xa. Thế hệ trẻ sẽ không bao giờ quên thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư… Những tác phẩm như thế chính là loại văn chương đáng thờ vậy.

   Ý kiến trên đây của danh sĩ Nguyễn Văn Siêu tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật truyền thống của dân tộc ta. Chính với quan điểm văn chương chuyên chú ở con người mả ông cha ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và giàu chất nhân văn. Nền văn học ấy là cơ sở vững chắc cho sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của văn chương hiện đại.

Đề bài: Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?

Bài làm

   “Phong cách (…) cũng như màu sắc đối với người họa sĩ, không phải là một vấn đề về kỹ thuật mà là về cách nhìn. Nó là một phát lộ, vốn sẽ không thể có được bằng những phương tiện trực tiếp và hữu thức, về sự khác biệt về chất có trong cách mà thế giới hiện ra với mỗi chúng ta, sự khác biệt mà, nếu không có nghệ thuật, thì sẽ mãi là bí mật vĩnh hằng của mỗi con người”

   Nói cách khác, phong cách tác giả không đơn thuần là một vấn đề kỹ thuật hay chỉ là lớp vỏ ngoài trang trí cho tác phẩm văn chương mà nó là cách nhìn rất riêng của mỗi người về thế giới, phân biệt với cách nhìn của những người khác.

   Mỗi người sinh ra và lớn len đều có riêng trong mình một khí chất, năng lực và kinh nghiệm để có thể tiếp thu những cái tốt đẹp và loại trừ những cái xấu. Qua trình đó dần hình thành trong mỗi chúng ta một vốn cá tính đặc biệt mà ta hay gọi là phong cách. Xét trên bình diện này, Buy-phông – một nhà văn nổi tiếng của Pháp từng nói: “Phong cách chính là người”. Quả thật trong cùng một hoàn cảnh nhưng phong cách của mỗi người không hoàn toàn giống nhau, mà nó chính là bản thân người mang phong cách đó. Cùng suy ngẫm và chiêm nghiệm về câu nói của Buy-phông để mỗi chúng ta có thêm những hiều biết và dần định hình trong mình một phong cách riêng. Trong cuộc sống, người ta thường định hình phong cách theo hai nghĩa. Một là, phong cách nghệ thuật. Đó là phong cách của một nhà văn, nhà thơ, nhà kiến trúc… hoặc phong cách của một thời đại nào đó.

   Hai là, tác phong, tính cách của một người hay một lớp người nào đó trong xã hội được hình thành một cách tương đối ổn định, làm nên phong cách riêng của một người hay một lớp người đó.

   Phong cách tuy đa dạng như vậy nhưng nhìn chung khi nhắc đến phong cách ta vẫn thường nhắc đến dấu ấn cá nhân của sự vật. Ngoài ra một điểm chung của bất kì loại phong cách nào là cũng đều chịu tác động mạnh mẽ sâu sắc của môi trường sống. Đó là những tác động của truyền thống văn hoá, đạo đức, tâm lí nghề nghiệp. Nhìn từ bình diện văn học, phong cách cũng đa dạng nhưng không kém phần sâu sắc.

   Buy-phông đã rất tinh tế khi nhìn nhận “Phong cách chính là người”. Trong văn học, phong cách là yếu tố cấu thành tác phẩm không thể thiếu. Độc giả cũng như mọi nhà lý luận văn học mỗi khi nhìn nhận một tác phẩm, người ta thường hay chú ý đến hai phương diện quan trọng của phong cách văn học là: nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, phong cách là dấu ấn thể hiện cách nhìn nhận con người và cuộc sống, cách lí giải cuộc sống và con người… Về nghệ thuật, phong cách là cách lựa chọn những thủ pháp nghệ thuật, kết cấu ngôn từ, sử dụng ngôn ngữ… Một tác phẩm hay chỉ được đánh giá khi tạo ra được dấu ấn riêng, mang lại cho người đọc những lay chuyển xúc cảm nhẹ nhàng mà tinh tế. Chính vì vậy, dù trên bất cứ bất cứ bình diện nào, khi đánh giá tác phẩm hay con người, phong cách cũng vừa là tiêu chí quan trọng, vừa là nơi thể hiện cái tính cách cũng như tâm hồn trong tác giả. Xin một lấy một góc nhỏ của nền văn học Việt Nam để chứng minh và làm rõ hơn khi nhìn nhận “Phong cách chính là người”.

   Nhắc đến văn học Việt Nam, nhắc đến phong cách con người tôi dần mường tượt ra sợi dây lien kết giữa chúng. Nguyễn Đăng Mạnh trong “Nhà văn, tư tưởng và phong cách” đã gắn phong cách với cá tính nhà văn khi ông xác định: “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách”. Rồi sau đó, trong “Nhà văn Việt Nam hiện đại: chân dung và phong cách, ông lại một lần nữa coi phong cách “phụ thuộc vào những thói quen tâm lý và những sở trường riêng của nhà văn”. Từ đó, “dựng” nên phong cách nhà văn, như Nguyễn Tuân ngông, Quang Dũng tài hoa, tài tử, phong tình và lãng mạn, Nguyễn Đình Thi nhà thơ của đất nước tươi đẹp và hùng tráng đau thương, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính, đầy huyền thoại, cổ tích và chứa chan chất nhạc, chất thơ. Nguyên Ngọc là cây bút sử thi – lãng mạn, một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng đầy chất thơ… Rồi Đào Thái Tôn trong Thơ Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn vào thế tục, khi đi tìm một cơ sở để lựa chọn thơ nôm truyền tụng của nữ sĩ đã “dùng phong cách Lưu Hương ký để xác định phong cách “thơ nôm truyền tụng” của Hồ Xuân Hương”.

   Phong cách ở mỗi bình dịên đều đa dạng và sâu sắc. Văn học chỉ là một trong số những bình diện mà tôi muốn vay mượn nhằm đánh giá đúng và chính xác khi nhìn nhận con người. Tôi dần nhận ra câu nói của Buy-phông hết sức chập chờn. Bởi vì như tôi đã nói các định ngữ đã để định nghĩa chập chờn. Như tôi đã nói về một số phong cách như thơ Hồ Xuân Hương vui mà không buông tuồng, thơ Hoàng Cầm là linh hồn của quê hương Kinh Bắc cổ kính… có thể đóng vào con người Hồ Xuân Hương, con người Hoàng Cầm cũng được, mà vào thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hoàng Cầm cũng chẳng sao. Chính sự “nhập nhằng” này làm cho các định nghĩa trên không có giá trị khái niệm hóa đã đành, mà cả giá trị thao tác cũng không rõ rằng. Đó chính là sự chập chờn trong câu nói “Phong cách chính là người” của Buy-phông: Nó tạo cho những người đọc cho ta nhiều cách nhìn nhận riêng. Đó là sự tinh tế và óc sáng tạo khi nhìn nhận vấn đề của Buy-phông.

   Dĩ nhiên, không phải công trình nghệ thuật nào cũng có phong cách. Một tác phẩm chỉ có phong cách khi nó đạt được tính cấu trúc, tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể. Bởi vậy, chỉ cần biết một bộ phận là có thể suy ra cái toàn thể, như lý thuyết toàn đồ đã chứng minh. Chính vì phong cách là một phạm trù chất lượng, nên trong nghệ thuật có được phong cách là một hiện tượng rất quý. Và, vì thế, không phải tác giả nào cũng có phong cách, thể loại nào cũng có phong cách và thời đại nào cũng có phong cách.

   Chính từ đó, mỗi học sinh chúng ta, nhìn nhận từ câu nói của Buy-phông, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường cần tập riêng cho mình thói quen nhìn nhận và đánh giá mọi vấn đề trong cuộc sống một cách rõ ràng, tinh tế. Đồng thời cần không ngừng trau dồi vốn từ và sử dụng nó một cách linh hoạt. Đó chính là điều kiện dần cấn và đủ để ta đãn hình thành trong mình một phong cách nhỏ, nơi thể hiện cái tôi cá nhân của ta trong cuộc sống.

   “Phong cách chính là người”- Buy-phông đã cho ta một nhận định sâu sắc, một bài học khi ta bước vào cuộc sống. Riêng tôi, nỗ lực để tạo riêng cho mình một phong cách, một cá tính sx là động lực giúp tôi vượt qua mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống!

Đề bài: Anh (chị) hãy bày tỏ quan niệm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”.

Bài làm

   Từ trước tới nay, trên thế giới có rất nhiều ý kiến khác nhau bàn về cách đánh giá giá trị của một tác phẩm văn chương. Có người thì đề cao nghệ thuật, có người thì đề cao nội dung. La Bơ-ruy-e, nhà văn Pháp đã bày tỏ quan điểm của mình như sau: Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra.

   Xét về mặt ý nghĩa thì quan điểm trên gần giống với quan điểm của nhà văn hiện thực Nga nổi tiếng Mác-xim Gorơ-ki: Văn học là nhân học. La Bơ-ruy-e nhấn mạnh tới chức năng giáo dục của văn học. Văn học nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người. Văn chương có khả năng đặc biệt trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu của con người. Đặc điểm của văn học là thông qua các sự kiện, các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm để giáo dục cho con người tình cầm trong sáng, đạo lí làm người. Mặt khác, văn học giúp con người hoàn thiện nhân cách, nâng cao tình thần và gợi cho con người những tình cảm cao quý và can đảm.

   Văn học đến với con người bằng con đường tình cảm, cảm xúc. Mục đích trước tiên và quan trọng của văn học là giúp con người đối chiếu, liên tưởng, suy ngẫm về cuộc đời và về chính bản thân, nâng cao niềm tin vào bản thân để từ đó có nhận thức đúng đắn hơn, có khát vọng hướng tới chân lí, dám đấu tranh chống cái xấu, cái ác; biết tìm tòi và hướng tới cái Đẹp, cái Thiện của cuộc sống. Đó chính là văn học chân chính có khả năng cảm hóa, nhân đạo hóa, xứng đáng là bạn tốt của con người.

   Nhà văn La Bơ-ruy-e cũng bày tỏ ý kiến về cách đánh giá một tác phẩm văn chương và một nghệ sĩ chân chính. Theo ông, tác phẩm nào có ảnh hưởng lớn lao tới đời sống tinh thần của con người theo chiều hướng tích cực thì đó là một cuốn sách hay, đích thực là văn chương và người viết ra nó xứng đáng được gọi là nghệ sĩ.

   Hai nhà văn nổi tiếng của Việt Nam là Thạch Lam và Nam Cao cũng có quan điểm gần giống với La Bơ-ruy-e. Thạch Lam cho rằng: Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên ; trái lại, văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn. Còn Nam Cao đã thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa để bày tỏ quan điểm của mình về tác phẩm văn chương, về nhà văn chân chính. Là một nhà văn, Hộ từng ấp ủ một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương của mình. Anh mong ước sẽ sáng tạo ra những tác phẩm thật sự có giả trị, vượt lên tất cà bờ cõi và giới hạn. Quan điểm về văn chương của Hộ cũng hết sức tiến bộ : Một tác phẩm văn chương đích thực phải chứa đựng được một cải gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn. Nhà văn phải ỉà những người nghệ sĩ vừa có tâm vừa có tài, trong sáng tác phải tạo cho mình một phong cách riêng, một dấu ấn riêng không thể lẫn với bất cứ ai khác; vì: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có (Nam Cao).

   Chúng ta có thể lấy một số tác phẩm kinh điển của các nhà văn nổi tiếng thế giới để chứng minh và khẳng định ý kiến của La Bơ-ruy-e là đúng.

   Bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô là bài ca tuyệt vời về tình thương yêu con người, về đức vị tha, hi sinh đến quên mình. Nhân vật Giăng Van-giăng là “nhân vật tư tưởng” tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân đạo của nhà văn. Người thợ làm vườn nghèo khổ này vì thương đàn cháu mồ côi nheo nhóc, đói khát nên đã liều đập vỡ cửa kính tiệm bán bánh mì để lấy cắp một ổ bánh. Bị kết án khổ sai, Giăng Van-giăng mấy lần tìm cách vượt ngục nhưng không thành nên thời gian ngồi tù cứ kéo dài ra mãi. Sau khi được trả tự do, vì hoàn cảnh ngặt nghèo, Giăng Van-giăng lại phạm tội cướp đồng xu của một đứa trẻ và lấy cắp bộ đồ ăn bằng bạc của giám mục Mi-ri-en. Sự độ lượng và lòng bác ái của vị giám mục nhân từ đã cứu Giăng Van-giăng thoát vòng lao lí và nó tác động rất lớn tới tư tưởng, tình cảm của con người tội nghiệp này. Nó đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi cuộc sống và tính cách của Giăng Van-giăng.

   Trong tiểu thuyết ông già và biển cả của nhà văn Mĩ Hê-minh-uê, hình ảnh ông lão đánh cá đơn độc dũng cảm săn đuổi con cá lớn nhất đời mình là một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực. Tác phẩm này là một bài học thiết thực và bổ ích về khát vọng, ý chí và nghị lực của con người. Nhà văn đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt là chỉ có một mình giữa biển khơi bao la đầy bất trắc ; một mình săn đuổi, đánh bắt con cá kiếm khổng lồ và một mình đương đầu với đàn cá mập hung dữ để bảo vệ thành quả lao động, ông lão đánh cá Xan-ti-a-gô suốt đời làm lụng vất vả, cực nhọc nhưng không nguôi mơ ước một ngày nào đó sẽ đánh bắt được một con cá thật to để thỏa mãn ước mơ và khẳng định tài năng của mình. Trớ trêu thay, cho tới lúc ông đã quá già thì ước mơ này mới trở thành hiện thực. Suốt mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, ông lão mới phát hiện ra con cá kiếm khổng lồ, to hơn chiếc thuyền của ông. Cuộc chiến đấu gay go giữa người và cá kéo dài tưởng chừng quá sức chịu đựng của ông lão, nhưng ông lão không nản chí, vẫn đem hết sức lực để bắt bằng được con cá mà ông ao ước đã bao lâu. Thế nhưng đàn cá mập tham lam đã tấn công con cá kiếm. Mặc dù ông lão chống đỡ quyết liệt để xua đuổi đàn cá mập hung dữ nhưng đến lúc thuyền cập bến thì con cá kiếm chỉ còn là một bộ xương.

   Cốt truyện giản dị chỉ có vậy nhưng Hê-minh-uê đã viết nên một áng văn xuôi giản dị và trung thực về con người. Tuy không có âm hưởng anh hùng ca nhưng câu chuyện về ông lão đánh cá thực sự là bài ca ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn, kiên cường rất đáng khâm phục của người lao động. Tác phẩm còn chứa đựng một tầng nghĩa sâu xa hơn trong hình tượng con cá kiếm và ông già đánh cá. Vẻ đẹp kiêu hùng của con cá kiếm vùng vẫy tự do trên biển cả tượng trưng cho ước mơ và lí tưởng mà con người suốt đời khao khát và theo đuổi. Ông lão đánh cá với ý chí kiên cường tiêu biểu cho quyết tâm biến ước mơ thành hiện thực của con người. Tiểu thuyết ông già và biển cả với số trang khiêm tốn chì nhiều hơn một truyện vừa chút ít nhưng thực sự là một sáng tác mà nhà văn nào cũng ao ước viết được lấy một lần (Phôn-cơ-ne), bởi nó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc trên toàn thế giới và đem lại vinh quang cho tên tuổi Hê-minh-uê – một nghệ sĩ vĩ đại của nhân loại.

   Ý kiến của La Bơ-ruy-e đã góp phần khẳng định vai trò quan trọng của chức năng giáo dục trong văn chương và nêu lên cách đánh giá đúng đắn về – tài năng người nghệ sĩ. Văn chương đem lại cho con người những giá trị tinh thần cao quý, giúp con người hướng tới Chân, Thiện, Mĩ trong cuộc sống. Những tác phẩm văn học có giá trị nội dung, tư tưởng ; giá trị nghệ thuật cao sẽ vượt qua thử thách khắc nghiệt của dư luận, của thời gian, không gian để trở thành kiệt tác muôn đời của nhân loại. Đúng như La Bơ-ruy-e khẳng định: …đó là một cuốn sách hay và người viết ra nó xứng đáng là một nghệ sĩ đích thực.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 4 / 5. Số lượt đánh giá: 984

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống