Văn mẫu lớp 11 Học kì 1

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây

Đề bài: Đọc truyện Tấm Cám, anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay?

I. Mở bài

– Giới thiệu những nét khái quát về truyện Tấm Cám: Truyện cổ tích được nhiều thế hệ thiếu nhi Việt Nam ưa thích

– Đi vào giới thiệu bài học thiện – ác mà truyện đưa đến cho độc giả: Hơn cả nhằm mục đích giải trí, truyện cổ tích Tấm Cám còn cho ta những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa kẻ tốt và người xấu trong xã hội xưa và nay

II. Thân bài

1. Thế nào là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác?

– Thiện: tốt đẹp, hợp với đạo đức

– Ác: tính hay gây tai họa, đau khổ cho người khác

⇒ Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu là cuộc đấu tranh với những điều xấu, điều ác gây tai họa cho con người để hướng tới những điều tốt đẹp, hợp đạo đức

2. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong truyện Tấm – Cám

– Cuộc đấu tranh thiện – ác diến ra với hai mẹ con Cám đại diện cho cái xấu, cái ác:

    + Cám lười biếng nhưng muốn cướp phần thưởng là tấm lụa đào nên đã lừa Tấm lấy hết giỏ tép

    + Mẹ con Cám muốn diệt trừ người bạn duy nhất của Tấm: cá bống.

    + Mẹ con Cám không muốn cho Tấm đi xem hội, đã trộn thóc lẫn gạo, bắt Tấm nhặt riêng ra..

    + Mẹ con Cám đuổi cùng giết tận hòng chiếm đoạt vinh hoa phú quý, không cho Tấm con đường sống

– Tấm là đại diện cho “thiện”, đứng trước hành động của mẹ con Cám:

    + Ban đầu: Chỉ biết khóc

    + Bất bình trước những hành vi mẹ con Cám đã làm

    + Tấm có sự phát triển trong hành động, phản kháng, đấu tranh một cách mãnh liệt để giành và giữ lấy hạnh phúc thuộc về mình thông qua những lần hóa thân

    + Trước sự ngỡ ngàng và khát khao được xinh đẹp như chị, Tấm đã để Cám xuống hố, rội nước sôi cho trắng đẹp rồi chết

    + Dì ghẻ ăn mắm làm từ thịt con gái cũng kinh khiếp lăn ra chết.

⇒ Có ý kiến đồng tình, có ý kiến phản đối kết thúc này bởi nó mâu thuẫn với sự hiền lành, thùy mị của Tấm ⇒ khẳng định Tấm là nhân vật chức năng, thực hiện việc tiêu diệt tận gốc cái ác

3. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong xã hội xưa và nay

– Từ truyện Tấm Cám, có thể thấy, hiện và ác là hai hiện tượng luôn song hành trong xã hội, không khó để bắt gặp các cuộc đấu tranh thiện- ác trong xã hội xưa:

    + Chu Văn An vì bất bình, luôn mong muốn đấu tranh tới cùng cho những điều chân chính, những điều “thiện” mà đang sớ mong vua chém đầu 7 tên gian thần nhưng không thành bèn từ quan về quê sống cuộc đời thanh bạch

– Ngày nay, rất nhiều những tấm gương chiến sĩ đã hi sinh thời gian, công sức và thậm chí là tính mạng để bảo vệ điều thiện đấu tranh cho điều ác:

    + Gần đây nhất là hai hiệp sĩ đường phố của Sài Gòn đã hi sinh tính mạng trên con đường đấu tranh cho điều thiện, ngăn chặn điều ác

⇒ Những con người với cuộc đấu tranh không khoan nhượng vì điều thiện ấy xứng đáng được ngợi ca và trân trọng

4. Mục đích, ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu

– Tại sao lại cần có cuộc đấu tranh thiện- ác?

    + Lúc nào trong xã hội cũng luôn tồn tại hai điều này song song, thiện và ác là hai đối cực của nhau, nếu như xã hội toàn điều ác ⇒ con người rơi vào bi kịch, xã hội sẽ náo loạn

    + Ngược lại, nếu như xã hội ngập tràn những điều thiện ⇒ con người được sống, đón nhận những điều tốt đẹp, xã hội bình yên, con người phát triển

– Nhìn nhận thực tế dù một xã hội phát triển tới đâu thì đâu đó vẫn sẽ luôn tồn tại những điều xấu, điều ác, bới vậy cuộc đấu tranh thiện – ác là cuộc đấu tranh lâu dài

– Khẳng định dù cho cái xấu có mạnh đến đâu, điều ác có khủng khiếp như thế nào thì cuối cùng điều thiện vẫn sẽ luôn giành chiến thắng

III. Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề nghị luận: Câu chuyện Tấm Cám đã để lại những bàn luận trên nhiều khía cạnh khác nhau giữa thiện và ác

– Liên hệ bản thân: Mỗi người cần nhận thức được ý nghĩa của cuộc đấu tranh thiện – ác để không ngừng vươn tới những điều thiện, như thế mới mong có thể trở thành một người tốt

Đề bài: Đọc truyện Tấm Cám, anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay?

    Thiện, ác luôn là vấn đề muôn thuở trong cuộc sống con người. Và vấn đề này đã được đề cập đến rất nhiều trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là những truyện cổ tích. Trong những tác phẩm đó nổi bật hơn cả là cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa cái thiện và cái ác trong Tấm Cám. Đọc truyện xưa và ngẫm đến chuyện nay ta thấy rằng cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác vẫn đang từng ngày tiếp diễn, chưa đến hồi kết.

    Thiện và ác là hai phạm trù đối lập nhau. Thiện có thể hiểu là những hành động, lời nói hay ý nghĩa tốt đẹp được dung để phục vụ cộng đồng, xã hội, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người xung quanh. Ác có thể hiểu là những lời nói, hành động, suy nghĩ xấu gây nên những đau khổ hoặc tai họa cho người khác. Trong xã hội kẻ ác luôn là đối tượng bị tẩy chay, bị lên án. Thiện – ác là hai phạm trù đối lập nhau, nhưng luôn tồn tại song song với nhau. Đó là cuộc đấu tranh muôn đời, và trong cuộc đấu tranh đó con người luôn mang niềm tin chiến thắng tất yếu sẽ thuộc về cái thiện.

    Trong truyện cổ tích Tấm Cám ta thấy cuộc đấu tranh giữa thiện và ác được chia làm hai chặng rất rõ ràng, trong đó Tấm đại diện cho cái thiện, Cám và mẹ đại diện cho cái ác. Trong chặng đầu tiên, cô Tấm thảo hiền, lương thiện luôn hiện lên trong tư thế bị động. Cô phải làm việc quần quật cả ngày, không lúc nào được ngơi tay, trong khi đó Cám chỉ rong chơi, điểm trang không giúp đỡ cho Tấm. Không chỉ bị bóc lột về sức lao động, Tấm còn bị tước đoạt niềm vui tinh thần: mẹ Cám biết con gái bà chắc chắn đã lấy trộm giỏ tép về trước để nhận yếm đào, nhưng vẫn dung túng và trao phần thưởng lẽ ra phải thuộc về Tấm. Không chỉ vậy, bà ta còn nhẫn tâm giết chết cá bống, người bạn thân thiết của Tấm. Ngày đi xem hội, như bao cô gái khác, Tấm cũng mang trong mình niềm vui, sự háo hức được đi, nhưng mẹ Cám đã chặn đứng hi vọng của cô, mẹ Cám trộn thóc với đậu rồi bắt Tấm nhặt riêng từng loại. Những lần như vậy, Tấm chỉ biết bưng mặt khóc, đợi chờ sự xuất hiện của Bụt để giúp đỡ cô. Rõ ràng, ban đầu Tấm – cái thiện luôn lép vế, yếu đuối không hề phản kháng, chống cự lại cái ác. Có chăng cũng chỉ là những giọt nước mắt để cầu xin sự xuất hiện của thần linh. Cái ác áp đảo, ngày một làm cho cuộc sống của Tấm trở nên khổ sở, cùng cực hơn. Nhưng ở một góc độ nào đó có thể hiểu, nàng Tấm nhẫn nhục chịu đựng để mong một cuộc sống bình yên cho riêng mình. Nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng” cái ác hoành hành, tác oai tác quái, bởi vậy cái thiện đã phải vùng lên đấu tranh.

    Sang đến chặng thứ hai, Tấm không còn là một người con gái nhu mì, chịu đựng mà thay vào đó là một cô Tấm với sức phản kháng mạnh mẽ để giữ lấy hạnh phúc cho bản thân. Mụ dì ghẻ và Cám năm lần bảy lượt bức hại Tấm, tìm mọi cách để Tấm không thể hóa thân. Ngược lại với âm mưu thâm độc đó, cô Tấm vùng lên, hóa thân thành các sự vật khác nhau: chim vàng anh – cây xoan đào – khung cửi – quả thị. Đến đây Tấm không còn khóc lóc để chờ sự giúp đỡ của thần linh nữa mà vùng dậy đấu tranh bằng chính năng lực của mình, để bảo vệ hạnh phúc của bản thân. Trải qua những khó khăn, vô số lần bị hãm hại, cuối cùng cô Tấm đã trở lại ngôi vị hoàng hậu, còn mẹ con Cám bị trừng trị thích đáng. Đây là kết thúc hết sức hợp lí thể hiện quan điểm “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” của nhân dân ta.

    Không chỉ riêng ở truyện cổ tích Tấm Cám mà rất nhiều câu chuyện cổ tích khác cũng đều có kết thúc tương tự như vậy: Cây khế, Thạch Sanh,… Kết thúc có hậu ấy thể hiện mơ ước khát vọng ngàn đời của ông cha ta về công bằng, công lí trong xã hội. Đồng thời phản ánh quy luật tất yếu của cuộc sống cái thiện tất yếu sẽ chiến thắng cái ác.

    Nhìn truyện xưa, ta lại nghĩ về cái thiện và cái ác trong cuộc sống hiện nay. Nếu xưa, thiện và ác có thể phân ra giới tuyết rất rõ ràng, người thiện không thể là người ác và người ác vĩnh viễn cũng không thể là người thiện thì cuộc sống hiện tại ranh giới giữa thiện ác trở nên mong manh hơn. Ta đi trên xe buýt, ta nhìn thấy kẻ móc túi nhưng sợ hãi bị liên lụy, cho rằng người bị mất cũng không liên quan đến mình, ta mặc kệ, như vậy bản thân chúng ta đã vô tình tiếp tay cho cái ác có cơ hội hoành hành. Hay ta nhìn thấy bạn quay cóp trong giờ kiểm tra nhưng vì thương bạn, biết bạn chưa học bài nên ta bỏ qua. Tình thương ấy lại chính là liều thuốc độc giết chết nhân cách của bạn. Từ hành động nhỏ sẽ là cơ sở cho những việc xấu lớn. Nếu ta không ngăn chặn nó ngay, rễ ác mọc lan, khó mà có thể tiêu diệt tận gốc cái ác được. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong cuộc sống hiện đại càng trở nên khó khăn hơn, nguy hiểm hơn khi cái ác càng ngày càng trở nên tinh vi, với những thủ đoạn khó lường hơn. Nhưng dù có như vậy, cái thiện sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác, đây là niềm tin cũng là chân lí bất diệt của muôn thế hệ muôn đời.

    Để cho cái thiện luôn chiến thắng cái ác, để rễ ác không có cơ hội mọc lan thì tự chúng ta phải là những người bản lĩnh. Bản thân mỗi người cần sống lương thiện, sống có ích, giúp đỡ mọi người. Có đủ dũng khí, tự tin để vạch trần cái ác, ác xấu để chúng không có cơ hội lan truyền đến những người xung quanh.

    Con đường đấu tranh của cái thiện với cái ác là một hành trình đầy gian nan, thách thức, có những lúc cái thiện buộc phải nhường bước, bị cái ác lấn át. Nhưng đến cuối cùng nhất định cái thiện cái dành phần thắng, những con người lương thiện, thật thà sẽ được hưởng cuộc sống hạnh phúc, cái độc ác, giả dối sẽ bị trừng trị thích đáng.

Đề bài: Đọc truyện Tấm Cám anh chị có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay?

Để có thể trưởng thành ai trong mỗi chúng ta cũng phải trải qua những ngày thơ ấu con trẻ, chắc hẳn trong tháng ngày ấy đa phần các bạn nhỏ đều được nghe và thấm nhuần những câu truyện cổ tích từ ngày xửa ngày xưa.“Tấm Cám” là truyện cổ tích tiêu biểu và hấp dẫn được nhiều bạn nhỏ yêu thích. Tác phẩm thể hiện cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả về sự chiến thắng của cái thiện dù cho ở xã hội xưa hay ngày nay.

Câu chuyện mở ra cho chúng ta thấy mâu thuẫn nhiều mặt của xã hội Việt Nam xưa kia, cụ thể trong truyện là xung đột giữa dì ghẻ-con chồng mọi mâu thuẫn đều do dì ghẻ gây nên, mâu thuẫn con chung-con riêng là chủ yếu trong đó con chung là đầu mối cuộc chiến. Cuộc đời của Tấm là hành trình tìm kiếm hạnh phúc vô cùng gian nan, trải qua nhiều thử thách cô đã tìm thấy hạnh phúc của đời mình. Tấm là đại diện cho người tốt, cho cái thiện còn Cám và dì ghẻ đại diện cho người xấu, cái ác. Cuộc đấu tranh thiện ác, tốt xấu diễn ra cam go nhưng cuối cùng cái ác, cái xấu vẫn phải khuất phục trước cái thiện, cái đẹp. Đó là quy luật tồn tại. Dù ở trong xã hội nào thì chính nghĩa vẫn luôn thắng gian tà.

Tấm là một cô bé hiền lành ngoan ngoãn, mẹ mất sớm sống với dì ghẻ và em. Năm lần bảy lượt hết lần này đến lần khác mẹ con Cám luôn tìm cách hãm hại Tấm, khi cô được làm hoàng hậu họ cũng không buông tha gây ra cái chết cho nàng. Sau khi chết Tấm bốn lần hóa thân khi thành chim vàng anh lúc là cây xoan đào, khi thành khung cửi lúc là quả thị. Mỗi lần hóa thân của cô Tấm thể hiện niềm tin của người lao động vào cái thiện và mỗi lần Tấm gặp khó khăn đều có bụt xuất hiện minh chứng cho quan niệm “Ở hiền gặp lành”, hậu quả mà mẹ con Cám phải gánh chịu minh chứng cho thói đời “Ác giả ác báo”. Kết thúc chuyện là Tấm giết Cám, đặc trưng của truyện dân gian có tính truyền miệng nên có nhiều dị bản khác nhau. Có dị bản là Tấm khi được Cám hỏi: “Chị Tấm ơi, chị Tấm chị làm thế nào mà đẹp thế?” Tấm giúp Cám bằng cách sai người đào hố sâu, bảo Cám nhảy xuống và đổ nước sôi vào, Cám chết mụ dì ghẻ cũng chết theo. Có dị bản lại kể Cám chết trong hố nước sôi thì Tấm làm mắm gửi về cho mụ dì ghẻ ăn rồi mụ cũng chết khi biết sự thật. Có nhiều ý kiến cho rằng đoạn kết của truyện là quá dã man không phù hợp với truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam. Theo tôi ý kiến trên chưa hoàn toàn hợp lí, bởi có đi sâu tìm hiểu đặc trưng của truyện cổ tích thì mới hiểu được ý nghĩa sâu sắc của dân gian. Truyện cổ tích ra đời là một hình thức nghệ thuật lí giải cho các vấn đề xã hội, theo xu hướng bảo vệ bênh vực cho những nạn nhân của xã hội trước những thay đổi lớn lao của đời sống mà con người bị đẩy vào bi kịch, thể hiện cho ước mơ của nhân dân về sự công bằng và niềm tin vào cái thiện luôn chiến thắng cái ác. Tấm là hiện thân của cái thiện mẹ con Cám là đại diện cho cái ác. Tấm ra tay trừng phạt mẹ con Cám là cái thiện đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu. Điều đó là hoàn toàn hợp lí.

Trong xã hội ngày nay đạo lí đó vẫn luôn đúng đắn dù cho cái ác, cái xấu giờ đây được che đậy và ngụy trang bằng nhiều mánh khóe, thủ đoạn nhưng “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Ngay cả trong bộ máy lãnh đạo cấp cao của nhà nước vẫn có những người chưa tốt tham ô, tham nhũng gây hại cho nhân dân, đất nước. Vụ án của Đinh La Thăng_cựu Bí thư tỉnh ủy thành phố Hồ Chí Minh chắc hẳn chúng ta chưa thể quên, con người ấy một thời được nhân dân tung hô, ngợi ca nhưng rồi việc tham ô cũng bị đưa ra ánh sáng, bị trừng trị dưới pháp luật với 18 năm tù. Biết bao nhiêu vụ án giết người cướp của như Lê Văn Luyện, Nguyễn Hải Dương dù có giỏi mánh khóe để che đậy cũng không thể nào thoát khỏi lưới pháp luật và đạo đức. Những con người ấy xứng đáng bị lãnh án tù chung thân thậm chí là tử hình để trừng phạt tội ác cũng là để làm gương cho người khác và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước, sự công bằng của luật pháp.

Những ngày gần đây xôn xao dư luận với điểm thi của một số tỉnh tăng cao bất thường đặc biệt là vụ việc xảy ra ở tỉnh Hà Giang đang được đông đảo mọi người quan tâm. Cơ quan chức năng cho điều tra lại về việc chấm thi, rà soát điểm thi và đã được Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ GD-ĐT), khẳng định đã phát hiện sai phạm trong chấm thi ở Hà Giang. Những vụ việc tưởng chừng như được che đậy rất hoàn hảo nhưng cái xấu rồi cũng bị đưa ra ánh sáng và pháp luật trừng trị.

Trong cuộc sống thiện ác luôn song hành tồn tại cùng nhau đúng như câu nói của Trần Nhuận Minh:

    “Cái ác vỗ vai cái thiện

    Cả hai cùng cười đi về tương lai”

Như vậy qua câu chuyện Tấm Cám từ ngày xửa ngày xưa và những sự việc, những con người ở trong bóng tối được đưa ra ánh sáng, bị pháp luật trừng trị ở xã hội ngày nay minh chứng cho chân lí đạo đức ở đời cái ác luôn bị khuất phục trước cái thiện, chính nghĩa luôn chiến thắng phi nghĩa.

Người tốt đại diện cho cái thiện sẽ luôn có được hạnh phúc xứng đáng còn người ác làm việc xấu sớm muộn cũng bị gặp quả báo. Từ đó hình thành cho em suy nghĩ luôn phải cố gắng làm người tốt việc tốt để được sống một đời bình an, mong được đóng góp chút công sức nhỏ nhoi của mình vào công cuộc xây dựng một xã hội tốt đẹp.

Đề bài: Đọc truyện Tấm Cám, anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay.

   Từ xưa đến nay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt với kẻ xấu vô cùng gian nan, phức tạp. Đặc biệt, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong bản thân mỗi con người lại càng phức tạp, gian nan. Xong, kể cả trong xã hội xưa và nay, không phải lúc nào cái thiện cũng chiến thắng cái ác, chính vì vậy mà nhân dân xưa đã đưa những mơ ước, nguyện vọng, lý tưởng xã hội của mình thông qua chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiện vào những câu truyện cổ tích, tiểu biểu là câu truyện “Tấm Cám”.

   Từ khi con người hình thành tri thức, cái thiện và cái ác đã luôn cùng song hành với nhau trong xã hội. Cái thiện là tất cả những gì có vai trò tích cực, có tác động thuận lợi trong đời sống của con người và toàn xã hội. Cái ác là tất cả những gì gây trở ngại và có hại cho con người và xã hội. Cái thiện và cái ác là hai mặt đối lập nhau nhưng lại là một chỉnh thể.

   Bản chất mậu thuẫn và xung đột trong cậu chuyện “Tấm Cám” tập trung ở hai tuyến: Tấm và mẹ con Cám. Đầu Truyện mâu thuẫn và xung đột đầu tiên được đưa ra là mâu thuẫn và xung đột trong gia đình phụ quyền. Ý nghĩa xã hội được phản ánh rõ nhất qua cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa các lực lượng đối lập trong xã hội, xuất hiện muộn hơn.

   Sớm mồ côi cha mẹ, Tấm sống trong sự ghẻ lạnh của dì ghẻ và Cám. Hằng ngày, Tấm phải làm mọi công việc nhà: “phải làm việc lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, với bèo; đêm lại còn xay lúa mà không hết việc” chỉ để nhận lấy những trận đòn roi từ bà dì ghẻ. Còn Cám thì ” được ăn trắng mặt trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng”. Khác nhau nhưng chưa đến độ mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn giữa Tấm và Cám dần lộ ra khi Cám lừa chị trút hết tép vào giỏ rồi nhanh chạy về nhà để nhận cái yếm đỏ, còn Tấm thì “ngồi bưng mặt khóc” vì cảm thấy bất công. Kế đến, từ sự việc con cá bóng bị mẹ con Cám bắt ăn thịt, Tấm cũng “oà lên khóc” vì thấy bị thua thiệt, đến việc đi xem hội, Tấm không được sắm sửa quần áo đẹp đã đành, đằng này bà dì ghẻ còn cản trở Tấm bằng cách “bắt cô phải nhặt xong mớ gạo thóc đã được trộn lẫn với nhau”, cô Tấm lại một lần nữa “ngồi khóc một mình”. Rồi cả việc so sánh Cám như “chuông khánh”, còn Tấm là “mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”, “bĩu môi” khi thấy Tấm xuất hiện ở đám hội, “ngạc nhiên và hằn học” nhìn Tấm lên kiệu về cung. Tấm sung sướng bao nhiêu thì mẹ con Cám càng uất hận bấy nhiêu.Tất cả đã phần nào thể hiện được sự mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám, mâu thuẫn sau cao hơn mâu thuẫn trước, từ mâu thuẫn nhỏ đến mâu thuẫn gay gắt, không thể dung hoà. Và sự mâu thuẫn chỉ được giải quyết bẳng sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, không phải bằng con đường điều hoà mâu thuẫn.

   Sự ganh ghét như loài sau bọ đục khoét vào sâu trong tư tưởng biến thành ngọn lửa uất hận, khiến cho lương tâm và lý trí ngày cần thối rữa, cho đến khi sự tàn ác lấn áp tất cả. Gặp được dịp may hiếm có, Tấm về nhà giỗ cha. Mẹ com Cám lập kế giết chết Tấm hòng cướp đi hạnh phúc mà cô đang có.

   Truớc lúc chết, mỗi lần Tấm gặp khó khăn, dẫu cho có cảm thấy bất công, bị thua thiệt hay tủi phận, thì cô đều tỏ ra yếu đuối, chỉ biết khóc và nhờ vào sự phù trợ của ông Bụt. Bụt hiện ra, đền bù những thua thiệt, mất mát của Tấm và thường là sự đền bù to lớn, tốt đẹp hơn. Ở phuơng diện ý nghĩa xã hội, sự giúp đỡ của Bụt thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả dân gian, tức đa số nhân dân lao động đối với Tấm , cũng như đối với những người hiền lành, nghèo khổ và có phẩm chất tốt đẹp như Tấm. Mặt khác, có thể nói Bụt đóng vai trò tạo thêm sức mạnh cho Tấm để đi đến thắng lợi. Nhưng ông Bụt giúp Tấm được bao nhiêu thì lại bị cướp đi hết bấy nhiêu và cuối cùng cướp luôn cả mạng sống của Tấm mà ông Bụt cũng bó tay, bất lực. Có lẽ cô quá yếu đuối, yếu đuối đến mức không giữ nỗi hạnh phúc của mình, để cho người khác cướp mất. Nếu không muốn nói đó là sự nhu nhược ko dám nói lên tiếng nói cho riêng mình, một hiện tượng không những phổ biến trong xã hội PK xưa mà cả trong xã hội hiện nay. Trong cuộc sống, hạnh phúc thực sự chỉ có thể do bản thân mình tự đấu tranh tranh mà có, bởi ai ai cũng muốn hưởng hạnh phúc, mà cái hạnh phúc ấy thì lại quá ít ổi để có thể chia sẽ. Vậy tại sao cô không thể đứng dậy đấu tranh cho bản thân mình. Vì thế cho nên, ở giai đoạn hậu thân, Tấm phải tự mình đảm nhiệm phần việc mà ông Bụt đã không giúp và không thể giúp. Khi còn sống, Tấm hiền dịu, ngây thơ, nhân hậu bao nhiêu thì sau khi chết cô lại đáo để và quyết liệt bấy nhiêu (tiếng chim vàng anh, tiếng kếu của khung cửi và hành động trả thù mẹ con Cám cuối cùng chứng tỏ điều này).

   Phần mẹ con Cám, cái giá của việc cướp đi một sinh mạng là rất nặng nề, nặng đến mức… thậm chí có thể huỷ hoại chính mình. Một khi đã giết người vì lợi ích cá nhân mình, bọn họ đã tự đeo cho mình cái mặt mạ của quỷ dữ không bao có thể tháo bỏ, huống chi họ không những giết Tấm 1 lần, mà là nhiều lần chỉ nhầm bảo vệ cái hạnh phúc giả tạo mà họ đã cướp mất từ tay Tấm. Chính vì vậy họ phải gánh lấy cái giá nặng nề của kẻ giết người. Những kẻ thủ ác đã gặp báo ứng.

   Bất kể nơi nào cái thiện tồn tại thì ở đó mầm móng cái ác luôn rình rập. Chúng luôn tác động, bài trừ, gạt bỏ nhau nhưng lại là tiền đề tồn tại cho nhau. Không nơi nào tồn tại toàn những người tốt, và cũng sẽ chẵng có một xã hội với tất cả những công dân xấu cả. Cái tốt cái xấu đã và đang hiện hữu trong mỗi chúng ta, thật sai lầm khi chúng ta sống mà chỉ cố gắng làm điều tốt! Người tốt thật sự là người biết tự nhìn nhận ra những sai lầm của bản thân và tránh lập lại chúng. Hơn nữa, không có quan niện thiện, ác nào là vĩnh viễn đối với mọi thời đại, đúng với mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh cụ thể.

   Thử đặt trừơng hợp ngược lại, nếu mẹ con Cám là đại diện cho cái ác lại được sống hạnh phúc cùng nhà vua đến cuối đời thì sao? Lúc ấy bốn chữ “công bằng” và “hoà bình” là đều không thể có được trong xã hội này. Khi ấy trẻ con đến trường, cái mà chúng học được chỉ là lòng thù hận, sự ích kỷ và đố kỵ Thử tưởng tượng một ngày nọ bạn bước ra đường, vô tình bạn thấy một bà cô vấp ngã và tất cả mọi người chung quanh bạn vẫn dững dưng bước đi. Tưởng tượng sẽ ra sao khi bạn phải đến viện bảo tàng để đọc được cuốn tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của H.Way mà lúc này nó bị xem là tư tưởng phát-xit. Sẽ ra sao khi mà khắp nơi điều có trộm cướp, lừa gạt và những điều đó bị mọi người lờ đi, thờ ơ không đếm xỉa. Trái Đất này sẽ trở thành nơi lạnh nhất trong vũ trụ, vì bởi lẽ “nơi lạnh lẽo nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi sự lạnh nhạt bao trùm”.

   Và hãy thử tưởng tượng xã hội sẽ ra sao khi mà ở đó chỉ toàn là người tốt? Một ngày nọ, trên đường phố, chủ các chiếc xe đều nhường nhau chạy trước. Một chủ tiệm vàng trông thấy một người lao công đang thu gôm rác cực khổ, liền tặng cho ông ta mấy chỉ vàng. Ông chủ các công ty đứng ở cổng hỏi thăm từng nhân viên rồi tặng vài tháng lương cho những người có hoàng cảnh hơi túng thiếu. Ở các khu phố, người ta đến gọi cửa từng nhà tặng sách giáo khoa trong khi trên Tivi đang đưa tin sách đang lên giá.

   Liệu những sự giúp đỡ ấy có thật sự cần thiết không? Người xưa có câu: “Có gian nan mới thử sức người” . Những sự giúp đỡ không đúng lúc ấy không những không giúp ích gì nhiều mà ngược lại còn tập cho họ thối ỷ lại vào người khác, không tự cố gắng. Một xã hội như vậy sẽ ngày một lạc hậu, không thể tiến bộ, phát triển được. Cái ác là cái đáng ghê tởm cần gạt ra khỏi đời sống cá nhân và xã hội. Tuy nhiên cái ác không phải là cái đối lập tuyệt đối của cái thiền. Chúng có sự thống nhất giữa các mặt đối lập.

   Ranh giới thiện ác chỉ cách nhau một sợi chỉ nhỏ. Trong học tập của học sinh, cuộc đấu tranh chống những biểu hiện của cái xấu cái ác như: lười biếng, dối trá và gian lận,… cũng rất khó khăn, phức tạp. Chính vì vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải chăm lo rèn luyện đạo đức, có ý thức quan tâm đến những người xung quanh, đấu tranh chốn glại cái ác. Không ngừng học tập để nâng cao trình độ văn hoá, tiếp thu công KH và CN hiện đại nâng cao về nhận thức, về chính trị xạ hội. Tích cực lao động cần cù sáng tạo. Sẵn sàng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.

   Qua câu truyện “Tấm Cám”, ta thấy được cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay, cái ác có thể mạnh nhưng không thể tồn tại vĩnh viễn, cái thiện có thể yếu nhưng vẫn luôn tồn tại để đấu tranh chống lại cái ác. Và như thể là một chân lý, người ở hiền thì sẽ gặp lành và kẻ gieo gió ắt cũng có ngày gặp bão.

Đề bài: Đọc truyện Tấm Cám, anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay?

I. Mở bài

– Giới thiệu những nét khái quát về truyện Tấm Cám: Truyện cổ tích được nhiều thế hệ thiếu nhi Việt Nam ưa thích

– Đi vào giới thiệu bài học thiện – ác mà truyện đưa đến cho độc giả: Hơn cả nhằm mục đích giải trí, truyện cổ tích Tấm Cám còn cho ta những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa kẻ tốt và người xấu trong xã hội xưa và nay

II. Thân bài

1. Thế nào là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác?

– Thiện: tốt đẹp, hợp với đạo đức

– Ác: tính hay gây tai họa, đau khổ cho người khác

⇒ Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu là cuộc đấu tranh với những điều xấu, điều ác gây tai họa cho con người để hướng tới những điều tốt đẹp, hợp đạo đức

2. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong truyện Tấm – Cám

– Cuộc đấu tranh thiện – ác diến ra với hai mẹ con Cám đại diện cho cái xấu, cái ác:

    + Cám lười biếng nhưng muốn cướp phần thưởng là tấm lụa đào nên đã lừa Tấm lấy hết giỏ tép

    + Mẹ con Cám muốn diệt trừ người bạn duy nhất của Tấm: cá bống.

    + Mẹ con Cám không muốn cho Tấm đi xem hội, đã trộn thóc lẫn gạo, bắt Tấm nhặt riêng ra..

    + Mẹ con Cám đuổi cùng giết tận hòng chiếm đoạt vinh hoa phú quý, không cho Tấm con đường sống

– Tấm là đại diện cho “thiện”, đứng trước hành động của mẹ con Cám:

    + Ban đầu: Chỉ biết khóc

    + Bất bình trước những hành vi mẹ con Cám đã làm

    + Tấm có sự phát triển trong hành động, phản kháng, đấu tranh một cách mãnh liệt để giành và giữ lấy hạnh phúc thuộc về mình thông qua những lần hóa thân

    + Trước sự ngỡ ngàng và khát khao được xinh đẹp như chị, Tấm đã để Cám xuống hố, rội nước sôi cho trắng đẹp rồi chết

    + Dì ghẻ ăn mắm làm từ thịt con gái cũng kinh khiếp lăn ra chết.

⇒ Có ý kiến đồng tình, có ý kiến phản đối kết thúc này bởi nó mâu thuẫn với sự hiền lành, thùy mị của Tấm ⇒ khẳng định Tấm là nhân vật chức năng, thực hiện việc tiêu diệt tận gốc cái ác

3. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong xã hội xưa và nay

– Từ truyện Tấm Cám, có thể thấy, hiện và ác là hai hiện tượng luôn song hành trong xã hội, không khó để bắt gặp các cuộc đấu tranh thiện- ác trong xã hội xưa:

    + Chu Văn An vì bất bình, luôn mong muốn đấu tranh tới cùng cho những điều chân chính, những điều “thiện” mà đang sớ mong vua chém đầu 7 tên gian thần nhưng không thành bèn từ quan về quê sống cuộc đời thanh bạch

– Ngày nay, rất nhiều những tấm gương chiến sĩ đã hi sinh thời gian, công sức và thậm chí là tính mạng để bảo vệ điều thiện đấu tranh cho điều ác:

    + Gần đây nhất là hai hiệp sĩ đường phố của Sài Gòn đã hi sinh tính mạng trên con đường đấu tranh cho điều thiện, ngăn chặn điều ác

⇒ Những con người với cuộc đấu tranh không khoan nhượng vì điều thiện ấy xứng đáng được ngợi ca và trân trọng

4. Mục đích, ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu

– Tại sao lại cần có cuộc đấu tranh thiện- ác?

    + Lúc nào trong xã hội cũng luôn tồn tại hai điều này song song, thiện và ác là hai đối cực của nhau, nếu như xã hội toàn điều ác ⇒ con người rơi vào bi kịch, xã hội sẽ náo loạn

    + Ngược lại, nếu như xã hội ngập tràn những điều thiện ⇒ con người được sống, đón nhận những điều tốt đẹp, xã hội bình yên, con người phát triển

– Nhìn nhận thực tế dù một xã hội phát triển tới đâu thì đâu đó vẫn sẽ luôn tồn tại những điều xấu, điều ác, bới vậy cuộc đấu tranh thiện – ác là cuộc đấu tranh lâu dài

– Khẳng định dù cho cái xấu có mạnh đến đâu, điều ác có khủng khiếp như thế nào thì cuối cùng điều thiện vẫn sẽ luôn giành chiến thắng

III. Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề nghị luận: Câu chuyện Tấm Cám đã để lại những bàn luận trên nhiều khía cạnh khác nhau giữa thiện và ác

– Liên hệ bản thân: Mỗi người cần nhận thức được ý nghĩa của cuộc đấu tranh thiện – ác để không ngừng vươn tới những điều thiện, như thế mới mong có thể trở thành một người tốt

    Thiện, ác luôn là vấn đề muôn thuở trong cuộc sống con người. Và vấn đề này đã được đề cập đến rất nhiều trong các tác phẩm văn học, đặc biệt là những truyện cổ tích. Trong những tác phẩm đó nổi bật hơn cả là cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa cái thiện và cái ác trong Tấm Cám. Đọc truyện xưa và ngẫm đến chuyện nay ta thấy rằng cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác vẫn đang từng ngày tiếp diễn, chưa đến hồi kết.

    Thiện và ác là hai phạm trù đối lập nhau. Thiện có thể hiểu là những hành động, lời nói hay ý nghĩa tốt đẹp được dung để phục vụ cộng đồng, xã hội, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người xung quanh. Ác có thể hiểu là những lời nói, hành động, suy nghĩ xấu gây nên những đau khổ hoặc tai họa cho người khác. Trong xã hội kẻ ác luôn là đối tượng bị tẩy chay, bị lên án. Thiện – ác là hai phạm trù đối lập nhau, nhưng luôn tồn tại song song với nhau. Đó là cuộc đấu tranh muôn đời, và trong cuộc đấu tranh đó con người luôn mang niềm tin chiến thắng tất yếu sẽ thuộc về cái thiện.

    Trong truyện cổ tích Tấm Cám ta thấy cuộc đấu tranh giữa thiện và ác được chia làm hai chặng rất rõ ràng, trong đó Tấm đại diện cho cái thiện, Cám và mẹ đại diện cho cái ác. Trong chặng đầu tiên, cô Tấm thảo hiền, lương thiện luôn hiện lên trong tư thế bị động. Cô phải làm việc quần quật cả ngày, không lúc nào được ngơi tay, trong khi đó Cám chỉ rong chơi, điểm trang không giúp đỡ cho Tấm. Không chỉ bị bóc lột về sức lao động, Tấm còn bị tước đoạt niềm vui tinh thần: mẹ Cám biết con gái bà chắc chắn đã lấy trộm giỏ tép về trước để nhận yếm đào, nhưng vẫn dung túng và trao phần thưởng lẽ ra phải thuộc về Tấm. Không chỉ vậy, bà ta còn nhẫn tâm giết chết cá bống, người bạn thân thiết của Tấm. Ngày đi xem hội, như bao cô gái khác, Tấm cũng mang trong mình niềm vui, sự háo hức được đi, nhưng mẹ Cám đã chặn đứng hi vọng của cô, mẹ Cám trộn thóc với đậu rồi bắt Tấm nhặt riêng từng loại. Những lần như vậy, Tấm chỉ biết bưng mặt khóc, đợi chờ sự xuất hiện của Bụt để giúp đỡ cô. Rõ ràng, ban đầu Tấm – cái thiện luôn lép vế, yếu đuối không hề phản kháng, chống cự lại cái ác. Có chăng cũng chỉ là những giọt nước mắt để cầu xin sự xuất hiện của thần linh. Cái ác áp đảo, ngày một làm cho cuộc sống của Tấm trở nên khổ sở, cùng cực hơn. Nhưng ở một góc độ nào đó có thể hiểu, nàng Tấm nhẫn nhục chịu đựng để mong một cuộc sống bình yên cho riêng mình. Nhưng “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng” cái ác hoành hành, tác oai tác quái, bởi vậy cái thiện đã phải vùng lên đấu tranh.

    Sang đến chặng thứ hai, Tấm không còn là một người con gái nhu mì, chịu đựng mà thay vào đó là một cô Tấm với sức phản kháng mạnh mẽ để giữ lấy hạnh phúc cho bản thân. Mụ dì ghẻ và Cám năm lần bảy lượt bức hại Tấm, tìm mọi cách để Tấm không thể hóa thân. Ngược lại với âm mưu thâm độc đó, cô Tấm vùng lên, hóa thân thành các sự vật khác nhau: chim vàng anh – cây xoan đào – khung cửi – quả thị. Đến đây Tấm không còn khóc lóc để chờ sự giúp đỡ của thần linh nữa mà vùng dậy đấu tranh bằng chính năng lực của mình, để bảo vệ hạnh phúc của bản thân. Trải qua những khó khăn, vô số lần bị hãm hại, cuối cùng cô Tấm đã trở lại ngôi vị hoàng hậu, còn mẹ con Cám bị trừng trị thích đáng. Đây là kết thúc hết sức hợp lí thể hiện quan điểm “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” của nhân dân ta.

    Không chỉ riêng ở truyện cổ tích Tấm Cám mà rất nhiều câu chuyện cổ tích khác cũng đều có kết thúc tương tự như vậy: Cây khế, Thạch Sanh,… Kết thúc có hậu ấy thể hiện mơ ước khát vọng ngàn đời của ông cha ta về công bằng, công lí trong xã hội. Đồng thời phản ánh quy luật tất yếu của cuộc sống cái thiện tất yếu sẽ chiến thắng cái ác.

    Nhìn truyện xưa, ta lại nghĩ về cái thiện và cái ác trong cuộc sống hiện nay. Nếu xưa, thiện và ác có thể phân ra giới tuyết rất rõ ràng, người thiện không thể là người ác và người ác vĩnh viễn cũng không thể là người thiện thì cuộc sống hiện tại ranh giới giữa thiện ác trở nên mong manh hơn. Ta đi trên xe buýt, ta nhìn thấy kẻ móc túi nhưng sợ hãi bị liên lụy, cho rằng người bị mất cũng không liên quan đến mình, ta mặc kệ, như vậy bản thân chúng ta đã vô tình tiếp tay cho cái ác có cơ hội hoành hành. Hay ta nhìn thấy bạn quay cóp trong giờ kiểm tra nhưng vì thương bạn, biết bạn chưa học bài nên ta bỏ qua. Tình thương ấy lại chính là liều thuốc độc giết chết nhân cách của bạn. Từ hành động nhỏ sẽ là cơ sở cho những việc xấu lớn. Nếu ta không ngăn chặn nó ngay, rễ ác mọc lan, khó mà có thể tiêu diệt tận gốc cái ác được. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong cuộc sống hiện đại càng trở nên khó khăn hơn, nguy hiểm hơn khi cái ác càng ngày càng trở nên tinh vi, với những thủ đoạn khó lường hơn. Nhưng dù có như vậy, cái thiện sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác, đây là niềm tin cũng là chân lí bất diệt của muôn thế hệ muôn đời.

    Để cho cái thiện luôn chiến thắng cái ác, để rễ ác không có cơ hội mọc lan thì tự chúng ta phải là những người bản lĩnh. Bản thân mỗi người cần sống lương thiện, sống có ích, giúp đỡ mọi người. Có đủ dũng khí, tự tin để vạch trần cái ác, ác xấu để chúng không có cơ hội lan truyền đến những người xung quanh.

    Con đường đấu tranh của cái thiện với cái ác là một hành trình đầy gian nan, thách thức, có những lúc cái thiện buộc phải nhường bước, bị cái ác lấn át. Nhưng đến cuối cùng nhất định cái thiện cái dành phần thắng, những con người lương thiện, thật thà sẽ được hưởng cuộc sống hạnh phúc, cái độc ác, giả dối sẽ bị trừng trị thích đáng.

   Từ xưa đến nay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt với kẻ xấu vô cùng gian nan, phức tạp. Đặc biệt, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong bản thân mỗi con người lại càng phức tạp, gian nan. Xong, kể cả trong xã hội xưa và nay, không phải lúc nào cái thiện cũng chiến thắng cái ác, chính vì vậy mà nhân dân xưa đã đưa những mơ ước, nguyện vọng, lý tưởng xã hội của mình thông qua chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiện vào những câu truyện cổ tích, tiểu biểu là câu truyện “Tấm Cám”.

    Từ khi con người hình thành tri thức, cái thiện và cái ác đã luôn cùng song hành với nhau trong xã hội. Cái thiện là tất cả những gì có vai trò tích cực, có tác động thuận lợi trong đời sống của con người và toàn xã hội. Cái ác là tất cả những gì gây trở ngại và có hại cho con người và xã hội. Cái thiện và cái ác là hai mặt đối lập nhau nhưng lại là một chỉnh thể.

    Bản chất mậu thuẫn và xung đột trong cậu chuyện “Tấm Cám” tập trung ở hai tuyến: Tấm và mẹ con Cám. Đầu Truyện mâu thuẫn và xung đột đầu tiên được đưa ra là mâu thuẫn và xung đột trong gia đình phụ quyền. Ý nghĩa xã hội được phản ánh rõ nhất qua cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa các lực lượng đối lập trong xã hội, xuất hiện muộn hơn.

    Sớm mồ côi cha mẹ, Tấm sống trong sự ghẻ lạnh của dì ghẻ và Cám. Hằng ngày, Tấm phải làm mọi công việc nhà: “phải làm việc lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, với bèo; đêm lại còn xay lúa mà không hết việc” chỉ để nhận lấy những trận đòn roi từ bà dì ghẻ. Còn Cám thì ” được ăn trắng mặt trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng”. Khác nhau nhưng chưa đến độ mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn giữa Tấm và Cám dần lộ ra khi Cám lừa chị trút hết tép vào giỏ rồi nhanh chạy về nhà để nhận cái yếm đỏ, còn Tấm thì “ngồi bưng mặt khóc” vì cảm thấy bất công. Kế đến, từ sự việc con cá bóng bị mẹ con Cám bắt ăn thịt, Tấm cũng “oà lên khóc” vì thấy bị thua thiệt, đến việc đi xem hội, Tấm không được sắm sửa quần áo đẹp đã đành, đằng này bà dì ghẻ còn cản trở Tấm bằng cách “bắt cô phải nhặt xong mớ gạo thóc đã được trộn lẫn với nhau”, cô Tấm lại một lần nữa “ngồi khóc một mình”. Rồi cả việc so sánh Cám như “chuông khánh”, còn Tấm là “mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”, “bĩu môi” khi thấy Tấm xuất hiện ở đám hội, “ngạc nhiên và hằn học” nhìn Tấm lên kiệu về cung. Tấm sung sướng bao nhiêu thì mẹ con Cám càng uất hận bấy nhiêu.Tất cả đã phần nào thể hiện được sự mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám, mâu thuẫn sau cao hơn mâu thuẫn trước, từ mâu thuẫn nhỏ đến mâu thuẫn gay gắt, không thể dung hoà. Và sự mâu thuẫn chỉ được giải quyết bẳng sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, không phải bằng con đường điều hoà mâu thuẫn.

    Sự ganh ghét như loài sau bọ đục khoét vào sâu trong tư tưởng biến thành ngọn lửa uất hận, khiến cho lương tâm và lý trí ngày cần thối rữa, cho đến khi sự tàn ác lấn áp tất cả. Gặp được dịp may hiếm có, Tấm về nhà giỗ cha. Mẹ com Cám lập kế giết chết Tấm hòng cướp đi hạnh phúc mà cô đang có.

    Truớc lúc chết, mỗi lần Tấm gặp khó khăn, dẫu cho có cảm thấy bất công, bị thua thiệt hay tủi phận, thì cô đều tỏ ra yếu đuối, chỉ biết khóc và nhờ vào sự phù trợ của ông Bụt. Bụt hiện ra, đền bù những thua thiệt, mất mát của Tấm và thường là sự đền bù to lớn, tốt đẹp hơn. Ở phuơng diện ý nghĩa xã hội, sự giúp đỡ của Bụt thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả dân gian, tức đa số nhân dân lao động đối với Tấm , cũng như đối với những người hiền lành, nghèo khổ và có phẩm chất tốt đẹp như Tấm. Mặt khác, có thể nói Bụt đóng vai trò tạo thêm sức mạnh cho Tấm để đi đến thắng lợi. Nhưng ông Bụt giúp Tấm được bao nhiêu thì lại bị cướp đi hết bấy nhiêu và cuối cùng cướp luôn cả mạng sống của Tấm mà ông Bụt cũng bó tay, bất lực. Có lẽ cô quá yếu đuối, yếu đuối đến mức không giữ nỗi hạnh phúc của mình, để cho người khác cướp mất. Nếu không muốn nói đó là sự nhu nhược ko dám nói lên tiếng nói cho riêng mình, một hiện tượng không những phổ biến trong xã hội PK xưa mà cả trong xã hội hiện nay. Trong cuộc sống, hạnh phúc thực sự chỉ có thể do bản thân mình tự đấu tranh tranh mà có, bởi ai ai cũng muốn hưởng hạnh phúc, mà cái hạnh phúc ấy thì lại quá ít ổi để có thể chia sẽ. Vậy tại sao cô không thể đứng dậy đấu tranh cho bản thân mình. Vì thế cho nên, ở giai đoạn hậu thân, Tấm phải tự mình đảm nhiệm phần việc mà ông Bụt đã không giúp và không thể giúp. Khi còn sống, Tấm hiền dịu, ngây thơ, nhân hậu bao nhiêu thì sau khi chết cô lại đáo để và quyết liệt bấy nhiêu (tiếng chim vàng anh, tiếng kếu của khung cửi và hành động trả thù mẹ con Cám cuối cùng chứng tỏ điều này).

    Phần mẹ con Cám, cái giá của việc cướp đi một sinh mạng là rất nặng nề, nặng đến mức… thậm chí có thể huỷ hoại chính mình. Một khi đã giết người vì lợi ích cá nhân mình, bọn họ đã tự đeo cho mình cái mặt mạ của quỷ dữ không bao có thể tháo bỏ, huống chi họ không những giết Tấm 1 lần, mà là nhiều lần chỉ nhầm bảo vệ cái hạnh phúc giả tạo mà họ đã cướp mất từ tay Tấm. Chính vì vậy họ phải gánh lấy cái giá nặng nề của kẻ giết người. Những kẻ thủ ác đã gặp báo ứng.

    Bất kể nơi nào cái thiện tồn tại thì ở đó mầm móng cái ác luôn rình rập. Chúng luôn tác động, bài trừ, gạt bỏ nhau nhưng lại là tiền đề tồn tại cho nhau. Không nơi nào tồn tại toàn những người tốt, và cũng sẽ chẵng có một xã hội với tất cả những công dân xấu cả. Cái tốt cái xấu đã và đang hiện hữu trong mỗi chúng ta, thật sai lầm khi chúng ta sống mà chỉ cố gắng làm điều tốt! Người tốt thật sự là người biết tự nhìn nhận ra những sai lầm của bản thân và tránh lập lại chúng. Hơn nữa, không có quan niện thiện, ác nào là vĩnh viễn đối với mọi thời đại, đúng với mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh cụ thể.

    Thử đặt trừơng hợp ngược lại, nếu mẹ con Cám là đại diện cho cái ác lại được sống hạnh phúc cùng nhà vua đến cuối đời thì sao? Lúc ấy bốn chữ “công bằng” và “hoà bình” là đều không thể có được trong xã hội này. Khi ấy trẻ con đến trường, cái mà chúng học được chỉ là lòng thù hận, sự ích kỷ và đố kỵ Thử tưởng tượng một ngày nọ bạn bước ra đường, vô tình bạn thấy một bà cô vấp ngã và tất cả mọi người chung quanh bạn vẫn dững dưng bước đi. Tưởng tượng sẽ ra sao khi bạn phải đến viện bảo tàng để đọc được cuốn tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của H.Way mà lúc này nó bị xem là tư tưởng phát-xit. Sẽ ra sao khi mà khắp nơi điều có trộm cướp, lừa gạt và những điều đó bị mọi người lờ đi, thờ ơ không đếm xỉa. Trái Đất này sẽ trở thành nơi lạnh nhất trong vũ trụ, vì bởi lẽ “nơi lạnh lẽo nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi sự lạnh nhạt bao trùm”.

    Và hãy thử tưởng tượng xã hội sẽ ra sao khi mà ở đó chỉ toàn là người tốt? Một ngày nọ, trên đường phố, chủ các chiếc xe đều nhường nhau chạy trước. Một chủ tiệm vàng trông thấy một người lao công đang thu gôm rác cực khổ, liền tặng cho ông ta mấy chỉ vàng. Ông chủ các công ty đứng ở cổng hỏi thăm từng nhân viên rồi tặng vài tháng lương cho những người có hoàng cảnh hơi túng thiếu. Ở các khu phố, người ta đến gọi cửa từng nhà tặng sách giáo khoa trong khi trên Tivi đang đưa tin sách đang lên giá.

    Liệu những sự giúp đỡ ấy có thật sự cần thiết không? Người xưa có câu: “Có gian nan mới thử sức người” . Những sự giúp đỡ không đúng lúc ấy không những không giúp ích gì nhiều mà ngược lại còn tập cho họ thối ỷ lại vào người khác, không tự cố gắng. Một xã hội như vậy sẽ ngày một lạc hậu, không thể tiến bộ, phát triển được. Cái ác là cái đáng ghê tởm cần gạt ra khỏi đời sống cá nhân và xã hội. Tuy nhiên cái ác không phải là cái đối lập tuyệt đối của cái thiền. Chúng có sự thống nhất giữa các mặt đối lập.

    Ranh giới thiện ác chỉ cách nhau một sợi chỉ nhỏ. Trong học tập của học sinh, cuộc đấu tranh chống những biểu hiện của cái xấu cái ác như: lười biếng, dối trá và gian lận,… cũng rất khó khăn, phức tạp. Chính vì vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần phải chăm lo rèn luyện đạo đức, có ý thức quan tâm đến những người xung quanh, đấu tranh chốn glại cái ác. Không ngừng học tập để nâng cao trình độ văn hoá, tiếp thu công KH và CN hiện đại nâng cao về nhận thức, về chính trị xạ hội. Tích cực lao động cần cù sáng tạo. Sẵn sàng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.

    Qua câu truyện “Tấm Cám”, ta thấy được cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay, cái ác có thể mạnh nhưng không thể tồn tại vĩnh viễn, cái thiện có thể yếu nhưng vẫn luôn tồn tại để đấu tranh chống lại cái ác. Và như thể là một chân lý, người ở hiền thì sẽ gặp lành và kẻ gieo gió ắt cũng có ngày gặp bão.

   Để có thể trưởng thành ai trong mỗi chúng ta cũng phải trải qua những ngày thơ ấu con trẻ, chắc hẳn trong tháng ngày ấy đa phần các bạn nhỏ đều được nghe và thấm nhuần những câu truyện cổ tích từ ngày xửa ngày xưa.“Tấm Cám” là truyện cổ tích tiêu biểu và hấp dẫn được nhiều bạn nhỏ yêu thích. Tác phẩm thể hiện cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả về sự chiến thắng của cái thiện dù cho ở xã hội xưa hay ngày nay.

   Câu chuyện mở ra cho chúng ta thấy mâu thuẫn nhiều mặt của xã hội Việt Nam xưa kia, cụ thể trong truyện là xung đột giữa dì ghẻ-con chồng mọi mâu thuẫn đều do dì ghẻ gây nên, mâu thuẫn con chung-con riêng là chủ yếu trong đó con chung là đầu mối cuộc chiến. Cuộc đời của Tấm là hành trình tìm kiếm hạnh phúc vô cùng gian nan, trải qua nhiều thử thách cô đã tìm thấy hạnh phúc của đời mình. Tấm là đại diện cho người tốt, cho cái thiện còn Cám và dì ghẻ đại diện cho người xấu, cái ác. Cuộc đấu tranh thiện ác, tốt xấu diễn ra cam go nhưng cuối cùng cái ác, cái xấu vẫn phải khuất phục trước cái thiện, cái đẹp. Đó là quy luật tồn tại. Dù ở trong xã hội nào thì chính nghĩa vẫn luôn thắng gian tà.

   Tấm là một cô bé hiền lành ngoan ngoãn, mẹ mất sớm sống với dì ghẻ và em. Năm lần bảy lượt hết lần này đến lần khác mẹ con Cám luôn tìm cách hãm hại Tấm, khi cô được làm hoàng hậu họ cũng không buông tha gây ra cái chết cho nàng. Sau khi chết Tấm bốn lần hóa thân khi thành chim vàng anh lúc là cây xoan đào, khi thành khung cửi lúc là quả thị. Mỗi lần hóa thân của cô Tấm thể hiện niềm tin của người lao động vào cái thiện và mỗi lần Tấm gặp khó khăn đều có bụt xuất hiện minh chứng cho quan niệm “Ở hiền gặp lành”, hậu quả mà mẹ con Cám phải gánh chịu minh chứng cho thói đời “Ác giả ác báo”. Kết thúc chuyện là Tấm giết Cám, đặc trưng của truyện dân gian có tính truyền miệng nên có nhiều dị bản khác nhau. Có dị bản là Tấm khi được Cám hỏi: “Chị Tấm ơi, chị Tấm chị làm thế nào mà đẹp thế?” Tấm giúp Cám bằng cách sai người đào hố sâu, bảo Cám nhảy xuống và đổ nước sôi vào, Cám chết mụ dì ghẻ cũng chết theo. Có dị bản lại kể Cám chết trong hố nước sôi thì Tấm làm mắm gửi về cho mụ dì ghẻ ăn rồi mụ cũng chết khi biết sự thật. Có nhiều ý kiến cho rằng đoạn kết của truyện là quá dã man không phù hợp với truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam. Theo tôi ý kiến trên chưa hoàn toàn hợp lí, bởi có đi sâu tìm hiểu đặc trưng của truyện cổ tích thì mới hiểu được ý nghĩa sâu sắc của dân gian. Truyện cổ tích ra đời là một hình thức nghệ thuật lí giải cho các vấn đề xã hội, theo xu hướng bảo vệ bênh vực cho những nạn nhân của xã hội trước những thay đổi lớn lao của đời sống mà con người bị đẩy vào bi kịch, thể hiện cho ước mơ của nhân dân về sự công bằng và niềm tin vào cái thiện luôn chiến thắng cái ác. Tấm là hiện thân của cái thiện mẹ con Cám là đại diện cho cái ác. Tấm ra tay trừng phạt mẹ con Cám là cái thiện đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu. Điều đó là hoàn toàn hợp lí.

   Trong xã hội ngày nay đạo lí đó vẫn luôn đúng đắn dù cho cái ác, cái xấu giờ đây được che đậy và ngụy trang bằng nhiều mánh khóe, thủ đoạn nhưng “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Ngay cả trong bộ máy lãnh đạo cấp cao của nhà nước vẫn có những người chưa tốt tham ô, tham nhũng gây hại cho nhân dân, đất nước. Vụ án của Đinh La Thăng_cựu Bí thư tỉnh ủy thành phố Hồ Chí Minh chắc hẳn chúng ta chưa thể quên, con người ấy một thời được nhân dân tung hô, ngợi ca nhưng rồi việc tham ô cũng bị đưa ra ánh sáng, bị trừng trị dưới pháp luật với 18 năm tù. Biết bao nhiêu vụ án giết người cướp của như Lê Văn Luyện, Nguyễn Hải Dương dù có giỏi mánh khóe để che đậy cũng không thể nào thoát khỏi lưới pháp luật và đạo đức. Những con người ấy xứng đáng bị lãnh án tù chung thân thậm chí là tử hình để trừng phạt tội ác cũng là để làm gương cho người khác và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước, sự công bằng của luật pháp.

   Những ngày gần đây xôn xao dư luận với điểm thi của một số tỉnh tăng cao bất thường đặc biệt là vụ việc xảy ra ở tỉnh Hà Giang đang được đông đảo mọi người quan tâm. Cơ quan chức năng cho điều tra lại về việc chấm thi, rà soát điểm thi và đã được Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ GD-ĐT), khẳng định đã phát hiện sai phạm trong chấm thi ở Hà Giang. Những vụ việc tưởng chừng như được che đậy rất hoàn hảo nhưng cái xấu rồi cũng bị đưa ra ánh sáng và pháp luật trừng trị.

   Trong cuộc sống thiện ác luôn song hành tồn tại cùng nhau đúng như câu nói của Trần Nhuận Minh:

    “Cái ác vỗ vai cái thiện

    Cả hai cùng cười đi về tương lai”

   Như vậy qua câu chuyện Tấm Cám từ ngày xửa ngày xưa và những sự việc, những con người ở trong bóng tối được đưa ra ánh sáng, bị pháp luật trừng trị ở xã hội ngày nay minh chứng cho chân lí đạo đức ở đời cái ác luôn bị khuất phục trước cái thiện, chính nghĩa luôn chiến thắng phi nghĩa.

   Người tốt đại diện cho cái thiện sẽ luôn có được hạnh phúc xứng đáng còn người ác làm việc xấu sớm muộn cũng bị gặp quả báo. Từ đó hình thành cho em suy nghĩ luôn phải cố gắng làm người tốt việc tốt để được sống một đời bình an, mong được đóng góp chút công sức nhỏ nhoi của mình vào công cuộc xây dựng một xã hội tốt đẹp.

Đề bài: Nghị luận xã hội về căn bệnh vô cảm

I. Mở bài

– Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận: Trong cuộc sống hiện nay tồn tại nhiều căn bệnh nguy hiểm mà cách chữa chỉ có một, đó chính là sự thay đổi suy nghĩ từ chính bản thân mỗi người.

– Nêu vấn đề cần nghị luận đặt ra ở đề bài: Bệnh vô cảm chính là một trong những căn bệnh nguy hiểm đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện nay.

II. Thân bài

1. Giải thích khái niệm đưa ra trong đề bài:

+ “Vô cảm”: “Vô” (tức “không”), “cảm” (tình cảm, cảm xúc), “vô cảm” có thể hiểu là không có tình cảm, cảm xúc ⇒ căn bệnh này có thê hiểu là sự thờ ơ, không quan tâm đến những sự vật, sự việc xung quanh mình.

2. Trình bày thực trạng, biểu hiện của căn bệnh vô cảm trong cuộc sống: ngày càng phổ biến, lan rộng trong xã hội (kết hợp lồng các dẫn chứng trong quá trình phân tích):

+ Thờ ơ, vô cảm với những hiện tượng trái đạo lí, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội: Hiện tượng livestream trên mạng xã hội (hiện tượng học sinh cấp 2 tại Hải Dương), bắt gặp hiện tượng trộm cắp thì im lặng, học sinh thấy các hiện tượng tiêu cực như coi cóp, bạo lực học đường thì coi như không biết …

+ Thờ ơ, vô cảm với những nỗi buồn, nỗi đau của chính những người đồng bào: Gặp người tai nạn bị tai nạn giao thông xúm vào bàn bạc, quay phim, chụp ảnh. Bỏ qua những lời kêu gọi giúp đỡ của đồng bào miền Trung bão lũ,…

+ Thờ ơ, vô cảm với những vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước: Thờ ơ với những cảnh đẹp quê hương, thiếu ý thức giữ gìn vệ sinh tại các điểm du lịch…

+ Thờ ơ, vô cảm với chính cuộc sống của bản thân mình: Hiện tượng học sinh đi học muộn, không chú ý học tập. Hiện tượng sinh viên thức rất khuya sử dụng smartphone, thể hiện sự thờ cơ với chính sức khỏe của bản thân…

3. Phân tích nguyên nhân:

+ Sự phát triển nhanh chóng của cuộc sống khiến con người phải sống nhanh hơn, không còn thời gian để ý tới những gì xung quanh

+ Sự bùng nổ mạnh mẽ của những thiết bị thông minh dẫn đến sự ra đời của các trang mạng xã hội ⇒ con người ngày càng ít giao tiếp trong đời thực

+ Sự chiều chuộng, chăm sóc, bao bọc quá kĩ lưỡng cha mẹ đối với con cái ⇒ coi mình là trung tâm, không để ý đến điều gì khác nữa

+ Sự ích kỉ của chính bản thân mỗi người

4. Bình luận về tác hại của hiện tượng:

+ Hậu quả vô cùng to lớn: con người mất đi những chỗ dựa mỗi lúc khó khăn, xã hội tràn đầy những điều xấu, điều ác

+ Xa hơn, con người đánh mất đi những giá trị người tốt đẹp của dân tộc, ảnh hưởng, làm lệch lạc những suy nghĩ của thế hệ tương lai.

5. Đề xuất các giải pháp phù hợp:

+ Lên án, phê phấn những hành vi tiêu cực, thờ ơ vô cảm đối với đời sống xung quanh

+ Hạn chế phụ thuộc vào các thiết bị thông minh, thế giới ảo…

+ Rèn luyện lối sống lành mạnh: Yêu thương, quan tâm, giúp đỡ mọi người…

+ Tăng cường thực hành, trải nghiệm thực tiễn trong các môn học: Đạo đức, giáo dục công dân để học sinh học cách yêu thương, chia sẻ

6. Liên hệ bản thân:

Cần lưu ý liên hệ những hành vi, biểu hiện của căn bệnh vô cảm trong chính môi trường học đường để hiểu và tránh

III. Kết bài

– Khẳng định lại về hiện tượng đời sống đã bàn luận: Vô cảm là căn bệnh nguy hiểm, để lại hậu quả nghiêm trọng mà mỗi người cần tránh

– Lời nhắn gửi đến tất cả mọi người: Mọi người cần chung tay đẩy lùi căn bệnh này.

Đề bài: Nghị luận xã hội về căn bệnh vô cảm.

    Ngày nay con người phải đối mặt với rất nhiều loại bệnh tật khác nhau, những căn bệnh về thể xác, nhưng nguy hiểm hơn đó là những căn bệnh về tâm hồn. Những căn bệnh ấy ngấm ngầm phá hủy tinh thần, nhân tính trong mỗi chúng ta mà ta không hề hay biết. Đến một ngày chợt nhận ra thì mọi thứ đã trở nên quá muộn màng. Và một trong những căn bệnh nguy hiểm đó chính là căn bện vô cảm.

    Vô cảm là gì? Nếu triết tự “vô” tức là không, “cảm” là thế giới tình cảm, cảm xúc của con người. Vô cảm là căn bệnh con người không có tình cảm, cảm xúc trước những sự việc diễn ra trong cuộc sống. Họ sống cuộc đời thờ ơ, ích kỉ, làm ngơ trước cái xấu, để cho cái ác hoành hành. Đó là những con người không có trái tim.

    Căn bệnh này tồn tại dưới rất nhiều dạng khác nhau. Trước hết nó là sự thờ ơ trước những đau thương, mất mát của những người xung quanh. Niềm vui cũng không khiến họ cười, không làm trái tim họ hạnh phúc; mất mát khổ đau không làm họ nhỏ một giọt nước mắt tiếc thương. Mọi việc trước mắt họ đều trở nên “bình thường”. Trong thời gian gần đây, ta đã đọc rất nhiều bài báo phản ánh về tình trạng móc túi trên xe buýt, nhưng không một ai lên tiếng. Họ sợ hãi sẽ mang vạ vào mình, họ sợ bị trả thù, bởi vậy họ mặc kệ người bị hại.

    Họ không quan tâm đến những vấn đề lớn hay nhỏ của xã hội, của những người xung quanh. Những trận lũ lụt lớn xảy ra, khiến biết bao người lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, những có một bộ phận chẳng hề mảy may quan tâm đến những cuộc vận động lớn nhỏ để giúp đỡ những gia đình gặp nạn. Họ thờ ơ, họ không chú ý hay để tâm đến. Họ luôn chỉ nghĩ cho mình, vì mình, họ sợ hãi khi phải hi sinh cho người khác, họ né tránh sự giúp đỡ. Đối với họ sống trong cái vỏ ốc họ gia công bao giờ cũng mang đến hạnh phúc hơn hết cả. Họ mặc kệ cuộc sống xung quanh diễn ra như thế nào, trước một phong cảnh đẹp, trước một bông hoa thơm họ không mảy may rung động hay thích thú, dường như trái tim họ đã chết. Và họ thờ ơ với cả tương lai chính mình, để mặc cuộc đời xô đẩy, không nỗ lực, không phấn đấu, không có chí tiến thủ. Đây quả là một căn bệnh ô cùng nguy hiểm, ngày càng lan rộng với tốc độ chóng mặt

    Căn bệnh này gây ra những hậu quả vô cùng xã hội. Hãy thử tưởng tượng một xã hội là tập hợp những con người vô cảm thì cuộc sống này sẽ ra sao và sẽ đi về đâu. Vô cảm cũng giúp cho cái ác, cái xấu hoành hành, lên ngôi, bởi họ đâu quan tâm đến những người xung quanh, nên dù tên trộm kia có móc túi, người kia có bị bạo hành đó cũng không phải là việc của họ. Vô cảm khiến cho tâm hồn chai sạn, tha hóa về nhân cách và đạo đức.

    Tình trạng vô cảm trong xã hội hiện đại ngày càng lan rộng và thực sự ở mức báo động đỏ. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng vô cảm lây lan mạnh mẽ đến vậy. Trước hết, do cuộc sống khoa học hiện đại, khiến con người luôn khép mình trong những gian phòng kín, họ tiếp xúc, trò chuyện với nhau qua màn hình máy tính, qua thế giới ảo. Sự tương tác thực tế ngày càng ít đí, khiến cho tâm hồn con người ngày trở nên chai sạn. Do bố mẹ quay cuồng trong guồng quay kiếm tiền, không quan tâm đến con cái. Họ tưởng rằng có thể dùng tiền đó làm cho con hạnh phúc, nhưng nào biết rằng chính nó lại là nguồi cội của sự bất hạnh, khiến đứa trẻ trở nê vô cảm. Nhưng quan trọng nhất, dẫn đến sự vô cảm của thế hệ trẻ chính là lối sống vị kỉ, chỉ quan tâm đến lợi ích bản thân. Họ sống thiếu tình thương, trách nhiệm thiếu sự quan tâm lẫn nhau. Chính những nguyên nhân trên đã khiến căn bệnh vô cảm có cơ hội bùng phát mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

    Căn bệnh này lây lan với tốc độ nhanh chóng, nhưng nếu có những hành động kịp thời ta vẫn có thể ngăn chặn căn bệnh này bùng phát thành đại dịch. Để ngăn chặn bệnh vô cảm mỗi người hãy bước ra khỏi thế giới ảo, bước ra khỏi bốn bức tường để cảm nhận cuộc sống quanh, để thấy cuộc đời chân thật muôn màu, muôn vẻ ngay trước mắt. Hãy dũng cảm, mạnh mẽ trước cái ác, cái xấu, dám lên án phê phán sự thờ ơ. Sống bằng trái tim yêu chân thành, nhiệt huyết, luôn quan tâm và giúp đỡ những người xung quanh. Sống là cho đi đâu chỉ nhận lại riêng mình. Thay vì ngồi trước màn hình máy tính hãy trau dồi, làm đẹp tâm hồn bằng những cuốn sách giàu giá trị nhân văn, giúp chúng ta hướng đến cái đích chân thiện mĩ.

    Bên cạnh một bộ phận có lối sống thờ ơ, vô cảm thì vẫn có những con người sống tràn đầy nhiệt huyết và sẵn sàng xả thân vì những người xung quanh. Có lẽ ta vẫn chưa quên những hiệp sĩ Sài Gòn đã hi sinh thân mình để bảo vệ người bị hại. Hay một bạn học sinh ở Nghệ An đã sẵn sàng lao xuống dòng nước lũ để cứu những người khác mà cuối cùng cậu đã anh dũng hi sinh. Những tấm gương ấy sẽ mãi mãi được mọi người ghi nhớ. Nó cũng là nguồn động lực tiếp cho ta thêm sức mạnh, niềm tin vào lối sống yêu thương, quan tâm giúp đỡ người khác. Hình ảnh của họ, tình yêu thương, sự hi sinh họ dành cho những người xung quanh sẽ lan tỏa lối sống yêu thương tình nghĩa đến toàn thể xã hội, đẩy lùi căn bệnh vô cảm.

    Căn bệnh vô cảm là căn bệnh phổ biến trong xã hội hiện đại, với tốc độ lây lan nhanh và vô cùng nguy hiểm. Nhưng nó vẫn có thể khống chế và xóa bỏ khi tôi, bạn, tất cả chúng ta chung tay, sống một cuộc sống khác, cuộc sống của tình yêu thương, quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau.

Đề bài: Nghị luận xã hội về căn bệnh vô cảm

Nếu như ngày nay HIV/AIDS đã được các nhà khoa học tìm ra xu hướng điều trị mới nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng quét sạch toàn bộ HIV ra khỏi danh sách những căn bệnh không có thuốc chữa thì vô cảm_căn bệnh tinh thần của con người vẫn chưa tìm ra vắc xin. Bệnh vô cảm là một thái độ sống chưa tốt, có nhiều biểu hiện tiêu cực đáng báo động trong xã hội. Điều đó khiến cho mỗi con người cần phải suy ngẫm, trăn trở với mong muốn tìm ra giải pháp trị liệu hiệu quả.

Vậy bệnh vô cảm là căn bệnh như thế nào? Vô là không, cảm là cảm xúc. Vô cảm chính là không có cảm xúc. Nó đã trở thành “bệnh” nhiễm sâu vào trong suy nghĩ và hành động của mỗi người. Bệnh vô cảm là thái độ sống thờ ơ, dửng dưng, không quan tâm đến con người và sự vật, sự việc diễn ra xung quanh trong cuộc sống. Căn bệnh vô cảm khiến cho con người ta sống một “trái tim không có tình người”. Mà như Nam Cao đã nói “không có tình thương, con người chỉ là một con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỉ” (Đời thừa).

Chắc hẳn ngay từ khi còn thơ bé chúng ta đã được đọc truyện cổ tích. Nếu ai đã từng đọc “Cô bé bán diêm”ắ t hẳn sẽ không thể quên được cái đêm hôm ấy- đêm Giáng sinh “Trời lạnh mọi người quây quần bên chiếc lò sưởi để đón Giáng sinh…. Trên khắp phố phường một số người hối hả trở về nhà dường như không có ai để ý đến cô bé”. Mặc dù đôi mắt ngây thơ ấy nửa van xin nửa ngại ngùng, chẳng hiểu sao cô vẫn bán như mọi ngày nhưng hôm nay tuyệt nhiên không một ai hỏi đến phải chăng vì họ vô tâm hay họ quá vội vã? Chính thái độ thờ ơ đó đã để em chết vì cái đói, cái giá lạnh trong đêm Giáng sinh hạnh phúc của bao người. Cái chết ám ảnh của cô bé đã khiến cho người đọc xót xa mà day dứt sao đêm ấy mọi người lại bỏ mặc em đến vậy. Tác giả ắt hẳn rất đau lòng khi đã để em chết trong hiện thực nghiệt ngã, đau lòng khi thấy giá trị đạo đức đang đi xuống nhưng cũng là để nhắn nhủ với bạn đọc hãy biết sống có tình người, yêu thương lẫn nhau.

Bước ra từ trang sách những con người vô cảm trong đêm Giáng sinh vẫn hiện hữu ở khắp mọi nơi trong cuộc sống. Bệnh vô cảm có ở trong mọi lứa tuổi, nghề nghiệp căn bệnh ấy đã “lây nhiễm” trong toàn xã hội. Ngay một số quan chức cấp cao_ những người mà theo Hồ Chí Minh nhận định: “Mỗi người Đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng mình vào Đảng là để làm đầy tớ cho nhân dân… làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan nhân dân… và phải làm cho tốt”. Những con người ấy phải phục vụ cho lợi ích của quần chúng nhưng một số chính quyền địa phương lại có thái độ dửng dưng, không quan tâm. Vụ án gần đây của Đặng Văn Hiến (Đăk Nông) vụ việc tranh chấp đất đai giữa dân làng và người của công ty Long Sơn. Trong tình thế nguy kịch giữa một bên là đất đai bị cướp, vợ con bị đe dọa và thái độ hung hăng của chúng đã buộc Hiến phải nổ súng. Tiếng súng ấy không phải của một tội phạm khát máu. Tiếng súng thức tỉnh lương tri. Tiếng súng gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự vô cảm của chính quyền địa phương. Nếu có sự can thiệp của cơ quan chức năng thì có lẽ người dân lương thiện không phải dùng đến bạo lực để giải quyết để bây giờ phải lãnh án giết người.

Ngay cả trong môi trường giáo dục_nơi ươm mầm tri thức cho đất nước nhưng căn bệnh vô cảm vẫn có mặt. Bạo lực học đường là vấn đề nổi trội lên hiện nay. Các em học sinh thấy bạn bè đánh nhau không can ngăn mà cổ súy, dửng dưng quay clip cho lên mạng xã hội. Thầy cô giáo thấy hành vi sai trái của học sinh thì lờ đi như không biết. Con người ta thật bình tâm trước cái xấu.

Bệnh vô cảm biểu hiện ngay trong những hành động ta vô tình bắt gặp ngoài đường. Là thấy kẻ gian móc túi mà không dám lên tiếng, là thấy những số phận bất hạnh nghèo khổ ta thờ ơ ngang qua. Là những vụ tai nạn giao thông nạn nhân đang giành giật giữa sự sống và cái chết ngay trước mặt nhưng họ vẫn làm ngơ, họ bàn tán, xì xào mà sao không một ai gọi cấp cứu.

Vô cảm không chỉ đối với mọi người mà còn đối với chính bản thân, người thân yêu nhất của mình. Hội thánh đức chúa trời đang hoạt động mạnh mẽ ở nước ta. Đây là một tà đạo hủy hoại nếp sống văn minh của con người. Những hội viên “ngây thơ” đa phần là sinh viên chính vì thờ ơ, không quan tâm theo dõi tin tức nên để mình bị lôi kéo, dụ dỗ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng.

Biểu hiện của bệnh vô cảm vô cùng đa dạng, đối tượng phong phú, nó lây nhiễm như một dịch bệnh có ở mọi ngóc ngách trong cuộc sống. Vậy nguyên nhân nào khiến cho căn bệnh ấy ngày càng trầm trọng? Cuộc sống ngày càng phát triển con người càng phải guồng quay hối hả chạy theo vật chất mà quên mất rằng thế giới tinh thần rất quan trọng. Vô cảm xuất phát từ tâm lí đám đông họ sợ gặp rắc rối, sợ “mua dây buộc mình”. Vô cảm bởi lối sống ích kỉ chưa được giáo dục đúng đắn…

Chính căn bệnh ấy đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, nó làm cho con người từ “nhân chi sơ tính bản thiện” trở thành người vô tâm, vô tình. Vô cảm làm mất đi truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh thần tương thân, tương ái “lá lành đùm lá rách”. Nó làm cho văn hóa “tắt lửa tối đèn có nhau” dần mất đi trong cuộc sống nhộn nhịp nơi phố phường, khiến con người sống chạm mặt mà cách lòng…

Tuy nhiên không phải ai cũng mắc phải căn bệnh ấy, trong xã hội còn rất nhiều người tốt dám hi sinh xả thân cứu người, nhiều hành động đẹp để ta học tập. Để đẩy lùi được căn bệnh ấy cần phải xây dựng được một lối sống văn minh, một xã hội đồng cảm, sẻ chia. Cần khơi dậy lòng nhân ái và dung khí trong mỗi con người. Cần xây dựng nền tảng đạo đức tốt đẹp, gìn giữ truyền thống nhân đạo của dân tộc.

Là một người trẻ em nhận thức được sự nguy hiểm của bệnh vô cảm. Đây là một căn bệnh cần được điều trị kịp thời. Mỗi người chúng ta hãy cùng nhau chung tay đẩy lùi “dịch bệnh” để cuộc sống này biết yêu thương, vui buồn trước nỗi đau của mỗi con người, để xã hội này là xã hội của tình thương yêu. Một nhà văn Nga đã từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương” chính là vậy.

Đề bài: Nghị luận xã hội về căn bệnh vô cảm

MI. Mở bài

– Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận: Trong cuộc sống hiện nay tồn tại nhiều căn bệnh nguy hiểm mà cách chữa chỉ có một, đó chính là sự thay đổi suy nghĩ từ chính bản thân mỗi người.

– Nêu vấn đề cần nghị luận đặt ra ở đề bài: Bệnh vô cảm chính là một trong những căn bệnh nguy hiểm đang ngày càng phổ biến trong xã hội hiện nay.

MII. Thân bài

1. Giải thích khái niệm đưa ra trong đề bài:

   + “Vô cảm”: “Vô” (tức “không”), “cảm” (tình cảm, cảm xúc), “vô cảm” có thể hiểu là không có tình cảm, cảm xúc ⇒ căn bệnh này có thê hiểu là sự thờ ơ, không quan tâm đến những sự vật, sự việc xung quanh mình.

2. Trình bày thực trạng, biểu hiện của căn bệnh vô cảm trong cuộc sống: ngày càng phổ biến, lan rộng trong xã hội (kết hợp lồng các dẫn chứng trong quá trình phân tích):

   + Thờ ơ, vô cảm với những hiện tượng trái đạo lí, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội: Hiện tượng livestream trên mạng xã hội (hiện tượng học sinh cấp 2 tại Hải Dương), bắt gặp hiện tượng trộm cắp thì im lặng, học sinh thấy các hiện tượng tiêu cực như coi cóp, bạo lực học đường thì coi như không biết …

   + Thờ ơ, vô cảm với những nỗi buồn, nỗi đau của chính những người đồng bào: Gặp người tai nạn bị tai nạn giao thông xúm vào bàn bạc, quay phim, chụp ảnh. Bỏ qua những lời kêu gọi giúp đỡ của đồng bào miền Trung bão lũ,…

   + Thờ ơ, vô cảm với những vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước: Thờ ơ với những cảnh đẹp quê hương, thiếu ý thức giữ gìn vệ sinh tại các điểm du lịch…

   + Thờ ơ, vô cảm với chính cuộc sống của bản thân mình: Hiện tượng học sinh đi học muộn, không chú ý học tập. Hiện tượng sinh viên thức rất khuya sử dụng smartphone, thể hiện sự thờ cơ với chính sức khỏe của bản thân…

3. Phân tích nguyên nhân:

   + Sự phát triển nhanh chóng của cuộc sống khiến con người phải sống nhanh hơn, không còn thời gian để ý tới những gì xung quanh

   + Sự bùng nổ mạnh mẽ của những thiết bị thông minh dẫn đến sự ra đời của các trang mạng xã hội ⇒ con người ngày càng ít giao tiếp trong đời thực

   + Sự chiều chuộng, chăm sóc, bao bọc quá kĩ lưỡng cha mẹ đối với con cái ⇒ coi mình là trung tâm, không để ý đến điều gì khác nữa

   + Sự ích kỉ của chính bản thân mỗi người

4. Bình luận về tác hại của hiện tượng:

   + Hậu quả vô cùng to lớn: con người mất đi những chỗ dựa mỗi lúc khó khăn, xã hội tràn đầy những điều xấu, điều ác

   + Xa hơn, con người đánh mất đi những giá trị người tốt đẹp của dân tộc, ảnh hưởng, làm lệch lạc những suy nghĩ của thế hệ tương lai.

5. Đề xuất các giải pháp phù hợp:

   + Lên án, phê phấn những hành vi tiêu cực, thờ ơ vô cảm đối với đời sống xung quanh

   + Hạn chế phụ thuộc vào các thiết bị thông minh, thế giới ảo…

   + Rèn luyện lối sống lành mạnh: Yêu thương, quan tâm, giúp đỡ mọi người…

   + Tăng cường thực hành, trải nghiệm thực tiễn trong các môn học: Đạo đức, giáo dục công dân để học sinh học cách yêu thương, chia sẻ

6. Liên hệ bản thân:

   Cần lưu ý liên hệ những hành vi, biểu hiện của căn bệnh vô cảm trong chính môi trường học đường để hiểu và tránh

MIII. Kết bài

– Khẳng định lại về hiện tượng đời sống đã bàn luận: Vô cảm là căn bệnh nguy hiểm, để lại hậu quả nghiêm trọng mà mỗi người cần tránh

– Lời nhắn gửi đến tất cả mọi người: Mọi người cần chung tay đẩy lùi căn bệnh này.

   Ngày nay con người phải đối mặt với rất nhiều loại bệnh tật khác nhau, những căn bệnh về thể xác, nhưng nguy hiểm hơn đó là những căn bệnh về tâm hồn. Những căn bệnh ấy ngấm ngầm phá hủy tinh thần, nhân tính trong mỗi chúng ta mà ta không hề hay biết. Đến một ngày chợt nhận ra thì mọi thứ đã trở nên quá muộn màng. Và một trong những căn bệnh nguy hiểm đó chính là căn bện vô cảm.

    Vô cảm là gì? Nếu triết tự “vô” tức là không, “cảm” là thế giới tình cảm, cảm xúc của con người. Vô cảm là căn bệnh con người không có tình cảm, cảm xúc trước những sự việc diễn ra trong cuộc sống. Họ sống cuộc đời thờ ơ, ích kỉ, làm ngơ trước cái xấu, để cho cái ác hoành hành. Đó là những con người không có trái tim.

    Căn bệnh này tồn tại dưới rất nhiều dạng khác nhau. Trước hết nó là sự thờ ơ trước những đau thương, mất mát của những người xung quanh. Niềm vui cũng không khiến họ cười, không làm trái tim họ hạnh phúc; mất mát khổ đau không làm họ nhỏ một giọt nước mắt tiếc thương. Mọi việc trước mắt họ đều trở nên “bình thường”. Trong thời gian gần đây, ta đã đọc rất nhiều bài báo phản ánh về tình trạng móc túi trên xe buýt, nhưng không một ai lên tiếng. Họ sợ hãi sẽ mang vạ vào mình, họ sợ bị trả thù, bởi vậy họ mặc kệ người bị hại.

    Họ không quan tâm đến những vấn đề lớn hay nhỏ của xã hội, của những người xung quanh. Những trận lũ lụt lớn xảy ra, khiến biết bao người lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, những có một bộ phận chẳng hề mảy may quan tâm đến những cuộc vận động lớn nhỏ để giúp đỡ những gia đình gặp nạn. Họ thờ ơ, họ không chú ý hay để tâm đến. Họ luôn chỉ nghĩ cho mình, vì mình, họ sợ hãi khi phải hi sinh cho người khác, họ né tránh sự giúp đỡ. Đối với họ sống trong cái vỏ ốc họ gia công bao giờ cũng mang đến hạnh phúc hơn hết cả. Họ mặc kệ cuộc sống xung quanh diễn ra như thế nào, trước một phong cảnh đẹp, trước một bông hoa thơm họ không mảy may rung động hay thích thú, dường như trái tim họ đã chết. Và họ thờ ơ với cả tương lai chính mình, để mặc cuộc đời xô đẩy, không nỗ lực, không phấn đấu, không có chí tiến thủ. Đây quả là một căn bệnh ô cùng nguy hiểm, ngày càng lan rộng với tốc độ chóng mặt

    Căn bệnh này gây ra những hậu quả vô cùng xã hội. Hãy thử tưởng tượng một xã hội là tập hợp những con người vô cảm thì cuộc sống này sẽ ra sao và sẽ đi về đâu. Vô cảm cũng giúp cho cái ác, cái xấu hoành hành, lên ngôi, bởi họ đâu quan tâm đến những người xung quanh, nên dù tên trộm kia có móc túi, người kia có bị bạo hành đó cũng không phải là việc của họ. Vô cảm khiến cho tâm hồn chai sạn, tha hóa về nhân cách và đạo đức.

    Tình trạng vô cảm trong xã hội hiện đại ngày càng lan rộng và thực sự ở mức báo động đỏ. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng vô cảm lây lan mạnh mẽ đến vậy. Trước hết, do cuộc sống khoa học hiện đại, khiến con người luôn khép mình trong những gian phòng kín, họ tiếp xúc, trò chuyện với nhau qua màn hình máy tính, qua thế giới ảo. Sự tương tác thực tế ngày càng ít đí, khiến cho tâm hồn con người ngày trở nên chai sạn. Do bố mẹ quay cuồng trong guồng quay kiếm tiền, không quan tâm đến con cái. Họ tưởng rằng có thể dùng tiền đó làm cho con hạnh phúc, nhưng nào biết rằng chính nó lại là nguồi cội của sự bất hạnh, khiến đứa trẻ trở nê vô cảm. Nhưng quan trọng nhất, dẫn đến sự vô cảm của thế hệ trẻ chính là lối sống vị kỉ, chỉ quan tâm đến lợi ích bản thân. Họ sống thiếu tình thương, trách nhiệm thiếu sự quan tâm lẫn nhau. Chính những nguyên nhân trên đã khiến căn bệnh vô cảm có cơ hội bùng phát mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

    Căn bệnh này lây lan với tốc độ nhanh chóng, nhưng nếu có những hành động kịp thời ta vẫn có thể ngăn chặn căn bệnh này bùng phát thành đại dịch. Để ngăn chặn bệnh vô cảm mỗi người hãy bước ra khỏi thế giới ảo, bước ra khỏi bốn bức tường để cảm nhận cuộc sống quanh, để thấy cuộc đời chân thật muôn màu, muôn vẻ ngay trước mắt. Hãy dũng cảm, mạnh mẽ trước cái ác, cái xấu, dám lên án phê phán sự thờ ơ. Sống bằng trái tim yêu chân thành, nhiệt huyết, luôn quan tâm và giúp đỡ những người xung quanh. Sống là cho đi đâu chỉ nhận lại riêng mình. Thay vì ngồi trước màn hình máy tính hãy trau dồi, làm đẹp tâm hồn bằng những cuốn sách giàu giá trị nhân văn, giúp chúng ta hướng đến cái đích chân thiện mĩ.

    Bên cạnh một bộ phận có lối sống thờ ơ, vô cảm thì vẫn có những con người sống tràn đầy nhiệt huyết và sẵn sàng xả thân vì những người xung quanh. Có lẽ ta vẫn chưa quên những hiệp sĩ Sài Gòn đã hi sinh thân mình để bảo vệ người bị hại. Hay một bạn học sinh ở Nghệ An đã sẵn sàng lao xuống dòng nước lũ để cứu những người khác mà cuối cùng cậu đã anh dũng hi sinh. Những tấm gương ấy sẽ mãi mãi được mọi người ghi nhớ. Nó cũng là nguồn động lực tiếp cho ta thêm sức mạnh, niềm tin vào lối sống yêu thương, quan tâm giúp đỡ người khác. Hình ảnh của họ, tình yêu thương, sự hi sinh họ dành cho những người xung quanh sẽ lan tỏa lối sống yêu thương tình nghĩa đến toàn thể xã hội, đẩy lùi căn bệnh vô cảm.

    Căn bệnh vô cảm là căn bệnh phổ biến trong xã hội hiện đại, với tốc độ lây lan nhanh và vô cùng nguy hiểm. Nhưng nó vẫn có thể khống chế và xóa bỏ khi tôi, bạn, tất cả chúng ta chung tay, sống một cuộc sống khác, cuộc sống của tình yêu thương, quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau.

   Nếu như ngày nay HIV/AIDS đã được các nhà khoa học tìm ra xu hướng điều trị mới nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng quét sạch toàn bộ HIV ra khỏi danh sách những căn bệnh không có thuốc chữa thì vô cảm_căn bệnh tinh thần của con người vẫn chưa tìm ra vắc xin. Bệnh vô cảm là một thái độ sống chưa tốt, có nhiều biểu hiện tiêu cực đáng báo động trong xã hội. Điều đó khiến cho mỗi con người cần phải suy ngẫm, trăn trở với mong muốn tìm ra giải pháp trị liệu hiệu quả.

   Vậy bệnh vô cảm là căn bệnh như thế nào? Vô là không, cảm là cảm xúc. Vô cảm chính là không có cảm xúc. Nó đã trở thành “bệnh” nhiễm sâu vào trong suy nghĩ và hành động của mỗi người. Bệnh vô cảm là thái độ sống thờ ơ, dửng dưng, không quan tâm đến con người và sự vật, sự việc diễn ra xung quanh trong cuộc sống. Căn bệnh vô cảm khiến cho con người ta sống một “trái tim không có tình người”. Mà như Nam Cao đã nói “không có tình thương, con người chỉ là một con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỉ” (Đời thừa).

   Chắc hẳn ngay từ khi còn thơ bé chúng ta đã được đọc truyện cổ tích. Nếu ai đã từng đọc “Cô bé bán diêm”ắ t hẳn sẽ không thể quên được cái đêm hôm ấy- đêm Giáng sinh “Trời lạnh mọi người quây quần bên chiếc lò sưởi để đón Giáng sinh…. Trên khắp phố phường một số người hối hả trở về nhà dường như không có ai để ý đến cô bé”. Mặc dù đôi mắt ngây thơ ấy nửa van xin nửa ngại ngùng, chẳng hiểu sao cô vẫn bán như mọi ngày nhưng hôm nay tuyệt nhiên không một ai hỏi đến phải chăng vì họ vô tâm hay họ quá vội vã? Chính thái độ thờ ơ đó đã để em chết vì cái đói, cái giá lạnh trong đêm Giáng sinh hạnh phúc của bao người. Cái chết ám ảnh của cô bé đã khiến cho người đọc xót xa mà day dứt sao đêm ấy mọi người lại bỏ mặc em đến vậy. Tác giả ắt hẳn rất đau lòng khi đã để em chết trong hiện thực nghiệt ngã, đau lòng khi thấy giá trị đạo đức đang đi xuống nhưng cũng là để nhắn nhủ với bạn đọc hãy biết sống có tình người, yêu thương lẫn nhau.

   Bước ra từ trang sách những con người vô cảm trong đêm Giáng sinh vẫn hiện hữu ở khắp mọi nơi trong cuộc sống. Bệnh vô cảm có ở trong mọi lứa tuổi, nghề nghiệp căn bệnh ấy đã “lây nhiễm” trong toàn xã hội. Ngay một số quan chức cấp cao_ những người mà theo Hồ Chí Minh nhận định: “Mỗi người Đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng mình vào Đảng là để làm đầy tớ cho nhân dân… làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan nhân dân… và phải làm cho tốt”. Những con người ấy phải phục vụ cho lợi ích của quần chúng nhưng một số chính quyền địa phương lại có thái độ dửng dưng, không quan tâm. Vụ án gần đây của Đặng Văn Hiến (Đăk Nông) vụ việc tranh chấp đất đai giữa dân làng và người của công ty Long Sơn. Trong tình thế nguy kịch giữa một bên là đất đai bị cướp, vợ con bị đe dọa và thái độ hung hăng của chúng đã buộc Hiến phải nổ súng. Tiếng súng ấy không phải của một tội phạm khát máu. Tiếng súng thức tỉnh lương tri. Tiếng súng gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự vô cảm của chính quyền địa phương. Nếu có sự can thiệp của cơ quan chức năng thì có lẽ người dân lương thiện không phải dùng đến bạo lực để giải quyết để bây giờ phải lãnh án giết người.

   Ngay cả trong môi trường giáo dục_nơi ươm mầm tri thức cho đất nước nhưng căn bệnh vô cảm vẫn có mặt. Bạo lực học đường là vấn đề nổi trội lên hiện nay. Các em học sinh thấy bạn bè đánh nhau không can ngăn mà cổ súy, dửng dưng quay clip cho lên mạng xã hội. Thầy cô giáo thấy hành vi sai trái của học sinh thì lờ đi như không biết. Con người ta thật bình tâm trước cái xấu.

   Bệnh vô cảm biểu hiện ngay trong những hành động ta vô tình bắt gặp ngoài đường. Là thấy kẻ gian móc túi mà không dám lên tiếng, là thấy những số phận bất hạnh nghèo khổ ta thờ ơ ngang qua. Là những vụ tai nạn giao thông nạn nhân đang giành giật giữa sự sống và cái chết ngay trước mặt nhưng họ vẫn làm ngơ, họ bàn tán, xì xào mà sao không một ai gọi cấp cứu.

   Vô cảm không chỉ đối với mọi người mà còn đối với chính bản thân, người thân yêu nhất của mình. Hội thánh đức chúa trời đang hoạt động mạnh mẽ ở nước ta. Đây là một tà đạo hủy hoại nếp sống văn minh của con người. Những hội viên “ngây thơ” đa phần là sinh viên chính vì thờ ơ, không quan tâm theo dõi tin tức nên để mình bị lôi kéo, dụ dỗ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng.

   Biểu hiện của bệnh vô cảm vô cùng đa dạng, đối tượng phong phú, nó lây nhiễm như một dịch bệnh có ở mọi ngóc ngách trong cuộc sống. Vậy nguyên nhân nào khiến cho căn bệnh ấy ngày càng trầm trọng? Cuộc sống ngày càng phát triển con người càng phải guồng quay hối hả chạy theo vật chất mà quên mất rằng thế giới tinh thần rất quan trọng. Vô cảm xuất phát từ tâm lí đám đông họ sợ gặp rắc rối, sợ “mua dây buộc mình”. Vô cảm bởi lối sống ích kỉ chưa được giáo dục đúng đắn…

   Chính căn bệnh ấy đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, nó làm cho con người từ “nhân chi sơ tính bản thiện” trở thành người vô tâm, vô tình. Vô cảm làm mất đi truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh thần tương thân, tương ái “lá lành đùm lá rách”. Nó làm cho văn hóa “tắt lửa tối đèn có nhau” dần mất đi trong cuộc sống nhộn nhịp nơi phố phường, khiến con người sống chạm mặt mà cách lòng…

   Tuy nhiên không phải ai cũng mắc phải căn bệnh ấy, trong xã hội còn rất nhiều người tốt dám hi sinh xả thân cứu người, nhiều hành động đẹp để ta học tập. Để đẩy lùi được căn bệnh ấy cần phải xây dựng được một lối sống văn minh, một xã hội đồng cảm, sẻ chia. Cần khơi dậy lòng nhân ái và dung khí trong mỗi con người. Cần xây dựng nền tảng đạo đức tốt đẹp, gìn giữ truyền thống nhân đạo của dân tộc.

   Là một người trẻ em nhận thức được sự nguy hiểm của bệnh vô cảm. Đây là một căn bệnh cần được điều trị kịp thời. Mỗi người chúng ta hãy cùng nhau chung tay đẩy lùi “dịch bệnh” để cuộc sống này biết yêu thương, vui buồn trước nỗi đau của mỗi con người, để xã hội này là xã hội của tình thương yêu. Một nhà văn Nga đã từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực mà là nơi không có tình thương” chính là vậy.

Đề bài: Nghị luận xã hội về tiền bạc và hạnh phúc

I. Mở bài

– Dẫn dắt vấn đề: Trong cuộc sống con người có những mục tiêu và đích đến khác nhau

– Nêu vấn đề nghị luận: Tiền bạc và hạnh phúc có thể coi là hai mục tiêu, hai đích đến trong số những đích đến quan trọng của con người. Xoay quanh tiền bạc và hạnh phúc, có rất nhiều những ý kiến trái chiều khác nhau cần bàn luận

II. Thân bài

1. Giải thích

– Hạnh phúc: Trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn được như ý nguyện

⇒ Hạnh phúc có thể coi là mục tiêu phấn đấu của tất cả mọi người.

– Tiền bạc: Đại diện cho những giá trị vật chất, có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống con người và là mục tiêu phấn đấu của rất nhiều người

⇒ Tiền bạc và hạnh phúc có thể coi là hai vấn đề liên kết tương hỗ nhau

2. Vai trò của tiền bạc đối với hạnh phúc của một con người

– Cần khẳng định một thực tế tiền bạc đóng vai trò tương đối quan trọng trong việc tạo dựng hạnh phúc của một con người:

– Khi con người có tiền, họ sẽ không phải lo lắng về những vấn đề cơ bản của cuộc sống ⇒ hạnh phúc

    + Có tiền, con người có thể chăm sóc những giá trị vật chất cho bản thân: ăn uống, mua sắm

    + Có tiền, con người có thể chữa bệnh ⇒ hạnh phúc

    + Khi con người có đầy đủ những giá trị vật chất, khi đó con người mới có thể chăm óc cho tinh thần, mà ngay cả việc chăm sóc những giá trị tinh thần thì tiền cũng có vai trò quan trọng: Có tiền, con người có thể tự do đi du lịch, mở mang hiểu biết ⇒ hạnh phúc

– Dẫn chứng:

    + Các chương trình nhân đạo, từ thiện ủng hộ những hoàn cảnh khó khăn một khoản tiền để trang trải cuộc sống: Chương trình Vượt lên chính mình…

    + Các chương trình hỗ trợ trẻ em, những người mắc bệnh hiểm nghèo: Tiếp sức hồi sinh… ⇒ Nếu không có tiền, không thể đem lại hạnh phúc cho những người thiếu may mắn, không may mắc bệnh hiểm nghèo

3. Hạnh phúc có nhất thiết phải do tiền bạc tạo nên?

– Khẳng định tiền bạc có vai trò quan trọng đến hạnh phúc của con người, tuy nhiên không phải cứ có tiền bạc con người sẽ nắm trong tay hạnh phúc:

    + Những người có thật nhiều tiền mà sống vô ích, không có mộng tưởng, không có ý chí ⇒ Vô nghĩa, không tìm được niềm hạnh phúc thực sự

    + Niềm hạnh phúc đối với những đứa trẻ mồ côi là có được một cuộc sống gia đình đầy đủ

    + Niềm hạnh phúc của những người già chính là được sum vầy bên con cháu

– Dẫn chứng:

    + Rất nhiều gia đình giàu có, họ vẫn li hôn khiến cuộc sống của những cậu ấm, cô chiêu rơi vào đau khổ

    + Cha đẻ của tập đoàn Apple trong bức thư cuối đời trước khi ra đi đã nhắc đến việc cuối cùng thì tiền bạc cũng không đem lại cho con người được sức khỏe, ông đúc kết chân lí con người cần biết bảo vệ sức khỏe của bản thân

4. Làm thế nào để có được hạnh phúc trọn vẹn?

– Hạnh phúc là khi con người cảm thấy thực sự thoải mái và hài lòng với những gì đang có

– Sống một cách trọn vẹn: sóng đẹp, sống có ích, có lí tưởng

– Nhìn cuộc sống bằng con mắt đầy sự lạc quan và tích cực

– Phấn đấu vì mục tiêu hạnh phúc, dù nhỏ bé hay lớn lao

– Can đảm sống và làm những gì mình yêu thích

III. Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề nghị luận: Tiền bạc và hạnh phúc có quan hệ tương đối mật thiết, chúng ta không phủ nhận vai trò của tiền bạc trong việc tạo dựng hạnh phúc cho con người nhưng nhấn mạnh rằng tiền bạc không phải lúc nào cũng là tất cả

– Liên hệ bản thân

Đề bài: Nghị luận xã hội về tiền bạc và hạnh phúc.

    Cuộc sống của con người luôn mong muốn và hướng tới được thỏa mãn cả về nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Đó là nhu cầu hết sức chính đáng của cuộc sống. Bởi vậy, giữa tiền bạc và hạnh phúc có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo nên sử thỏa mãn cho con người. Nhưng làm thế nào để hai yếu tố này cân bằng, hài hòa với nhau một cách trọn vẹn nhất?

    Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là tiền bạc và thế nào là hạnh phúc? Tiền bạc là phương tiện để con người mua bán, trao đổi mọi vật dụng trong đời sống. Tiền bạc là đại diện cho vật chất. Ngược lại, hạnh phúc lại thiên về mặt tinh thần. Nó là những cảm xúc, cảm giác sung sướng cực điểm khi được thỏa nguyện về một vấn đề nào đó. Giữa tiền bạc và hạnh phúc có mối quan hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau.

    Tiền bạc là phương tiện để duy trì cuộc sống cho con ngươi. Mọi nhu yếu phẩm hàng ngày của chúng ta đều phải sử dụng đến tiền để duy trì cuộc sống: thực phẩm, quần áo, giáo dục, y tế,… Nếu không có tiền thì những nhu cầu tối thiểu đó con người cũng sẽ không được đáp ứng. Nếu có tiền, chúng ta sẽ được hưởng một cuộc sống thoải mái, tiện nghi, không chỉ vậy còn được hưởng những dịch vụ chăm sóc tốt nhất cho bản thân và cả gia đình. Có tiền chúng ta cũng có thể giúp đỡ người khác được nhiều hơn, tương trợ những người có hoàn cảnh éo le giúp họ vượt lên hoàn cảnh. Nếu chúng ta không có tiền, dù có gặp những người có hoàn cảnh éo le thì “lực bất tòng tâm”, tâm muốn giúp mà điều kiện, hoàn cảnh không cho phép. Chẳng phải điều đó cũng làm ta đau buồn đó sao. Bill Gates, một trong những người giàu nhất thế giới, ông đã dùng một phần tài sản của mình để giúp đỡ những trẻ em nghèo, những trẻ em lang thang cơ nhỡ ở các nước kém phát triển. Nếu Bill Gates chỉ là một người bình thường liệu ông có thể giúp đỡ và đem lại hạnh phúc cho nhiều người đến vậy không? Có tiền cũng là cơ hội giúp bạn thực hiện những mong muốn, mơ ước một cách nhanh chóng hơn. Như vậy, có tiền cũng là một phương tiện để chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Ở phương diện này đồng tiền không hề xấu.

    Nhưng ngược lại, tiền bạc cũng gây lên những áp lực, những hệ lụy khôn lường đối với con người. Người ta hăng say kiếm tiền mà bỏ quên những giá trị hạnh phúc đích thực, bỏ quên những người luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ họ. Ma lực của đồng tiền đôi khi làm người ta mờ mắt, sẵn sàng làm những việc xấu xa, băng hoại đạo đức để có được tiền.

    Tiền bạc còn phá vỡ mối quan hệ bình đẳng giữa con người với con người. Khoảng cách giàu nghèo quá lớn, khiến con người trở nên xa lạ với nhau, giữa những người không cùng “đẳng cấp” họ không thể tìm được tiếng nói chung. Tiền bạc còn là căn nguyên của mọi xích mích, biết bao gia đình đã tan nát vì tranh giành tiền bạc, tài sản,…

    Vậy chẳng lẽ hạnh phúc lại không có chút ý nghĩa gì, không có giá trị nào hay sao? Hoàn toàn không phải như vậy, khi chúng ta hạnh phúc, cơ thể thư giãn, thoải mái đó sẽ là điều kiện nảy nở những ý tưởng độc đáo, sáng tạo, là cơ hội biến những dự định thành hiện thực. Những người yêu đời, sống hạnh phúc bao giờ cũng dễ dàng thành công hơn những người sống u uất, trầm cảm.

    Không phải cứ có nhiều tiền chúng ta sẽ được sống hạnh phúc. Điều quan trọng với mỗi người là phải tạo nền sự cân bằng, hài hoa giữa tiền bạc và hạnh phúc, giữa nhu cầu về vật chất và những khát vọng về đời sống tinh thần. Chỉ khi ấy con người mới được hưởng một công sống thoải mái, thanh thản thực sự. Để có được điều đó, bản thân mỗi người cần nỗ lực, cố gắng không ngừng trong học tập, lao động. Hãy kiếm tiền bằng chính sức lao động của mình, dùng nó vào những mục đích chính đáng. Kiếm tiền nhưng cũng không quên quan tâm, chăm sóc những người xung quanh, không quên đem lại cho bản thân những giây phút nghỉ ngơi, thư giãn. Với những hạnh phúc đã có được phải trân trọng, gìn giữ, bởi tạo được hạnh phúc không hề đơn giản, đừng vì những lí do tiền bạc mà phũ phàng, phụ bạc nhau. Và mỗi người cần phải hiểu rằng, tiền bạc chỉ là một yếu tố nhỏ đem đến hạnh phúc cho con người không phải yếu tố quan trọng nhất. Hơn nữa, hạnh phúc có thể làm ra của cải, tiền bạc còn tiền bạc chưa chắc đã đem đến hạnh phúc thực sự cho con người.

    Trong cuộc sống hiện đại, tiền bạc và hạnh phúc đều có vị trí, ý nghĩa quan trọng. Điều quan trọng là mỗi chúng ta cần phải có thái độ, cách nhìn nhận đúng đắn giữa hai phương diện vật chất này. Không nên quá đề cao tiền bạc mà hạ thấp hạnh phúc, bởi vậy bạn sẽ rơi vào cô đơn. Cân bằng giữa hai yếu tố trên, lấy hạnh phúc là cơ sở là mục đích phấn đấu sẽ đem lại cho bạn cuộc sống đầy tốt đẹp và ý nghĩa.

Đề bài: Nghị luận xã hội về tiền bạc và hạnh phúc.

Cuộc sống của con người được tạo nên bởi hai yếu tố vật chất và tinh thần. Đại diện cho nó là tiền bạc và hạnh phúc, giữa chúng có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau, có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển nhu cầu vật chất càng tăng cao, hạnh phúc càng thiết thực hơn, quan niệm sống, giá trị sống có nhiều nét khác biệt so với thời kì trước.

Tiền bạc là gì? Tiền bạc là phương tiện để trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay một số các quốc gia có chung sự mã hóa với nhau về tiền bạc. Nó thuộc phạm trù vật chất. Vật chất có vai trò rất quan trọng trong đời sống. Nó cung ứng cho ta các đồ dùng, vật dụng để duy trì sự sống. Ví dụ đơn giản muốn tồn tại được thì phải ăn muốn có ăn thì phải có tiền để mua đồ về nấu hay ra ngoài mua bát phở…

Vậy còn hạnh phúc phải hiểu như thế nào? Hạnh phúc là giá trị tinh thần, nó rất rộng và khó xác định. Hạnh phúc là trạng thái mãn nguyện và thoả mãn trong tâm hồn của con người trên mọi phương diện đời sống. Hạnh phúc đơn giản là đầy đủ cơm ăn áo mặc, được học hành đầy đủ. Hạnh phúc là khi ta sinh ra được lành lặn, đầy đủ các bộ phận. Hạnh phúc có thể là khi ta vượt qua khó khăn hay được điểm cao trong học tập… mỗi người có một cái nhìn riêng về hạnh phúc, ở tại mỗi thời điểm con người lại có những hạnh phúc khác nhau. Nhưng nhìn chung hạnh phúc có được khi cuộc sống no đủ về vật chất.

Mối quan hệ giữa tiền bạc và hạnh phúc là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Tiền bạc là cơ sở, tiền đề để có được hạnh phúc. Hạnh phúc là nhân tố thúc đẩy, là động lực để làm ra tiền bạc. Cuộc sống của con người nếu thiếu một trong hai sẽ không được trọn vẹn như mong đợi.

Trước tiên, tiền bạc là điều kiện để có được hạnh phúc. Tiền bạc đáp ứng cho cuộc sống về nhu cầu vật chất như nhà ở, xe cộ, đồ ăn, quần áo… đó là những đòi hỏi tối thiểu để duy trì sự sống. Nếu thiếu chúng cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Tiền bạc giúp cho thế giới tinh thần được thoải mái, mãn nguyện khi không quá lo lắng về gánh nặng cơm áo gạo tiền. Có tiền bạc sẽ cho ta những cuộc vui, những chuyến du lịch xa để giải tỏa stress. Có tiền bạc ta sẽ tự tin để làm điều mình muốn, thực hiện những dự định còn dang dở. Chính những điều đó là hạnh phúc đem lại khi có tiền bạc trong tay.

Tuy nhiên chúng ta đừng bao giờ tuyệt đối hóa vai trò của tiền bạc bởi điều đó khiến cho sự sống trở thành sự tồn tại, con người mải mê chạy theo giá trị vật chất mà quên mất rằng thế giới tâm hồn của mình đang bị khô héo, quên mất đi tình người cần có để làm giàu cho sự sống. Trong xã hội ngày nay không ít những người làm cha làm mẹ vì bị cuốn xoáy trong danh vọng, địa vị, đồng tiền mà không có thời gian dành cho gia đình, quan tâm chăm sóc con cái. Họ cứ nghĩ rằng có tiền là có hạnh phúc cho con để rồi những đứa trẻ nhẹ thì bị tủi thân, thiếu thốn tình cảm nặng thì bị trầm cảm hay lao vào những cuộc chơi vô bổ. Rồi có biết bao những con người vì tiền bạc mà sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức làm người, rồi có những vụ án giết người vì tiền bạc gây chấn động dư luận như: vụ án Lê Văn Luyện cướp tiệm vàng Bích Ngọc ở Bắc Giang giết hại vợ chồng chủ tiệm, đứa con 18 tháng tuổi và đứa lớn 8 tuổi bị chém đứt tay. Hay vụ án Nguyễn Hải Dương giết gia đình sáu người vì trả thù tình và cướp tài sản. Và còn biết bao điều đáng sợ vì tiền mà con người có thể làm. Đó là những vụ án nghiêm trọng hàng đầu gây rối loạn an ninh và gây xôn xao dư luận trong suốt một thời gian dài.

Mặt khác hạnh phúc là nhân tố để thúc đẩy ta nỗ lực làm ra nhiều tiền bạc. Bởi có hạnh phúc tinh thần thoải mái sẽ khiến ta thêm hưng phấn trong công việc, nảy sinh ra nhiều ý tưởng dự án mới để có cơ hội kiếm tiền. Hạnh phúc khiến ta đam mê với sự nghiệp mà mình theo đuổi để ta cố gắng không ngừng vì nó. Hạnh phúc cho ta động lực để vượt qua khó khăn tiến tới những điều tốt đẹp hơn.

Tiền bạc và hạnh phúc đều rất quan trọng đối với nhau, tuy nhiên nó không phụ thuộc hoàn toàn vào nhau. Đối với những con người coi trọng thế giới tinh thần thì họ không cần quá nhiều tiền bạc, chỉ cần được theo đuổi công việc mình yêu thích, sống cuộc sống như mong muốn vậy là hạnh phúc. Trong công việc nếu chỉ làm vì tiền thì sẽ mất đi sự hứng thú, nhanh rơi vào tình trạng chán nản, tuyệt vọng. Chính vì vậy để cân bằng được mối quan hệ giữa tiền bạc và hạnh phúc không phải là điều đơn giản và không phải ai cũng có thể làm được. Để vừa có tiền vừa có hạnh phúc bắt buộc ta phải có cái nhìn thấu đáo đánh giá đúng vai trò của chúng trong cuộc sống và phải luôn luôn làm chủ bản thân trong vòng xoáy ma lực đồng tiền.

Quan niệm về tiền bạc và hạnh phúc trong xã hội ngày nay có nhiều thay đổi, có lẽ suy nghĩ “Một túp lều tranh hai trái tim vàng” không còn phù hợp. Hãy có cái nhìn thực tế hơn về hạnh phúc, cũng đừng quá coi trọng tiền bạc bởi lòng tham là con quỷ dữ trong mỗi chúng ta cần điều chỉnh nó theo hướng tích cực. Tiền không phải là tất cả, có tiền nhưng không thể mua được hạnh phúc đúng nghĩa.

Tiền bạc và hạnh phúc hai phạm trù quan trọng, bao trùm lên đời sống con người. Tuy mỗi người có một quan niệm, suy nghĩ, cách nhìn nhận về chúng khác nhau nhưng đừng để cuộc sống mất đi giá trị vì tiền bạc và hãy để cho hạnh phúc được thiết thực trong đời sống.

Đề bài: Nghị luận xã hội về tiền bạc và hạnh phúc.

I. Mở bài

– Dẫn dắt vấn đề: Trong cuộc sống con người có những mục tiêu và đích đến khác nhau

– Nêu vấn đề nghị luận: Tiền bạc và hạnh phúc có thể coi là hai mục tiêu, hai đích đến trong số những đích đến quan trọng của con người. Xoay quanh tiền bạc và hạnh phúc, có rất nhiều những ý kiến trái chiều khác nhau cần bàn luận

II. Thân bài

1. Giải thích

– Hạnh phúc: Trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn được như ý nguyện

⇒ Hạnh phúc có thể coi là mục tiêu phấn đấu của tất cả mọi người.

– Tiền bạc: Đại diện cho những giá trị vật chất, có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống con người và là mục tiêu phấn đấu của rất nhiều người

⇒ Tiền bạc và hạnh phúc có thể coi là hai vấn đề liên kết tương hỗ nhau

2. Vai trò của tiền bạc đối với hạnh phúc của một con người

– Cần khẳng định một thực tế tiền bạc đóng vai trò tương đối quan trọng trong việc tạo dựng hạnh phúc của một con người:

– Khi con người có tiền, họ sẽ không phải lo lắng về những vấn đề cơ bản của cuộc sống ⇒ hạnh phúc

    + Có tiền, con người có thể chăm sóc những giá trị vật chất cho bản thân: ăn uống, mua sắm

    + Có tiền, con người có thể chữa bệnh ⇒ hạnh phúc

    + Khi con người có đầy đủ những giá trị vật chất, khi đó con người mới có thể chăm óc cho tinh thần, mà ngay cả việc chăm sóc những giá trị tinh thần thì tiền cũng có vai trò quan trọng: Có tiền, con người có thể tự do đi du lịch, mở mang hiểu biết ⇒ hạnh phúc

– Dẫn chứng:

    + Các chương trình nhân đạo, từ thiện ủng hộ những hoàn cảnh khó khăn một khoản tiền để trang trải cuộc sống: Chương trình Vượt lên chính mình…

    + Các chương trình hỗ trợ trẻ em, những người mắc bệnh hiểm nghèo: Tiếp sức hồi sinh… ⇒ Nếu không có tiền, không thể đem lại hạnh phúc cho những người thiếu may mắn, không may mắc bệnh hiểm nghèo

3. Hạnh phúc có nhất thiết phải do tiền bạc tạo nên?

– Khẳng định tiền bạc có vai trò quan trọng đến hạnh phúc của con người, tuy nhiên không phải cứ có tiền bạc con người sẽ nắm trong tay hạnh phúc:

    + Những người có thật nhiều tiền mà sống vô ích, không có mộng tưởng, không có ý chí ⇒ Vô nghĩa, không tìm được niềm hạnh phúc thực sự

    + Niềm hạnh phúc đối với những đứa trẻ mồ côi là có được một cuộc sống gia đình đầy đủ

    + Niềm hạnh phúc của những người già chính là được sum vầy bên con cháu

– Dẫn chứng:

    + Rất nhiều gia đình giàu có, họ vẫn li hôn khiến cuộc sống của những cậu ấm, cô chiêu rơi vào đau khổ

    + Cha đẻ của tập đoàn Apple trong bức thư cuối đời trước khi ra đi đã nhắc đến việc cuối cùng thì tiền bạc cũng không đem lại cho con người được sức khỏe, ông đúc kết chân lí con người cần biết bảo vệ sức khỏe của bản thân

4. Làm thế nào để có được hạnh phúc trọn vẹn?

– Hạnh phúc là khi con người cảm thấy thực sự thoải mái và hài lòng với những gì đang có

– Sống một cách trọn vẹn: sóng đẹp, sống có ích, có lí tưởng

– Nhìn cuộc sống bằng con mắt đầy sự lạc quan và tích cực

– Phấn đấu vì mục tiêu hạnh phúc, dù nhỏ bé hay lớn lao

– Can đảm sống và làm những gì mình yêu thích

III. Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề nghị luận: Tiền bạc và hạnh phúc có quan hệ tương đối mật thiết, chúng ta không phủ nhận vai trò của tiền bạc trong việc tạo dựng hạnh phúc cho con người nhưng nhấn mạnh rằng tiền bạc không phải lúc nào cũng là tất cả

    Cuộc sống của con người luôn mong muốn và hướng tới được thỏa mãn cả về nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Đó là nhu cầu hết sức chính đáng của cuộc sống. Bởi vậy, giữa tiền bạc và hạnh phúc có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo nên sử thỏa mãn cho con người. Nhưng làm thế nào để hai yếu tố này cân bằng, hài hòa với nhau một cách trọn vẹn nhất?

    Trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là tiền bạc và thế nào là hạnh phúc? Tiền bạc là phương tiện để con người mua bán, trao đổi mọi vật dụng trong đời sống. Tiền bạc là đại diện cho vật chất. Ngược lại, hạnh phúc lại thiên về mặt tinh thần. Nó là những cảm xúc, cảm giác sung sướng cực điểm khi được thỏa nguyện về một vấn đề nào đó. Giữa tiền bạc và hạnh phúc có mối quan hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau.

    Tiền bạc là phương tiện để duy trì cuộc sống cho con ngươi. Mọi nhu yếu phẩm hàng ngày của chúng ta đều phải sử dụng đến tiền để duy trì cuộc sống: thực phẩm, quần áo, giáo dục, y tế,… Nếu không có tiền thì những nhu cầu tối thiểu đó con người cũng sẽ không được đáp ứng. Nếu có tiền, chúng ta sẽ được hưởng một cuộc sống thoải mái, tiện nghi, không chỉ vậy còn được hưởng những dịch vụ chăm sóc tốt nhất cho bản thân và cả gia đình. Có tiền chúng ta cũng có thể giúp đỡ người khác được nhiều hơn, tương trợ những người có hoàn cảnh éo le giúp họ vượt lên hoàn cảnh. Nếu chúng ta không có tiền, dù có gặp những người có hoàn cảnh éo le thì “lực bất tòng tâm”, tâm muốn giúp mà điều kiện, hoàn cảnh không cho phép. Chẳng phải điều đó cũng làm ta đau buồn đó sao. Bill Gates, một trong những người giàu nhất thế giới, ông đã dùng một phần tài sản của mình để giúp đỡ những trẻ em nghèo, những trẻ em lang thang cơ nhỡ ở các nước kém phát triển. Nếu Bill Gates chỉ là một người bình thường liệu ông có thể giúp đỡ và đem lại hạnh phúc cho nhiều người đến vậy không? Có tiền cũng là cơ hội giúp bạn thực hiện những mong muốn, mơ ước một cách nhanh chóng hơn. Như vậy, có tiền cũng là một phương tiện để chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Ở phương diện này đồng tiền không hề xấu.

    Nhưng ngược lại, tiền bạc cũng gây lên những áp lực, những hệ lụy khôn lường đối với con người. Người ta hăng say kiếm tiền mà bỏ quên những giá trị hạnh phúc đích thực, bỏ quên những người luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ họ. Ma lực của đồng tiền đôi khi làm người ta mờ mắt, sẵn sàng làm những việc xấu xa, băng hoại đạo đức để có được tiền.

    Tiền bạc còn phá vỡ mối quan hệ bình đẳng giữa con người với con người. Khoảng cách giàu nghèo quá lớn, khiến con người trở nên xa lạ với nhau, giữa những người không cùng “đẳng cấp” họ không thể tìm được tiếng nói chung. Tiền bạc còn là căn nguyên của mọi xích mích, biết bao gia đình đã tan nát vì tranh giành tiền bạc, tài sản,…

    Vậy chẳng lẽ hạnh phúc lại không có chút ý nghĩa gì, không có giá trị nào hay sao? Hoàn toàn không phải như vậy, khi chúng ta hạnh phúc, cơ thể thư giãn, thoải mái đó sẽ là điều kiện nảy nở những ý tưởng độc đáo, sáng tạo, là cơ hội biến những dự định thành hiện thực. Những người yêu đời, sống hạnh phúc bao giờ cũng dễ dàng thành công hơn những người sống u uất, trầm cảm.

    Không phải cứ có nhiều tiền chúng ta sẽ được sống hạnh phúc. Điều quan trọng với mỗi người là phải tạo nền sự cân bằng, hài hoa giữa tiền bạc và hạnh phúc, giữa nhu cầu về vật chất và những khát vọng về đời sống tinh thần. Chỉ khi ấy con người mới được hưởng một công sống thoải mái, thanh thản thực sự. Để có được điều đó, bản thân mỗi người cần nỗ lực, cố gắng không ngừng trong học tập, lao động. Hãy kiếm tiền bằng chính sức lao động của mình, dùng nó vào những mục đích chính đáng. Kiếm tiền nhưng cũng không quên quan tâm, chăm sóc những người xung quanh, không quên đem lại cho bản thân những giây phút nghỉ ngơi, thư giãn. Với những hạnh phúc đã có được phải trân trọng, gìn giữ, bởi tạo được hạnh phúc không hề đơn giản, đừng vì những lí do tiền bạc mà phũ phàng, phụ bạc nhau. Và mỗi người cần phải hiểu rằng, tiền bạc chỉ là một yếu tố nhỏ đem đến hạnh phúc cho con người không phải yếu tố quan trọng nhất. Hơn nữa, hạnh phúc có thể làm ra của cải, tiền bạc còn tiền bạc chưa chắc đã đem đến hạnh phúc thực sự cho con người.

    Trong cuộc sống hiện đại, tiền bạc và hạnh phúc đều có vị trí, ý nghĩa quan trọng. Điều quan trọng là mỗi chúng ta cần phải có thái độ, cách nhìn nhận đúng đắn giữa hai phương diện vật chất này. Không nên quá đề cao tiền bạc mà hạ thấp hạnh phúc, bởi vậy bạn sẽ rơi vào cô đơn. Cân bằng giữa hai yếu tố trên, lấy hạnh phúc là cơ sở là mục đích phấn đấu sẽ đem lại cho bạn cuộc sống đầy tốt đẹp và ý nghĩa.

   Cuộc sống của con người được tạo nên bởi hai yếu tố vật chất và tinh thần. Đại diện cho nó là tiền bạc và hạnh phúc, giữa chúng có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau, có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển nhu cầu vật chất càng tăng cao, hạnh phúc càng thiết thực hơn, quan niệm sống, giá trị sống có nhiều nét khác biệt so với thời kì trước.

   Tiền bạc là gì? Tiền bạc là phương tiện để trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay một số các quốc gia có chung sự mã hóa với nhau về tiền bạc. Nó thuộc phạm trù vật chất. Vật chất có vai trò rất quan trọng trong đời sống. Nó cung ứng cho ta các đồ dùng, vật dụng để duy trì sự sống. Ví dụ đơn giản muốn tồn tại được thì phải ăn muốn có ăn thì phải có tiền để mua đồ về nấu hay ra ngoài mua bát phở…

   Vậy còn hạnh phúc phải hiểu như thế nào? Hạnh phúc là giá trị tinh thần, nó rất rộng và khó xác định. Hạnh phúc là trạng thái mãn nguyện và thoả mãn trong tâm hồn của con người trên mọi phương diện đời sống. Hạnh phúc đơn giản là đầy đủ cơm ăn áo mặc, được học hành đầy đủ. Hạnh phúc là khi ta sinh ra được lành lặn, đầy đủ các bộ phận. Hạnh phúc có thể là khi ta vượt qua khó khăn hay được điểm cao trong học tập… mỗi người có một cái nhìn riêng về hạnh phúc, ở tại mỗi thời điểm con người lại có những hạnh phúc khác nhau. Nhưng nhìn chung hạnh phúc có được khi cuộc sống no đủ về vật chất.

   Mối quan hệ giữa tiền bạc và hạnh phúc là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Tiền bạc là cơ sở, tiền đề để có được hạnh phúc. Hạnh phúc là nhân tố thúc đẩy, là động lực để làm ra tiền bạc. Cuộc sống của con người nếu thiếu một trong hai sẽ không được trọn vẹn như mong đợi.

   Trước tiên, tiền bạc là điều kiện để có được hạnh phúc. Tiền bạc đáp ứng cho cuộc sống về nhu cầu vật chất như nhà ở, xe cộ, đồ ăn, quần áo… đó là những đòi hỏi tối thiểu để duy trì sự sống. Nếu thiếu chúng cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Tiền bạc giúp cho thế giới tinh thần được thoải mái, mãn nguyện khi không quá lo lắng về gánh nặng cơm áo gạo tiền. Có tiền bạc sẽ cho ta những cuộc vui, những chuyến du lịch xa để giải tỏa stress. Có tiền bạc ta sẽ tự tin để làm điều mình muốn, thực hiện những dự định còn dang dở. Chính những điều đó là hạnh phúc đem lại khi có tiền bạc trong tay.

   Tuy nhiên chúng ta đừng bao giờ tuyệt đối hóa vai trò của tiền bạc bởi điều đó khiến cho sự sống trở thành sự tồn tại, con người mải mê chạy theo giá trị vật chất mà quên mất rằng thế giới tâm hồn của mình đang bị khô héo, quên mất đi tình người cần có để làm giàu cho sự sống. Trong xã hội ngày nay không ít những người làm cha làm mẹ vì bị cuốn xoáy trong danh vọng, địa vị, đồng tiền mà không có thời gian dành cho gia đình, quan tâm chăm sóc con cái. Họ cứ nghĩ rằng có tiền là có hạnh phúc cho con để rồi những đứa trẻ nhẹ thì bị tủi thân, thiếu thốn tình cảm nặng thì bị trầm cảm hay lao vào những cuộc chơi vô bổ. Rồi có biết bao những con người vì tiền bạc mà sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức làm người, rồi có những vụ án giết người vì tiền bạc gây chấn động dư luận như: vụ án Lê Văn Luyện cướp tiệm vàng Bích Ngọc ở Bắc Giang giết hại vợ chồng chủ tiệm, đứa con 18 tháng tuổi và đứa lớn 8 tuổi bị chém đứt tay. Hay vụ án Nguyễn Hải Dương giết gia đình sáu người vì trả thù tình và cướp tài sản. Và còn biết bao điều đáng sợ vì tiền mà con người có thể làm. Đó là những vụ án nghiêm trọng hàng đầu gây rối loạn an ninh và gây xôn xao dư luận trong suốt một thời gian dài.

   Mặt khác hạnh phúc là nhân tố để thúc đẩy ta nỗ lực làm ra nhiều tiền bạc. Bởi có hạnh phúc tinh thần thoải mái sẽ khiến ta thêm hưng phấn trong công việc, nảy sinh ra nhiều ý tưởng dự án mới để có cơ hội kiếm tiền. Hạnh phúc khiến ta đam mê với sự nghiệp mà mình theo đuổi để ta cố gắng không ngừng vì nó. Hạnh phúc cho ta động lực để vượt qua khó khăn tiến tới những điều tốt đẹp hơn.

   Tiền bạc và hạnh phúc đều rất quan trọng đối với nhau, tuy nhiên nó không phụ thuộc hoàn toàn vào nhau. Đối với những con người coi trọng thế giới tinh thần thì họ không cần quá nhiều tiền bạc, chỉ cần được theo đuổi công việc mình yêu thích, sống cuộc sống như mong muốn vậy là hạnh phúc. Trong công việc nếu chỉ làm vì tiền thì sẽ mất đi sự hứng thú, nhanh rơi vào tình trạng chán nản, tuyệt vọng. Chính vì vậy để cân bằng được mối quan hệ giữa tiền bạc và hạnh phúc không phải là điều đơn giản và không phải ai cũng có thể làm được. Để vừa có tiền vừa có hạnh phúc bắt buộc ta phải có cái nhìn thấu đáo đánh giá đúng vai trò của chúng trong cuộc sống và phải luôn luôn làm chủ bản thân trong vòng xoáy ma lực đồng tiền.

   Quan niệm về tiền bạc và hạnh phúc trong xã hội ngày nay có nhiều thay đổi, có lẽ suy nghĩ “Một túp lều tranh hai trái tim vàng” không còn phù hợp. Hãy có cái nhìn thực tế hơn về hạnh phúc, cũng đừng quá coi trọng tiền bạc bởi lòng tham là con quỷ dữ trong mỗi chúng ta cần điều chỉnh nó theo hướng tích cực. Tiền không phải là tất cả, có tiền nhưng không thể mua được hạnh phúc đúng nghĩa.

   Tiền bạc và hạnh phúc hai phạm trù quan trọng, bao trùm lên đời sống con người. Tuy mỗi người có một quan niệm, suy nghĩ, cách nhìn nhận về chúng khác nhau nhưng đừng để cuộc sống mất đi giá trị vì tiền bạc và hãy để cho hạnh phúc được thiết thực trong đời sống.

Đề bài: Nghị luận xã hội về tác hại của tệ nạn với cuộc sống của con người

I. Mở bài

– Dẫn dắt vấn đề: Xã hội đang phát triển từng ngày kéo theo nhiêu vấn nạn gia tăng

– Nêu vấn đề nghị luận: Tệ nạn xã hội để lại những tác hại to lớn đối với sự phát triển nhân cách con người và xã hội

II. Thân bài

1. Giải thích hiện tượng

– Tệ nạn xã hội là hiện tượng phổ biến là những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức, bại hoại nhân cách , ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, cản trở sự phát triển lành mạnh của đất nước

– Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc ,rượu chè ,hút thuốc lá ,ma túy, mê tín dị đoan…

2. Thực trạng tệ nạn xã hội hiện nay

– Bên cạnh sự phát triển từng ngày của đất nước thì các tệ nạn cũng đang lan rộng và phức tạp hơn

– Các tệ nạn xã hội phổ biến ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống

3. Tác hại

– Tệ nạn xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe,về mặt tinh thần thể xác thậm trí là cả tính mạng

– Làm cho xa hội trở nên không lành mạnh

– Làm cho đất nước kém phát triển , xã hội không còn tốt đẹp văn minh

– Gia đình tan nát :Vợ chồng li dị, cha mẹ mất con cái… gây nên những cảnh đau thương

– Làm con người lương thiện trở nên mất nhân tính bấp chấp mọi thứ

– Gây nên nhiều vụ giết người cướp của ảnh hưởng xấu đến an ninh đất nước

4. Nguyên nhân

– Nguyên nhân hàng đầu là do bản thân mỗi người không có ý thức , không làm chủ được bản thân trước những cám dỗ của tệ nạn xã hội

– Do hoàn cảnh gia đình nghèo túng muốn kiếm được tiền từ các tệ nạn như cờ bạc , cá độ…

– Mặt khác cũng là do hoàn cảnh gia đình khá giả nên sa vào các tệ nạn xã hội

– Bản thân mỗi người lười lao động, học đòi, bắt chước…

– Do gia đình , nhà trường quản lí con em chưa chặt chẽ , không có thời gian quan tâm con cái

– Do pháp luật nước ta chưa thực sự nghiêm minh chưa có những biện pháp xử lí thật mạnh nên vẫn còn nhiều người sa vào tệ nạn xã hội

– Do bạn bè rủ rê lôi kéo

5. Giải pháp và liên hệ bản thân

– Bản thân mỗi người cần tự ý thức, làm chủ bản thân tránh xa các tệ nạn xã hội

– Gia đình nhà trường cần có các biện pháp giáo dục quản lí con em để không sa vào tệ nạn xã hội

– Hạn chế cho con em sử dụng nhiều các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo… để tránh bị bạn bè rủ rê lôi kéo…

– Tuyên truyền cho mọi người biết được tác hại ghê gớm của các tệ nạn xã hội từ đó mà có ý thức tránh xa

– Cơ quan nhà nước cần xử lí nghiêm các đối tượng vi phạm pháp luật

– Liên hệ bản thân: Mỗi chúng ta , nhất là lứa tuổi học sinh tâm sinh lí đang thay đổi cần giữ mình không để bản thân sa vào các tệ nạn xã hội

III. Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề : Tệ nạn xã hội luôn là mỗi lo ngại hàng đầu của đất nước , đó là mối nguy hại không chỉ trước mắt mà còn là lâu dài cần tháo gỡ

– Lời nhắn đến mọi người : Nếu mỗi người sống một cách văn minh thì chắc chắn tệ nạn sẽ được đấy lùi

Đề bài: Nghị luận xã hội về tác hại của tệ nạn với cuộc sống của con người

    Nhờ tiến bộ của khoa học kĩ thuật, y tế những căn bệnh như dịch hạch, dịch thổ tả,… đã tìm ra vacxin khống chế. Nhưng có những căn bệnh, những tện nạn xã hội thì ngày càng lây lan mạnh mẽ, mà nếu bản thân mỗi người, xã hội không có hành động kịp thời chúng sẽ bùng phát thành đại dịch khó lòng có thể ngăn chặn nổi.

    Tệ nạn xã hội có thể hiểu là những hiện tượng xấu, hành vi không đúng chuẩn mực đạo đức, …. xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội. Những tệ nạn này gây ra hậu quả nghiêm trọng cho gia đình và toàn xã hội. Một số tệ nạn xã hội tiêu biểu như: ma túy, mại dâm, thuốc lá, mê tín, … đây đều là những căn bệnh nguy hiểm, chúng liên hệ mật thiết với nhau, tác động xấu đến đời sống xã hội.

    Hiện nay ở nước ta tệ nạn xã hội ngày một phổ biến và phát triển dưới những hình thức hết sức tinh vi, khó lường. Tệ nạn hút thuốc lá ở Việt Nam vào hàng cao nhất thế giới, với 56% nam giới và 1,8% nữ giới, và tình trạng này ngày càng gia tăng. Tính đến tháng 6/2011 cả nước có 149.900 người nghiện ma túy, tăng 2,7 lần so với cuối năm 1994. Và từ đó đến nay con số này vẫn không ngừng gia tăng, nghiện ma túy tập trung chủ yếu ở những thành phố lớn, những địa phương giáp biên giới. Thực trạng mại dâm ở nước ta cũng vô cùng đáng lo ngại, theo báo cáo trên cả nước có 11.240 người hoạt động mại dâm, nhưng con số thực tế, không kiểm soát được còn lớn hơn rất nhiều. Đây chỉ là số liệu về một trong những tệ nạn chính, ngoài ra còn rất nhiều tệ nạn khác, đang ngày ngày gặm nhấm xã hội, kéo xã hội tụt hậu.

    Tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng trước hết là đến bản thân người sử dụng. Làm cơ thể ốm yếu, mắc những căn bệnh nghiêm trọng gây nguy hiểm đến tính mạng: ung thư, HIV/AIDS, …Không chỉ vậy còn làm băng hoại đạo đức, tinh thần, với những người nghiện ma túy họ sẵn sàng thực hiện mọi hành vi, kể cả giết người, cướp của để thỏa mãn cơn thèm của mình. Không chỉ vậy, tệ nạn xã hội còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến gia đình, những gia đình có người mắc tệ nạn thường kinh tế sa sút, bị tổn hại về tinh thần. Những gia đình có cha hoặc mẹ mắc tệ nạn sẽ trở thành hình ảnh xấu với con, khiến những đứa trẻ không được sống và phát triển trong một môi trường lành mạnh. Đây cũng là nguyên nhân khiến chúng phát triển lệch lạc về nhân cách, lối sống, suy nghĩ, ảnh hưởng tới tương lai đất nước.

    Đối với xã hội và đất nước, tệ nạn xã hội tràn làn trở thành gánh nặng kinh tế, là nguyên nhân kéo lùi nên kinh tế đất nước phát triển. tệ nạn xã hội còn làm rối loạn trật tự, an ninh xã hội, nạn trộm cắp, cướp của,… khiến người dân luôn phải sống trong nỗi bất an, lo lắng. Chúng ta hãy thử tưởng tượng một đất nước chỉ có những người mắc tệ nạn xã hội thì tương lai đất nước ấy sẽ đi về đâu?

    Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hoành hành của các tệ nạn xã hội hiện nay. Do bị bạn bè rủ rê, lôi kéo. Do gia đình không có sự quan tâm, đặc biệt với các bạn trẻ bố mẹ mải mê kiếm tiền, không chăm lo cho con cái, dẫn đến tâm lí chán nản, dễ dàng bị dụ dỗ. Do thất nghiệp, lười lao động, ông cha ta vẫn thường có câu “nhàn cư vi bất thiện”, khi nhàn dỗi thường dẫn con người đến những thú ăn chơi, hưởng lạc, dễ dàng sa ngã. Nhưng quan trọng nhất vẫn là do bản thân không có lập trường vững vàng, không làm chủ được bản thân trước những cám dỗ của cuộc sống.

    Mặc dù các tệ nạn này ngày một bùng phát mạnh mẽ nhưng không có nghĩa là chúng ta bỏ mặc, chỉ cần tất cả mọi người chung tay, góp sức, tất yếu tệ nạn xã hội sẽ bị đẩy lùi. Bản thân mỗi người cần phải ý thức những tác hại nguy hiểm, khôn lường mà những tệ nạn xã hội gây ra với bản thân và gia đình, sẽ hội. Tránh xa mọi lời rủ rê, lôi kéo từ những người có lối sống không lành mạnh. Dũng cảm lên án, tố cáo những người mắc tệ nạn xã hội. Bản thân không ngừng nỗ lực, cố gắng học tập, rèn luyện đạo đức, sống có mục tiêu, lí tưởng để trở thành con người có ích, xây dựng quê hương, đất nước.

    Bên cạnh đó cũng cần sự phối hợp của gia đình, nhà trường và xã hội. Gia đình cần dành thời gian quan tâm, chăm sóc con cái, có những định hướng đúng đắn để con cái phát triển lành mạnh. Nhà trường cần tổ chức các buổi ngoại khóa, tuyên truyền để học sinh thấy được những tác hại nghiêm trọng của tệ nạn xã hội đối với bản thân. Đặc biệt, xã hội cần phải chung tay kết hợp với các cơ quan chức năng đẩy lùi tệ nạn xã hội. với những gia đình có người mắc tệ nạn xã hội còn khuyên bảo họ từ bỏ, đồng thời không có thái độ, phân biệt, kì thị, để họ dễ dàng tái hòa nhập với cộng đồng sau khi đã từ bỏ được các tệ nạn.

    Bản thân chúng ta là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường cần phải tích cực học tập, không ngừng nỗ lực cố gắng. Hãy nói không và tránh xa các tệ nạn xã hội, để bảo vệ chính mình và bảo vệ truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.

    Tệ nạn xã hội luôn là vấn đề nan giải của gia đình và toàn thể xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống và sự phát triển của đất nước. Là mầm non tương lai của đất nước chúng ta phải cùng nhau chung tay đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tạo môi trường trong lành để phát triển, đồng thời cũng là để thực hiện trách nhiệm của mỗi công dân đối với đất nước.

Đề bài: Nghị luận xã hội về tác hại của tệ nạn với cuộc sống của con người

Thời đại 4.0 phát triển cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ hơn tuy nhiên vẫn còn tồn tại thế giới của bóng tối đó là những tệ nạn xã hội đang hoành hành với biểu hiện đa dạng và tác hại nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu tới đời sống con người. Đây là một vấn đề nóng luôn nhận được sự quan tâm của cộng đồng từ trước đến nay.

Vậy tệ nạn xã hội là gì? Theo định nghĩa của Luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “Tệ nạn xã hội là hiện tượng bao gồm các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và pháp luật, gây hậu quả xấu về mọi mặt”. Muốn hiểu được như thế nào hành vi sai lệch trước tiên ta phải hiểu chuẩn mực xã hội là gì? Đó là sự yêu cầu hoặc mong đợi của cộng đồng đưa ra tạo thành khuôn mẫu cho các thành viên trong đó để tạo dựng một xã hôi tốt đẹp hơn. Chuẩn mực xã hội theo các nhà khoa học nó được chia làm hai nhóm: Thứ nhất “Chuẩn mực bắt buộc phổ biến cho toàn xã hội và gắn với nó là sự trừng phạt công khai”. Thứ hai “Chuẩn mực mong đợi phổ biến cho toàn xã hội nhưng mang tính đặc thù cho các nhóm xã hội”. Soi vào đó ta thấy các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là những việc làm không nằm trong khuôn mẫu chuẩn mực, không được coi là bình thường, đi chệch hướng mà số đông mong muốn.

Tệ nạn xã hội ngày càng đa dạng, phổ biến dưới mọi hình thức và có mặt ở mọi nơi, mọi ngành nghề dù là nơi thành thị phát triển hay nông thôn nghèo khó, dù là nhà trường văn minh hay ngay trong bộ máy cấp cao của nhà nước. Tuy nhiên ở bài viết này chúng ta sẽ điểm qua các tệ nạn nổi trội, tiêu biểu với những tác hại nghiêm trọng.

Nguy hại hơn tất cả là tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm. Đây là loại chiếm số lượng lớn nhất, nguy hiểm nhất đặc biệt là ma túy theo số liệu thống kê năm 2017 của Bộ công an cả nước ta có 210.751 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý tuy nhiên con số còn bỏ sót rất nhiều. Nghiện cờ bạc “là bác thằng bần. Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm” nghiện ma túy, mại dâm ảnh hưởng đến sức khỏe và là con đường nhanh nhất bị lây nhiễm HIV/AIDS, con đường ngắn nhất dẫn đến tội ác giết người gây ra biết bao hậu quả nghiêm trọng.

Một tệ nạn nguy hại không kém là tham nhũng, quan liêu của các quan chức cấp cao trong bộ máy lãnh đạo. Những ngày gần đây vụ án của ông Đinh La Thăng_Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lĩnh bản án 18 năm tù trong vụ PVN thất thoát 800 tỉ đồng. Những người cán bộ theo Hồ Chí Minh nhận định: “Mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng mình vào Đảng là để làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan nhân dân và phải làm cho tốt”. Những con người ấy phải phục vụ cho lợi ích của quần chúng nhưng lại có những hành vi ngược với đạo đức trái với pháp luật, làm cho đất nước bị tụt hậu. Có những “Con sâu làm rầu nồi canh” và còn biết bao con sâu còn ở trong “nồi canh” ấy cần được loại trừ để cho đất nước này không còn tệ nạn tham ô, tham nhũng.

Tệ nạn ấu dâm-xâm hại tình dục trẻ em không còn là điều quá xa lạ với vụ án của nghệ sĩ Minh Béo bị khởi tố ở Mỹ năm 2016 là một bài học đắt giá cho người Việt Nam. Gần đây nhất dư luận đang lên tiếng với bản án treo của bị cáo Nguyễn Khắc Thủy cụ già 77 tuổi dâm ô trẻ ở Vũng Tàu-vụ án có nhiều bức xúc cho cộng đồng cũng là hồi chuông cảnh báo cho nạn ấu dâm đang ngày càng nguy hại, cảnh tỉnh cho các bậc phụ huynh phải quan tâm, bảo vệ con trẻ.

Bên cạnh đó những người trẻ-thế hệ tương lai sáng lạn của đất nước ở ngày mai không ít người đang u mê, tăm tối nghiện game, ham chơi đua đòi làm ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức.

Mỗi một loại tệ nạn gây ra tác hại khác nhau nhưng nhìn chung nó vô cùng nghiêm trọng trong đời sống. Trước tiên đối với bản thân người tham gia tệ nạn là ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tinh thần, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, khiến cho những người thân yêu luôn lo lắng bất an. Đối với gia đình phải chịu điều tai tiếng không tốt của hàng xóm láng giềng, kinh tế bị sụt giảm nghiêm trọng, tinh thần không được vui vẻ, thoải mái. Đối với xã hội nó làm mất đi giá trị đạo đức-truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thay vì “Thương người như thể thương thân” thì đó là cướp của, giết người coi rẻ sinh mạng. Làm rối loạn trật tự an toàn xã hội, con người khi ra đường có thể bị đe dọa đến tính mạng bất cứ lúc nào. Sự văn minh tiến bộ của đất nước bị thụt lùi, cái nhìn của các dân tộc khác với Việt Nam không thực sự tốt đẹp…

Vậy nguyên nhân nào dẫn tới điều đó? Biện pháp khắc phục ra sao? Nguyên nhân xuất phát từ bản thân mỗi cá nhân ý thức còn kém, thiếu hiểu biết do chưa được giáo dục tốt. Khả năng tự chủ chưa cao dễ bị lôi kéo, dụ dỗ. Tư tưởng chưa vững vàng khi đứng trước nghịch cảnh khó khăn. Chính vì vậy mà mỗi người phải nâng cao ý thức, sự hiểu biết của mình đối với tác hại của tệ nạn, luôn luôn phải có tư tưởng tránh xa chúng, tích cực sống lối sống lành mạnh, học tập và rèn luyện thật tốt. Bên cạnh đó nguyên nhân còn đến từ xã hội do chính sách của nền kinh tế thị trường, sự du nhập văn hóa phẩm đồi trụy, sự phát triển vũ bão của internet và một số lỗ hổng của kỉ cương pháp luật. Nên biện pháp phòng tránh cũng phải đến từ cộng đồng cùng nhau chung tay góp sức đẩy lùi tệ nạn.

Là một người trẻ còn ngồi trên ghế nhà trường em ý thức được tác hại nghiêm trọng mà tệ nạn xã hội gây ra, trong tâm thức em luôn trăn trở mình phải làm gì để góp phần đẩy lùi “căn bệnh” ấy. Bản thân em trước tiên luôn không ngừng cố gắng học tập thật tốt, rèn luyện và tu dưỡng bản thân đi theo các chuẩn mực xã hội. Tích cực tham gia các hoạt đông tuyên truyền cho mọi người tránh xa các tệ nạn. Mỗi người là một mạch máu chảy trong cùng một cơ thể lớn dân tộc, “Mỗi một gia đình là một tế bào của xã hội” để cho đất Việt ngày càng văn minh tốt đẹp mỗi chúng ta hãy nói KHÔNG với tệ nạn.

Đề bài:

I. Mở bài

– Dẫn dắt vấn đề: Xã hội đang phát triển từng ngày kéo theo nhiêu vấn nạn gia tăng

– Nêu vấn đề nghị luận: Tệ nạn xã hội để lại những tác hại to lớn đối với sự phát triển nhân cách con người và xã hội

II. Thân bài

1. Giải thích hiện tượng

– Tệ nạn xã hội là hiện tượng phổ biến là những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức, bại hoại nhân cách , ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, cản trở sự phát triển lành mạnh của đất nước

– Các tệ nạn xã hội như: cờ bạc ,rượu chè ,hút thuốc lá ,ma túy, mê tín dị đoan…

2. Thực trạng tệ nạn xã hội hiện nay

– Bên cạnh sự phát triển từng ngày của đất nước thì các tệ nạn cũng đang lan rộng và phức tạp hơn

– Các tệ nạn xã hội phổ biến ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống

3. Tác hại

– Tệ nạn xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe,về mặt tinh thần thể xác thậm trí là cả tính mạng

– Làm cho xa hội trở nên không lành mạnh

– Làm cho đất nước kém phát triển , xã hội không còn tốt đẹp văn minh

– Gia đình tan nát :Vợ chồng li dị, cha mẹ mất con cái… gây nên những cảnh đau thương

– Làm con người lương thiện trở nên mất nhân tính bấp chấp mọi thứ

– Gây nên nhiều vụ giết người cướp của ảnh hưởng xấu đến an ninh đất nước

4. Nguyên nhân

– Nguyên nhân hàng đầu là do bản thân mỗi người không có ý thức , không làm chủ được bản thân trước những cám dỗ của tệ nạn xã hội

– Do hoàn cảnh gia đình nghèo túng muốn kiếm được tiền từ các tệ nạn như cờ bạc , cá độ…

– Mặt khác cũng là do hoàn cảnh gia đình khá giả nên sa vào các tệ nạn xã hội

– Bản thân mỗi người lười lao động, học đòi, bắt chước…

– Do gia đình , nhà trường quản lí con em chưa chặt chẽ , không có thời gian quan tâm con cái

– Do pháp luật nước ta chưa thực sự nghiêm minh chưa có những biện pháp xử lí thật mạnh nên vẫn còn nhiều người sa vào tệ nạn xã hội

– Do bạn bè rủ rê lôi kéo

5. Giải pháp và liên hệ bản thân

– Bản thân mỗi người cần tự ý thức, làm chủ bản thân tránh xa các tệ nạn xã hội

– Gia đình nhà trường cần có các biện pháp giáo dục quản lí con em để không sa vào tệ nạn xã hội

– Hạn chế cho con em sử dụng nhiều các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo… để tránh bị bạn bè rủ rê lôi kéo…

– Tuyên truyền cho mọi người biết được tác hại ghê gớm của các tệ nạn xã hội từ đó mà có ý thức tránh xa

– Cơ quan nhà nước cần xử lí nghiêm các đối tượng vi phạm pháp luật

– Liên hệ bản thân: Mỗi chúng ta , nhất là lứa tuổi học sinh tâm sinh lí đang thay đổi cần giữ mình không để bản thân sa vào các tệ nạn xã hội

III. Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề : Tệ nạn xã hội luôn là mỗi lo ngại hàng đầu của đất nước , đó là mối nguy hại không chỉ trước mắt mà còn là lâu dài cần tháo gỡ

– Lời nhắn đến mọi người : Nếu mỗi người sống một cách văn minh thì chắc chắn tệ nạn sẽ được đấy lùi

   Nhờ tiến bộ của khoa học kĩ thuật, y tế những căn bệnh như dịch hạch, dịch thổ tả,… đã tìm ra vacxin khống chế. Nhưng có những căn bệnh, những tện nạn xã hội thì ngày càng lây lan mạnh mẽ, mà nếu bản thân mỗi người, xã hội không có hành động kịp thời chúng sẽ bùng phát thành đại dịch khó lòng có thể ngăn chặn nổi.

    Tệ nạn xã hội có thể hiểu là những hiện tượng xấu, hành vi không đúng chuẩn mực đạo đức, …. xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội. Những tệ nạn này gây ra hậu quả nghiêm trọng cho gia đình và toàn xã hội. Một số tệ nạn xã hội tiêu biểu như: ma túy, mại dâm, thuốc lá, mê tín, … đây đều là những căn bệnh nguy hiểm, chúng liên hệ mật thiết với nhau, tác động xấu đến đời sống xã hội.

    Hiện nay ở nước ta tệ nạn xã hội ngày một phổ biến và phát triển dưới những hình thức hết sức tinh vi, khó lường. Tệ nạn hút thuốc lá ở Việt Nam vào hàng cao nhất thế giới, với 56% nam giới và 1,8% nữ giới, và tình trạng này ngày càng gia tăng. Tính đến tháng 6/2011 cả nước có 149.900 người nghiện ma túy, tăng 2,7 lần so với cuối năm 1994. Và từ đó đến nay con số này vẫn không ngừng gia tăng, nghiện ma túy tập trung chủ yếu ở những thành phố lớn, những địa phương giáp biên giới. Thực trạng mại dâm ở nước ta cũng vô cùng đáng lo ngại, theo báo cáo trên cả nước có 11.240 người hoạt động mại dâm, nhưng con số thực tế, không kiểm soát được còn lớn hơn rất nhiều. Đây chỉ là số liệu về một trong những tệ nạn chính, ngoài ra còn rất nhiều tệ nạn khác, đang ngày ngày gặm nhấm xã hội, kéo xã hội tụt hậu.

    Tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng trước hết là đến bản thân người sử dụng. Làm cơ thể ốm yếu, mắc những căn bệnh nghiêm trọng gây nguy hiểm đến tính mạng: ung thư, HIV/AIDS, …Không chỉ vậy còn làm băng hoại đạo đức, tinh thần, với những người nghiện ma túy họ sẵn sàng thực hiện mọi hành vi, kể cả giết người, cướp của để thỏa mãn cơn thèm của mình. Không chỉ vậy, tệ nạn xã hội còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến gia đình, những gia đình có người mắc tệ nạn thường kinh tế sa sút, bị tổn hại về tinh thần. Những gia đình có cha hoặc mẹ mắc tệ nạn sẽ trở thành hình ảnh xấu với con, khiến những đứa trẻ không được sống và phát triển trong một môi trường lành mạnh. Đây cũng là nguyên nhân khiến chúng phát triển lệch lạc về nhân cách, lối sống, suy nghĩ, ảnh hưởng tới tương lai đất nước.

    Đối với xã hội và đất nước, tệ nạn xã hội tràn làn trở thành gánh nặng kinh tế, là nguyên nhân kéo lùi nên kinh tế đất nước phát triển. tệ nạn xã hội còn làm rối loạn trật tự, an ninh xã hội, nạn trộm cắp, cướp của,… khiến người dân luôn phải sống trong nỗi bất an, lo lắng. Chúng ta hãy thử tưởng tượng một đất nước chỉ có những người mắc tệ nạn xã hội thì tương lai đất nước ấy sẽ đi về đâu?

    Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hoành hành của các tệ nạn xã hội hiện nay. Do bị bạn bè rủ rê, lôi kéo. Do gia đình không có sự quan tâm, đặc biệt với các bạn trẻ bố mẹ mải mê kiếm tiền, không chăm lo cho con cái, dẫn đến tâm lí chán nản, dễ dàng bị dụ dỗ. Do thất nghiệp, lười lao động, ông cha ta vẫn thường có câu “nhàn cư vi bất thiện”, khi nhàn dỗi thường dẫn con người đến những thú ăn chơi, hưởng lạc, dễ dàng sa ngã. Nhưng quan trọng nhất vẫn là do bản thân không có lập trường vững vàng, không làm chủ được bản thân trước những cám dỗ của cuộc sống.

    Mặc dù các tệ nạn này ngày một bùng phát mạnh mẽ nhưng không có nghĩa là chúng ta bỏ mặc, chỉ cần tất cả mọi người chung tay, góp sức, tất yếu tệ nạn xã hội sẽ bị đẩy lùi. Bản thân mỗi người cần phải ý thức những tác hại nguy hiểm, khôn lường mà những tệ nạn xã hội gây ra với bản thân và gia đình, sẽ hội. Tránh xa mọi lời rủ rê, lôi kéo từ những người có lối sống không lành mạnh. Dũng cảm lên án, tố cáo những người mắc tệ nạn xã hội. Bản thân không ngừng nỗ lực, cố gắng học tập, rèn luyện đạo đức, sống có mục tiêu, lí tưởng để trở thành con người có ích, xây dựng quê hương, đất nước.

    Bên cạnh đó cũng cần sự phối hợp của gia đình, nhà trường và xã hội. Gia đình cần dành thời gian quan tâm, chăm sóc con cái, có những định hướng đúng đắn để con cái phát triển lành mạnh. Nhà trường cần tổ chức các buổi ngoại khóa, tuyên truyền để học sinh thấy được những tác hại nghiêm trọng của tệ nạn xã hội đối với bản thân. Đặc biệt, xã hội cần phải chung tay kết hợp với các cơ quan chức năng đẩy lùi tệ nạn xã hội. với những gia đình có người mắc tệ nạn xã hội còn khuyên bảo họ từ bỏ, đồng thời không có thái độ, phân biệt, kì thị, để họ dễ dàng tái hòa nhập với cộng đồng sau khi đã từ bỏ được các tệ nạn.

    Bản thân chúng ta là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường cần phải tích cực học tập, không ngừng nỗ lực cố gắng. Hãy nói không và tránh xa các tệ nạn xã hội, để bảo vệ chính mình và bảo vệ truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.

    Tệ nạn xã hội luôn là vấn đề nan giải của gia đình và toàn thể xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống và sự phát triển của đất nước. Là mầm non tương lai của đất nước chúng ta phải cùng nhau chung tay đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tạo môi trường trong lành để phát triển, đồng thời cũng là để thực hiện trách nhiệm của mỗi công dân đối với đất nước.

   Thời đại 4.0 phát triển cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ hơn tuy nhiên vẫn còn tồn tại thế giới của bóng tối đó là những tệ nạn xã hội đang hoành hành với biểu hiện đa dạng và tác hại nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu tới đời sống con người. Đây là một vấn đề nóng luôn nhận được sự quan tâm của cộng đồng từ trước đến nay.

   Vậy tệ nạn xã hội là gì? Theo định nghĩa của Luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “Tệ nạn xã hội là hiện tượng bao gồm các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức và pháp luật, gây hậu quả xấu về mọi mặt”. Muốn hiểu được như thế nào hành vi sai lệch trước tiên ta phải hiểu chuẩn mực xã hội là gì? Đó là sự yêu cầu hoặc mong đợi của cộng đồng đưa ra tạo thành khuôn mẫu cho các thành viên trong đó để tạo dựng một xã hôi tốt đẹp hơn. Chuẩn mực xã hội theo các nhà khoa học nó được chia làm hai nhóm: Thứ nhất “Chuẩn mực bắt buộc phổ biến cho toàn xã hội và gắn với nó là sự trừng phạt công khai”. Thứ hai “Chuẩn mực mong đợi phổ biến cho toàn xã hội nhưng mang tính đặc thù cho các nhóm xã hội”. Soi vào đó ta thấy các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội là những việc làm không nằm trong khuôn mẫu chuẩn mực, không được coi là bình thường, đi chệch hướng mà số đông mong muốn.

   Tệ nạn xã hội ngày càng đa dạng, phổ biến dưới mọi hình thức và có mặt ở mọi nơi, mọi ngành nghề dù là nơi thành thị phát triển hay nông thôn nghèo khó, dù là nhà trường văn minh hay ngay trong bộ máy cấp cao của nhà nước. Tuy nhiên ở bài viết này chúng ta sẽ điểm qua các tệ nạn nổi trội, tiêu biểu với những tác hại nghiêm trọng.

   Nguy hại hơn tất cả là tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm. Đây là loại chiếm số lượng lớn nhất, nguy hiểm nhất đặc biệt là ma túy theo số liệu thống kê năm 2017 của Bộ công an cả nước ta có 210.751 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý tuy nhiên con số còn bỏ sót rất nhiều. Nghiện cờ bạc “là bác thằng bần. Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm” nghiện ma túy, mại dâm ảnh hưởng đến sức khỏe và là con đường nhanh nhất bị lây nhiễm HIV/AIDS, con đường ngắn nhất dẫn đến tội ác giết người gây ra biết bao hậu quả nghiêm trọng.

   Một tệ nạn nguy hại không kém là tham nhũng, quan liêu của các quan chức cấp cao trong bộ máy lãnh đạo. Những ngày gần đây vụ án của ông Đinh La Thăng_Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lĩnh bản án 18 năm tù trong vụ PVN thất thoát 800 tỉ đồng. Những người cán bộ theo Hồ Chí Minh nhận định: “Mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng mình vào Đảng là để làm đầy tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan nhân dân và phải làm cho tốt”. Những con người ấy phải phục vụ cho lợi ích của quần chúng nhưng lại có những hành vi ngược với đạo đức trái với pháp luật, làm cho đất nước bị tụt hậu. Có những “Con sâu làm rầu nồi canh” và còn biết bao con sâu còn ở trong “nồi canh” ấy cần được loại trừ để cho đất nước này không còn tệ nạn tham ô, tham nhũng.

   Tệ nạn ấu dâm-xâm hại tình dục trẻ em không còn là điều quá xa lạ với vụ án của nghệ sĩ Minh Béo bị khởi tố ở Mỹ năm 2016 là một bài học đắt giá cho người Việt Nam. Gần đây nhất dư luận đang lên tiếng với bản án treo của bị cáo Nguyễn Khắc Thủy cụ già 77 tuổi dâm ô trẻ ở Vũng Tàu-vụ án có nhiều bức xúc cho cộng đồng cũng là hồi chuông cảnh báo cho nạn ấu dâm đang ngày càng nguy hại, cảnh tỉnh cho các bậc phụ huynh phải quan tâm, bảo vệ con trẻ.

   Bên cạnh đó những người trẻ-thế hệ tương lai sáng lạn của đất nước ở ngày mai không ít người đang u mê, tăm tối nghiện game, ham chơi đua đòi làm ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức.

   Mỗi một loại tệ nạn gây ra tác hại khác nhau nhưng nhìn chung nó vô cùng nghiêm trọng trong đời sống. Trước tiên đối với bản thân người tham gia tệ nạn là ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tinh thần, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, khiến cho những người thân yêu luôn lo lắng bất an. Đối với gia đình phải chịu điều tai tiếng không tốt của hàng xóm láng giềng, kinh tế bị sụt giảm nghiêm trọng, tinh thần không được vui vẻ, thoải mái. Đối với xã hội nó làm mất đi giá trị đạo đức-truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thay vì “Thương người như thể thương thân” thì đó là cướp của, giết người coi rẻ sinh mạng. Làm rối loạn trật tự an toàn xã hội, con người khi ra đường có thể bị đe dọa đến tính mạng bất cứ lúc nào. Sự văn minh tiến bộ của đất nước bị thụt lùi, cái nhìn của các dân tộc khác với Việt Nam không thực sự tốt đẹp…

   Vậy nguyên nhân nào dẫn tới điều đó? Biện pháp khắc phục ra sao? Nguyên nhân xuất phát từ bản thân mỗi cá nhân ý thức còn kém, thiếu hiểu biết do chưa được giáo dục tốt. Khả năng tự chủ chưa cao dễ bị lôi kéo, dụ dỗ. Tư tưởng chưa vững vàng khi đứng trước nghịch cảnh khó khăn. Chính vì vậy mà mỗi người phải nâng cao ý thức, sự hiểu biết của mình đối với tác hại của tệ nạn, luôn luôn phải có tư tưởng tránh xa chúng, tích cực sống lối sống lành mạnh, học tập và rèn luyện thật tốt. Bên cạnh đó nguyên nhân còn đến từ xã hội do chính sách của nền kinh tế thị trường, sự du nhập văn hóa phẩm đồi trụy, sự phát triển vũ bão của internet và một số lỗ hổng của kỉ cương pháp luật. Nên biện pháp phòng tránh cũng phải đến từ cộng đồng cùng nhau chung tay góp sức đẩy lùi tệ nạn.

   Là một người trẻ còn ngồi trên ghế nhà trường em ý thức được tác hại nghiêm trọng mà tệ nạn xã hội gây ra, trong tâm thức em luôn trăn trở mình phải làm gì để góp phần đẩy lùi “căn bệnh” ấy. Bản thân em trước tiên luôn không ngừng cố gắng học tập thật tốt, rèn luyện và tu dưỡng bản thân đi theo các chuẩn mực xã hội. Tích cực tham gia các hoạt đông tuyên truyền cho mọi người tránh xa các tệ nạn. Mỗi người là một mạch máu chảy trong cùng một cơ thể lớn dân tộc, “Mỗi một gia đình là một tế bào của xã hội” để cho đất Việt ngày càng văn minh tốt đẹp mỗi chúng ta hãy nói KHÔNG với tệ nạn.

Đề bài: Nghị luận xã hội về lòng tự trọng

I. Mở bài

– Dẫn dắt vấn đề: Bản thân mỗi người không ai hoàn hảo một cách tuyệt đối, tuy nhiên luôn hướng tới những phẩm chất tốt đẹp là cách để mỗi người hoàn thiện nhân cách

– Nêu vấn đề nghị luận: Lòng tự trọng là một phẩm chất tốt đẹp mà mỗi người cần có để hoàn thiện nhân cách

II. Thân bài

1. Giải thích lòng tự trọng là gì và tại sao phải có lòng tự trọng?

– Tự trọng: Là ý thức được bản thân, coi trọng danh dự, phẩm giá của chính mình. Tự trọng là biết mình biết mình biết người, không gây ra những việc làm xấu xa khiến bản thân hổ thẹn

– Tại sao cần phải có lòng tự trọng?

    + Tự trọng giúp bản thân mỗi người nhìn nhận đúng cái sai, những điểm chưa hoàn thiện

    + Tự trọng giúp chúng ta thành công trong học tập và công việc bởi: Người tự trọng sẽ làm việc bằng thực lực của chính bản thân mình

    + Tự trọng giúp chúng ta sống đẹp sống có ích ⇒ Xã hội lành mạnh hơn

    + Lòng tự trọng khơi nguồn các đức tính tốt đẹp khác

    + Có tự trọng chúng ta mới có thể học được cách tôn trọng người khác

2. Biểu hiện của những người có lòng tự trọng

– Lòng tự trọng thể hiện ở việc con người cố gắng làm bài tập về nhà bằng chính khả năng của mình, không coi cóp, gian lận

– Tự trọng là khi chúng ta sống và làm việc một cách nghiêm túc không để bị nhắc nhở, phàn nàn

– – Tự trọng là khi nhận ra cái sai của mình và lắng nghe những lời góp ý để sửa chữa một cách vui vẻ, chân thành, cởi mở

– Có thái độ sống hòa nhã với mọi người, tôn trọng người già, nhường nhịn trẻ em

– Lòng tự trọng còn thể hiện ở việc con người ý thức được mình, không bị tha hóa bởi các yếu tố tiêu cực

3. Bàn luận mở rộng

– Bên cạnh những con người giàu lòng tự trọng, vẫn tồn tại những người đánh mất lòng tự trọng của bản thân:

    + Làm những việc trái đạo lí, vô lương tâm

    + Nói năng ứng xử thiếu văn hóa

    + Học sinh vô lễ với thầy cô

⇒ Tất cả những hành động việc làm đó cần bị phê phán. Những người ngay cả bản thân mình không tôn trọng được thì làm sao có thể thì sao có thể mong được người khác tôn trọng

4. Bài học nhận thức và hành động

– Mỗi con người cần ý thức và suy nghĩ đúng đắnvề bản thân và trang bị cho bản thân lòng tự trọng

– Luôn sống một cách chan hòa, làm những điều tốt đẹp tránh xa cái xấu

– Nhận thức những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân để phát huy và sửa chữa

– Liên hệ bản thân: Chúng ta là học sinh cần cố gắng học tập, tiếp thu điều tốt đẹp từ thầy cô bạn bè

III. Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề: Lòng tự trọng là một đức tính tốt đẹp mà mỗi người cần có để hoàn thiện bản thân mình

– Lời nhắn nhủ: Mỗi chúng ta hãy luôn sống giàu lòng tự trọng để xã hội trở nên tốt đẹp

Đề bài: Nghị luận xã hội về lòng tự trọng.

    Thomas Szass đã từng nói rằng: “Người sáng suốt coi lòng tự trọng là không thể thương lượng, và sẽ không đổi nó lấy sức khỏe, sự giàu sang, hay bất cứ thứ gì khác”. Quả thực đúng như vậy, lòng tự trọng đối với con người còn quan trọng hơn cả ngọc quý. Ở bất cứ thời điểm nào con người cũng cần nâng niu, trân trọng lòng tự trọng của bản thân, không vì chút lợi ích mà đánh mất phẩm giá của chính mình.

    Lòng tự trọng tức là sự coi trọng, giữ gìn nhân cách, danh dự của bản thân. Lòng tự trọng là lòng yêu quý những giá trị bản thân, không vì những tác động xung quanh mà đánh mất phẩm giá của chính mình. Lòng tự trọng đối với mỗi con người là hết sức quan trọng.

    Người có lòng tự trọng là những người luôn sống trung thực. Sự trung thực được biểu hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau, đối với học sinh là tự học, tự làm bài, không quay cóp, xem bài của những bạn xung quanh. Trong công việc đó là sự nỗ lực cố gắng làm việc của mình, không đổ thừa cho người khác, không tranh giành những thứ không phải của mình. Người có lòng tự trọng là luôn biết ngồi đúng chỗ, luôn ý thức được giá trị của bản thân. Không chỉ vậy, người có lòng tự trọng là người dám nhận lỗi sai khi mình mắc sai phạm và biết khắc phục những khuyết điểm sai lầm ấy. Họ là những người sống có trách nhiệm, bản lĩnh tự tin, không đổ thừa cho hoàn cảnh, sẵn sàng nhận trách nhiệm về bản thân để thay đổi nó theo chiều hướng tích cực. Người có lòng tự trọng còn là người luôn biết giữ lời hứa, không sai hẹn. Đối với họ một lời nói ra “tứ mã nan truy”, lời nói có trọng lượng và có ý nghĩa. Họ đồng thời cũng là những người hết sức tự giác, tự giác học tập, tự giác hoàn thành công việc của bản thân mà không cần ai nhắc nhở.

    Những người có lòng tự trọng sẽ luôn được mọi người yêu quý, kính trọng. Không chỉ vậy bản thân họ còn cảm thấy được sống cuộc sống thanh thản, hạnh phúc. Lòng tự trọng luôn đi liền với sự tự giác, nỗ lực, bởi vậy đó cũng là nhân tố thúc dẩu sự thành công với con người. Không chỉ vậy, lòng tự trọng còn là nhân tố làm nên giá trị của mỗi con người, là nền tảng của mọi suy nghĩ hành động. Người có lòng tự trọng sẽ luôn có suy nghĩ đúng đắn, điều đó dẫn đến những hành động tích cực. Lòng tự trọng là điều cần thiết đối với tất cả mọi người, bởi chỉ khi chúng ta biết tôn trọng chính mình thì khi ấy ta mới biết tôn trọng người khác. Lòng tự trọng còn giúp ta sống đúng lương tâm, trách nhiệm, không làm những việc sai trái, vi phạm đạo đức, pháp luật,… Lòng tự trọng giúp ta nhận ra phần hạn chế của chính mình, để không ngừng nỗ lực, cố gắng vươn lên, giúp bản thân hoàn thiện hơn. Đối với xã hội, nếu tất cả mọi người đều sống trong sạch liêm khiết, xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, tạo điều kiện cho đất nước phát triển.

    Thực tế đã chứng minh rằng, những con người có lòng tự trong thường đạt được thành công lớn và luôn được mọi người nể phục, kính trọng. Người Nhật Bản nổi tiếng là những người có lòng tự trọng và kỉ luật cao, điều đó đã khiến họ trở thành một quốc gia hùng mạnh như ngày hôm nay. Kĩ sư Nhật Bản Kishi Ryoichi trong quá trình xây dựng một cây cầu ở Thổ Nhĩ Kì đã bị đứt cáp. Ông đau đớn và suy sụp nặng nề, không lâu sau ông tự sát và viết thư để lại nhận trách nhiệm về mình. Có lẽ ông không phải là người chịu trách nhiệm hoàn toàn cho sự cố đó, nhưng với lòng tự trọng sâu sắc ông không thể tiếp tục sống mà lựa chọn cái chết. Cái chết của ông đã gây tiếc thương trong lòng nhiều người và người ta cũng càng kính nể hơn nữa lòng tự trọng của ông và của đất nước Nhật Bản.

    Bên cạnh những người có lòng tự trọng lại có những kẻ không hề có lòng tự trọng. Họ tranh giành với người khác, sẵn sàng làm những việc xấu mà không hề ăn năn, hối lỗi. Đó quả là những hành vi cần phải lên án mạnh mẽ. Đồng thời ta cũng cần phải phân biệt lòng tự trọng với sự tự cao, luôn cho mình là quan trọng nhất, là đúng, không coi trọng ý kiến của người khác; phân biệt với tự ti luôn rụt rè, sợ hãi không dám bày tỏ những quan điểm cá nhân.

    Vậy làm thế nào để chúng ta có được lòng tự trọng? Mỗi người cần sống ngay thẳng, trung thực, không gian dối. Luôn hoàn thành những nhiệm vụ được giao, mà không cần đến sự nhắc nhở bảo ban. Trung thực từ những điểu nhỏ bé nhất,khi ấy ta mới có thể có lòng tự trọng thực thụ.

    Lòng tự trọng là một phẩm chất tốt đẹp mà mỗi chúng ta cần có, nó la thước đó, là tiêu chí làm nên giá trị bản thân con người. Lòng tự trọng giúp ta hướng đến những chuẩn mực, quy tắc chung của xã hội, làm việc tốt, nói điều hay, suy nghĩ lành mạnh, tích cực. Hãy bồi đắp lòng tự trọng từ những điều nhỏ nhất để hoàn thiện nhân cách của chính mình.

Đề bài: Nghị luận xã hội về lòng tự trọng

Trong kho tàng những phẩm chất quý báu của truyền thống dân tộc, lòng tự trọng là một giá trị đạo đức sáng ngời cần có ở mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Ai cũng có lòng tự trọng, tự tin. Không có lòng tự trọng, tự tin là người vô dụng”.

Lòng tự trọng là ý thức luôn biết gìn giữ phẩm chất, nhân cách của mình ở trong mọi hoàn cảnh và biết coi trọng giá trị của bản thân. Người có lòng tự trọng có biểu hiện rất tích cực trong cuộc sống, họ luôn là những người góp phần cho xã hội thêm tốt đẹp.

Cha ông ta đã từng dạy “Giấy rách phải giữ lấy lề”, người có lòng tự trọng biểu hiện trước tiên là họ luôn làm chủ được bản thân không bị cám dỗ vật chất mua chuộc. Người có lòng tự trọng sẽ không vì tiền bạc, địa vị mà bất chấp mọi thủ đoạn đê tiện để giành lấy thứ không thuộc về mình. Họ biết nhận khuyết điểm của bản thân trước mọi người thay vì né tránh hay đùn đẩy trách nhiệm. Họ ý thức được mình là ai, mình có thể làm được điều gì bằng chính năng lực của bản thân.

Ngay từ xa xưa cha ông ta đã là những tấm gương sáng về lòng tự trọng. Đó là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn yêu nước căm thù giặc sâu sắc “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”. Ông không chịu khuất phục trước kẻ thù, không chấp nhận để lòng tự tôn dân tộc, lòng tự trọng của một tướng võ triều đại nhà Trần bị chà đạp. Đó là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm lui về ở ẩn để giữ gìn khí tiết, không vướng danh lợi và đồng tiền khi sống trong xã hội “Còn tiền còn bạc còn đệ tử/ Hết cơm, hết rượu hết ông tôi”.

Trong cuộc sống hằng ngày ta bắt gặp không ít những có người có tấm lòng tự trọng cao đẹp dù chỉ là hành động nhỏ. Con người ấy có thể là cậu bé nghèo ăn xin, nhặt nhạnh ve chai hay đánh giày nhưng không trộm cắp. Đó là câu chuyện bác nông dân Lê Hảo ở Quảng Ngãi đem trả lại 152 triệu tiền huyện bồi thường nhầm cho gia đình ông với lí do “Không phải của mình thì trả lại”. Liệu rằng trong xã hội đồng tiền như hiện nay có bao nhiêu người làm được như bác. Ta khoan bàn đến việc tắc trách của cán bộ mà hãy lấy việc làm của bác Hảo làm tấm gương cho mình. Đó còn là cô sinh viên Nguyễn Chúc Ly trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau từ chối nhận học bổng mỗi tháng 500 ngàn đồng vì lí do cô đang là sinh viên năm cuối, ra trường sẽ xin đi làm ngay vì nhà quá khó khăn nhưng cô muốn dành xuất học bổng đó cho các bạn còn tiếp tục học và hoàn cảnh gia đình khó khăn hơn. Chính tấm lòng ấy làm sáng ngời lên nhân cách đáng quý.

Lòng tư trọng làm nên giá trị của mỗi con người. Lòng tự trọng giúp chúng ta biết tiếp nhận thông tin theo đúng hướng, nó là động lực để ta đương đầu với thử thách, đạp lên khó khăn vươn tới thành công. Người biết tư trọng sẽ được mọi người kính nể, tin yêu để từ đó có những bước tiến quan trọng trong công việc và có được thành tựu nhất định trong cuộc sống.

Tuy nhiên ngày nay có một số người đã để lòng tự trọng ngủ quên trong sâu thẳm hay đánh mất đi từ bao giờ. Họ quên mất lời dặn của cha ông rằng “Đói cho sạch, rách cho thơm” họ vô cảm trước khó khăn của người khác, chà đạp lên lòng tự trọng của chính mình mà hôi bia, hay vụ hôi tiền 500 nghìn, trộm điện thoại của người bị tai nạn xe máy ở Đồng Nai vào năm 2013. Thực sự những con người đó, việc làm đó đã đánh mất đi nét đẹp truyền thống, lòng tự trọng ngày càng suy thoái khiến cho chúng ta có nhiều trăn trở về nhân cách làm người.

Một số học sinh-những con người đang được cắp sách tới trường, được giáo dục về đạo đức cũng đang dần đánh mất đi lòng tự trọng của mình bằng hành động gian lận trong thi cử. Học là để làm người tốt hơn ấy vậy mà sự học trở nên thật tầm thường đối với một bộ phận học sinh. Các em cần phải nhìn lại mình, kiểm điểm và tự giáo dục lòng tự trọng của chính mình.

Không có lòng tự trọng thật đáng xấu hổ và nguy hại nó làm xấu hình ảnh người Việt trong mắt bạn bè quốc tế, nó khiến cho xã hội ta kém văn minh, con người sống trong đó cũng thật đáng sợ. Chính vì vậy ngay từ khi còn nhỏ hãy giáo dục cho trẻ em giá trị về lòng tự trọng, bản thân mỗi con người khi lớn lên cũng không ngừng tự trau dồi, rèn luyện bản thân cho thật tốt.

Tuy nhiên cũng có không ít người nhầm lẫn lòng tự trọng với tự ái. Bởi tự trọng mang trong mình nét đẹp, sự nhân nghĩa vốn có trong chữ “Tự”, còn tự ái là sự ích kỉ chỉ biết lấy bản thân mình không quan tâm đến những người xung quanh, tự ái là không dám đối mặt với khuyết điểm khi được bị người khác phê bình, nhận xét. Tự trọng cũng khác hẳn với tự kiêu tự đại. Bởi tự kiêu tự đại là tự cho mình hơn người, là thùng rỗng mà thích kêu to.

Tự trọng là phẩm chất tốt đẹp, quý báu như ngọc sáng trong tâm cần được gìn giữ và phát huy. Tự trọng là tài sản vô giá luôn luôn cần có ở mỗi con người, chúng ta có thể đánh mất đi tiền tài, địa vị danh vọng nhưng xin đừng đánh mất lòng tự trọng khi làm người. Ngạn ngữ Tây Ban Nha có câu “Ngay cả khi trong túi hết tiền, cái mũ trên đầu anh cũng phải đội cho ngay ngắn” đó là lời răn dạy sâu sắc về lòng tự trọng đáng để suy ngẫm.

Đề bài: Nghị luận xã hội về lòng tự trọng

I. Mở bài

– Dẫn dắt vấn đề: Bản thân mỗi người không ai hoàn hảo một cách tuyệt đối, tuy nhiên luôn hướng tới những phẩm chất tốt đẹp là cách để mỗi người hoàn thiện nhân cách – Nêu vấn đề nghị luận: Lòng tự trọng là một phẩm chất tốt đẹp mà mỗi người cần có để hoàn thiện nhân cách

II. Thân bài

1. Giải thích lòng tự trọng là gì và tại sao phải có lòng tự trọng?

– Tự trọng: Là ý thức được bản thân, coi trọng danh dự, phẩm giá của chính mình. Tự trọng là biết mình biết mình biết người, không gây ra những việc làm xấu xa khiến bản thân hổ thẹn

– Tại sao cần phải có lòng tự trọng?

    + Tự trọng giúp bản thân mỗi người nhìn nhận đúng cái sai, những điểm chưa hoàn thiện

    + Tự trọng giúp chúng ta thành công trong học tập và công việc bởi: Người tự trọng sẽ làm việc bằng thực lực của chính bản thân mình

    + Tự trọng giúp chúng ta sống đẹp sống có ích ⇒ Xã hội lành mạnh hơn

    + Lòng tự trọng khơi nguồn các đức tính tốt đẹp khác

    + Có tự trọng chúng ta mới có thể học được cách tôn trọng người khác

2. Biểu hiện của những người có lòng tự trọng

– Lòng tự trọng thể hiện ở việc con người cố gắng làm bài tập về nhà bằng chính khả năng của mình, không coi cóp, gian lận

– Tự trọng là khi chúng ta sống và làm việc một cách nghiêm túc không để bị nhắc nhở, phàn nàn

– – Tự trọng là khi nhận ra cái sai của mình và lắng nghe những lời góp ý để sửa chữa một cách vui vẻ, chân thành, cởi mở

– Có thái độ sống hòa nhã với mọi người, tôn trọng người già, nhường nhịn trẻ em

– Lòng tự trọng còn thể hiện ở việc con người ý thức được mình, không bị tha hóa bởi các yếu tố tiêu cực

3. Bàn luận mở rộng

– Bên cạnh những con người giàu lòng tự trọng, vẫn tồn tại những người đánh mất lòng tự trọng của bản thân:

    + Làm những việc trái đạo lí, vô lương tâm

    + Nói năng ứng xử thiếu văn hóa

    + Học sinh vô lễ với thầy cô

⇒ Tất cả những hành động việc làm đó cần bị phê phán. Những người ngay cả bản thân mình không tôn trọng được thì làm sao có thể thì sao có thể mong được người khác tôn trọng

4. Bài học nhận thức và hành động

– Mỗi con người cần ý thức và suy nghĩ đúng đắnvề bản thân và trang bị cho bản thân lòng tự trọng

– Luôn sống một cách chan hòa, làm những điều tốt đẹp tránh xa cái xấu

– Nhận thức những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân để phát huy và sửa chữa

– Liên hệ bản thân: Chúng ta là học sinh cần cố gắng học tập, tiếp thu điều tốt đẹp từ thầy cô bạn bè

III. Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề: Lòng tự trọng là một đức tính tốt đẹp mà mỗi người cần có để hoàn thiện bản thân mình

– Lời nhắn nhủ: Mỗi chúng ta hãy luôn sống giàu lòng tự trọng để xã hội trở nên tốt đẹp

   Thomas Szass đã từng nói rằng: “Người sáng suốt coi lòng tự trọng là không thể thương lượng, và sẽ không đổi nó lấy sức khỏe, sự giàu sang, hay bất cứ thứ gì khác”. Quả thực đúng như vậy, lòng tự trọng đối với con người còn quan trọng hơn cả ngọc quý. Ở bất cứ thời điểm nào con người cũng cần nâng niu, trân trọng lòng tự trọng của bản thân, không vì chút lợi ích mà đánh mất phẩm giá của chính mình.

    Lòng tự trọng tức là sự coi trọng, giữ gìn nhân cách, danh dự của bản thân. Lòng tự trọng là lòng yêu quý những giá trị bản thân, không vì những tác động xung quanh mà đánh mất phẩm giá của chính mình. Lòng tự trọng đối với mỗi con người là hết sức quan trọng.

    Người có lòng tự trọng là những người luôn sống trung thực. Sự trung thực được biểu hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau, đối với học sinh là tự học, tự làm bài, không quay cóp, xem bài của những bạn xung quanh. Trong công việc đó là sự nỗ lực cố gắng làm việc của mình, không đổ thừa cho người khác, không tranh giành những thứ không phải của mình. Người có lòng tự trọng là luôn biết ngồi đúng chỗ, luôn ý thức được giá trị của bản thân. Không chỉ vậy, người có lòng tự trọng là người dám nhận lỗi sai khi mình mắc sai phạm và biết khắc phục những khuyết điểm sai lầm ấy. Họ là những người sống có trách nhiệm, bản lĩnh tự tin, không đổ thừa cho hoàn cảnh, sẵn sàng nhận trách nhiệm về bản thân để thay đổi nó theo chiều hướng tích cực. Người có lòng tự trọng còn là người luôn biết giữ lời hứa, không sai hẹn. Đối với họ một lời nói ra “tứ mã nan truy”, lời nói có trọng lượng và có ý nghĩa. Họ đồng thời cũng là những người hết sức tự giác, tự giác học tập, tự giác hoàn thành công việc của bản thân mà không cần ai nhắc nhở.

    Những người có lòng tự trọng sẽ luôn được mọi người yêu quý, kính trọng. Không chỉ vậy bản thân họ còn cảm thấy được sống cuộc sống thanh thản, hạnh phúc. Lòng tự trọng luôn đi liền với sự tự giác, nỗ lực, bởi vậy đó cũng là nhân tố thúc dẩu sự thành công với con người. Không chỉ vậy, lòng tự trọng còn là nhân tố làm nên giá trị của mỗi con người, là nền tảng của mọi suy nghĩ hành động. Người có lòng tự trọng sẽ luôn có suy nghĩ đúng đắn, điều đó dẫn đến những hành động tích cực. Lòng tự trọng là điều cần thiết đối với tất cả mọi người, bởi chỉ khi chúng ta biết tôn trọng chính mình thì khi ấy ta mới biết tôn trọng người khác. Lòng tự trọng còn giúp ta sống đúng lương tâm, trách nhiệm, không làm những việc sai trái, vi phạm đạo đức, pháp luật,… Lòng tự trọng giúp ta nhận ra phần hạn chế của chính mình, để không ngừng nỗ lực, cố gắng vươn lên, giúp bản thân hoàn thiện hơn. Đối với xã hội, nếu tất cả mọi người đều sống trong sạch liêm khiết, xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, tạo điều kiện cho đất nước phát triển.

    Thực tế đã chứng minh rằng, những con người có lòng tự trong thường đạt được thành công lớn và luôn được mọi người nể phục, kính trọng. Người Nhật Bản nổi tiếng là những người có lòng tự trọng và kỉ luật cao, điều đó đã khiến họ trở thành một quốc gia hùng mạnh như ngày hôm nay. Kĩ sư Nhật Bản Kishi Ryoichi trong quá trình xây dựng một cây cầu ở Thổ Nhĩ Kì đã bị đứt cáp. Ông đau đớn và suy sụp nặng nề, không lâu sau ông tự sát và viết thư để lại nhận trách nhiệm về mình. Có lẽ ông không phải là người chịu trách nhiệm hoàn toàn cho sự cố đó, nhưng với lòng tự trọng sâu sắc ông không thể tiếp tục sống mà lựa chọn cái chết. Cái chết của ông đã gây tiếc thương trong lòng nhiều người và người ta cũng càng kính nể hơn nữa lòng tự trọng của ông và của đất nước Nhật Bản.

    Bên cạnh những người có lòng tự trọng lại có những kẻ không hề có lòng tự trọng. Họ tranh giành với người khác, sẵn sàng làm những việc xấu mà không hề ăn năn, hối lỗi. Đó quả là những hành vi cần phải lên án mạnh mẽ. Đồng thời ta cũng cần phải phân biệt lòng tự trọng với sự tự cao, luôn cho mình là quan trọng nhất, là đúng, không coi trọng ý kiến của người khác; phân biệt với tự ti luôn rụt rè, sợ hãi không dám bày tỏ những quan điểm cá nhân.

    Vậy làm thế nào để chúng ta có được lòng tự trọng? Mỗi người cần sống ngay thẳng, trung thực, không gian dối. Luôn hoàn thành những nhiệm vụ được giao, mà không cần đến sự nhắc nhở bảo ban. Trung thực từ những điểu nhỏ bé nhất,khi ấy ta mới có thể có lòng tự trọng thực thụ.

    Lòng tự trọng là một phẩm chất tốt đẹp mà mỗi chúng ta cần có, nó la thước đó, là tiêu chí làm nên giá trị bản thân con người. Lòng tự trọng giúp ta hướng đến những chuẩn mực, quy tắc chung của xã hội, làm việc tốt, nói điều hay, suy nghĩ lành mạnh, tích cực. Hãy bồi đắp lòng tự trọng từ những điều nhỏ nhất để hoàn thiện nhân cách của chính mình.

   Trong kho tàng những phẩm chất quý báu của truyền thống dân tộc, lòng tự trọng là một giá trị đạo đức sáng ngời cần có ở mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Ai cũng có lòng tự trọng, tự tin. Không có lòng tự trọng, tự tin là người vô dụng”.

   Lòng tự trọng là ý thức luôn biết gìn giữ phẩm chất, nhân cách của mình ở trong mọi hoàn cảnh và biết coi trọng giá trị của bản thân. Người có lòng tự trọng có biểu hiện rất tích cực trong cuộc sống, họ luôn là những người góp phần cho xã hội thêm tốt đẹp.

   Cha ông ta đã từng dạy “Giấy rách phải giữ lấy lề”, người có lòng tự trọng biểu hiện trước tiên là họ luôn làm chủ được bản thân không bị cám dỗ vật chất mua chuộc. Người có lòng tự trọng sẽ không vì tiền bạc, địa vị mà bất chấp mọi thủ đoạn đê tiện để giành lấy thứ không thuộc về mình. Họ biết nhận khuyết điểm của bản thân trước mọi người thay vì né tránh hay đùn đẩy trách nhiệm. Họ ý thức được mình là ai, mình có thể làm được điều gì bằng chính năng lực của bản thân.

   Ngay từ xa xưa cha ông ta đã là những tấm gương sáng về lòng tự trọng. Đó là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn yêu nước căm thù giặc sâu sắc “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”. Ông không chịu khuất phục trước kẻ thù, không chấp nhận để lòng tự tôn dân tộc, lòng tự trọng của một tướng võ triều đại nhà Trần bị chà đạp. Đó là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm lui về ở ẩn để giữ gìn khí tiết, không vướng danh lợi và đồng tiền khi sống trong xã hội “Còn tiền còn bạc còn đệ tử/ Hết cơm, hết rượu hết ông tôi”.

   Trong cuộc sống hằng ngày ta bắt gặp không ít những có người có tấm lòng tự trọng cao đẹp dù chỉ là hành động nhỏ. Con người ấy có thể là cậu bé nghèo ăn xin, nhặt nhạnh ve chai hay đánh giày nhưng không trộm cắp. Đó là câu chuyện bác nông dân Lê Hảo ở Quảng Ngãi đem trả lại 152 triệu tiền huyện bồi thường nhầm cho gia đình ông với lí do “Không phải của mình thì trả lại”. Liệu rằng trong xã hội đồng tiền như hiện nay có bao nhiêu người làm được như bác. Ta khoan bàn đến việc tắc trách của cán bộ mà hãy lấy việc làm của bác Hảo làm tấm gương cho mình. Đó còn là cô sinh viên Nguyễn Chúc Ly trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau từ chối nhận học bổng mỗi tháng 500 ngàn đồng vì lí do cô đang là sinh viên năm cuối, ra trường sẽ xin đi làm ngay vì nhà quá khó khăn nhưng cô muốn dành xuất học bổng đó cho các bạn còn tiếp tục học và hoàn cảnh gia đình khó khăn hơn. Chính tấm lòng ấy làm sáng ngời lên nhân cách đáng quý.

   Lòng tư trọng làm nên giá trị của mỗi con người. Lòng tự trọng giúp chúng ta biết tiếp nhận thông tin theo đúng hướng, nó là động lực để ta đương đầu với thử thách, đạp lên khó khăn vươn tới thành công. Người biết tư trọng sẽ được mọi người kính nể, tin yêu để từ đó có những bước tiến quan trọng trong công việc và có được thành tựu nhất định trong cuộc sống.

   Tuy nhiên ngày nay có một số người đã để lòng tự trọng ngủ quên trong sâu thẳm hay đánh mất đi từ bao giờ. Họ quên mất lời dặn của cha ông rằng “Đói cho sạch, rách cho thơm” họ vô cảm trước khó khăn của người khác, chà đạp lên lòng tự trọng của chính mình mà hôi bia, hay vụ hôi tiền 500 nghìn, trộm điện thoại của người bị tai nạn xe máy ở Đồng Nai vào năm 2013. Thực sự những con người đó, việc làm đó đã đánh mất đi nét đẹp truyền thống, lòng tự trọng ngày càng suy thoái khiến cho chúng ta có nhiều trăn trở về nhân cách làm người.

   Một số học sinh-những con người đang được cắp sách tới trường, được giáo dục về đạo đức cũng đang dần đánh mất đi lòng tự trọng của mình bằng hành động gian lận trong thi cử. Học là để làm người tốt hơn ấy vậy mà sự học trở nên thật tầm thường đối với một bộ phận học sinh. Các em cần phải nhìn lại mình, kiểm điểm và tự giáo dục lòng tự trọng của chính mình.

   Không có lòng tự trọng thật đáng xấu hổ và nguy hại nó làm xấu hình ảnh người Việt trong mắt bạn bè quốc tế, nó khiến cho xã hội ta kém văn minh, con người sống trong đó cũng thật đáng sợ. Chính vì vậy ngay từ khi còn nhỏ hãy giáo dục cho trẻ em giá trị về lòng tự trọng, bản thân mỗi con người khi lớn lên cũng không ngừng tự trau dồi, rèn luyện bản thân cho thật tốt.

   Tuy nhiên cũng có không ít người nhầm lẫn lòng tự trọng với tự ái. Bởi tự trọng mang trong mình nét đẹp, sự nhân nghĩa vốn có trong chữ “Tự”, còn tự ái là sự ích kỉ chỉ biết lấy bản thân mình không quan tâm đến những người xung quanh, tự ái là không dám đối mặt với khuyết điểm khi được bị người khác phê bình, nhận xét. Tự trọng cũng khác hẳn với tự kiêu tự đại. Bởi tự kiêu tự đại là tự cho mình hơn người, là thùng rỗng mà thích kêu to.

   Tự trọng là phẩm chất tốt đẹp, quý báu như ngọc sáng trong tâm cần được gìn giữ và phát huy. Tự trọng là tài sản vô giá luôn luôn cần có ở mỗi con người, chúng ta có thể đánh mất đi tiền tài, địa vị danh vọng nhưng xin đừng đánh mất lòng tự trọng khi làm người. Ngạn ngữ Tây Ban Nha có câu “Ngay cả khi trong túi hết tiền, cái mũ trên đầu anh cũng phải đội cho ngay ngắn” đó là lời răn dạy sâu sắc về lòng tự trọng đáng để suy ngẫm.

“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.

   “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Đó là nhận định đúng đắn của Thân Nhân Trung trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba-1442.

   Từ xưa ông cha ta đã từng quan niệm nguyên khí của quốc gia vừa là khát vọng, vừa là sức sống của dân tộc. Nhân tài đóng vai trò trong sáng tạo ra các giá trị văn hóa, các công nghệ hiện đại. Có thể nói đó là yếu tố cốt lõi làm nên sự sống còn của mỗi quốc gia. Vậy hiền tài chính là phần cốt lõi, bản chất ban đầu để làm nên sự sống còn và phát triển của đất nước.

   Quốc gia có hiền tài và biết sử dụng hiền tài thì sẽ phát triển vững mạnh. Thịnh suy của mỗi triều đại, quốc gia không thể tách rời khỏi yếu tố con người. Các triều đại Trung Hoa như nhà Hán có Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà giúp sức đã đánh bại Hạng Vũ thống nhất Trung Hoa. Ở nước ta cũng có triều Trần có các danh tướng như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, đã khắc ghi vào những trang sử vẻ vang của dân tộc qua 3 lần chống Nguyên Mông. Nhưng đến triều Hồ rồi triều Nguyễn mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vẫn không đưa đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm vì không có nhân tài phò trợ.

   Lịch sử nhân loại, việc dùng người mỗi thời khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử, thời thế và vai trò, nhiệm vụ. Người có tài thật là hiếm, cần phải biết tìm, biết trân trọng. Người có học vấn thường có khả năng phán đoán và nhận định tốt hơn người thường. Thời phong kiến, ở nước ta đã có biết bao bài học khi biết trọng dụng trí thức thì công cuộc bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước phát triển hiệu quả hơn nhờ tầng lớp trí thức, hoà đồng với nhân dân, xả thân vì nghiệp lớn. Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi với bản hùng văn lịch sử “Bình Ngô đại cáo” là minh chứng cho sự sáng suốt của các bậc tiền nhân biết chú trọng và sử dụng tri thức trong các cuộc chiến.

   Cố nhân đã dạy: “Quốc gia hưng vong,thất phu hữu trách” nghĩa là 1 người dân thường ắt cũng phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của đất nước. Trí thức lại càng phải hơn thế! Ngày nay, tiếp nối truyền thống của cha ông, trí thức cần được rèn luyện để trở thành nhân tài có trách nhiệm cống hiến tài năng vào cho đất nước. Tri thức thời nay là tầng lớp tinh hoa của xã hội, tạo ra các giá trị tinh thần, tôn trọng chân lý và được nâng lên tầm cao mới của xã hội và phù hợp với thời đại toàn cầu hóa của nền tri thức nước nhà. Vậy nên, các vua thời xưa đã hết sức để khuyến khích, tìm kiếm nhân tài. Ban mũ áo, tước vị, cho vinh quy bái tổ và khắc lên đá để lưu danh ngàn đời. Văn Miếu Quốc Tử Giám là một minh chứng sống động cho điều ấy.

   Chúng ta tin vào sức năng động tự thân của dân tộc, sự sáng tạo và bền bỉ của giới trí thức như ngọn lửa bùng lên để những người có trọng trách biết suy nghĩ, trọng dụng đội ngũ trí thức,nhất là các bậc trí thức lão thành có kinh nghiệm cho tiến trình xây dựng đất nước. Ở các nước tiên tiến, họ bỏ tiền mua bảo hiểm y tế, nhà cửa, kể cả đôi chân cầu thủ hay vòng một của người đẹp. Còn đối với quốc gia thì càng có nhiều nhân tài thì đất nước ấy càng tỏa sáng. Nước ta tuy là một nước nhỏ nhưng cũng không ít nhân tài. Người Việt có mặt ở các lĩnh vực khoa học và đứng đầu ở những nơi mang tầm cỡ thế giới.

   Ngẫm về tình hình hiện tại của đất nước, dễ dàng nhận thấy những nhân tài hay nhận đc ưu đãi là du học, nhưng liệu bao nhiêu trong số họ sẽ trở về nước, hay sẽ ở lại cống hiến cho nước sở tại? Nhìn xa hơn, hiền tài phải được hướng tới lớp người trẻ tuổi bởi vì họ mới là lớp người có khả năng tiếp thu cái mới,sáng tạo hơn. Cần tạo môi trường cho họ làm việc,phát huy năng lực, đãi ngộ xứng đáng cho thành quả họ mang lại. Để chiêu dụ nhân tài, các nơi thường đưa ra các tiêu chí về học hàm học vị, nhưng thực chất của các học hàm học vị đó ra sao thì không ai kiểm chứng được. Họ vấp phải một môi trường làm việc cũ kỹ, không phát huy được năng lực của bản thân. Họ không muốn bị biến thành một công chức sáng vác ô đi, tối vác về. Họ lại ra đi! Vì tiền bạc, chức vụ không phải là cái mà nhân tài bận tâm.Nếu chúng ta hiểu một cách sâu xa chân lý “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” không cần phải đốt đuốc lên mới thấy được người có thực tài mà chỉ cần có kế sách cụ thể, thực sự trân trọng tài năng, mời gọi nhân tài để rồi khơi dậy họ.

   “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Đó không chỉ là một triết lí đúng của cố nhân mà còn chính xác đối với thời nay. Vì vậy mỗi cá nhân, gia đình, nhà trường cần có biện pháp giáo dục để thế hệ trẻ phát huy hết tiềm năng phục vụ cho đất nước. Trước kia, bây giờ và sau này hiền tài luôn là nguyên khí của quốc gia, là nguồn tài nguyên và động lực to lớn để đất nước đi lên. Ngày nay có thể hiểu hiền tài không chỉ là trí thức, mà là tất cả những ai có năng lực và khát vọng cống hiến cho đất nước, cho dân tộc!

Đề bài: Viết bài văn nghị luận bày tỏ ý kiến của mình về phương châm Học đi đôi với hành.

   Trải qua quá trình sống không ngừng phần đấu từ xưa cho đến nay, nhân dân ta đã luôn rút ra được những kinh nghiệm vô cùng quý báu. Những kinh nghiệm này phần lớn đều được nhân dân ta đúc kết lại qua những mối quan hệ tương quan của hai khía cạnh, hai vấn đề cụ thể từ lao động sản xuất: đó là mối quan hệ giữa học và hành được thể hiện qua phương châm sau: “Học đi đôi với hành”.

   Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu xem “học” là gì. “Học” là hoạt động tiếp thu những tri thức của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta có thể học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô, học ở bạn bè, tự học qua sách vở và thực tế đời sống. Học để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt để có thể làm chủ bản thân, làm chủ công việc của mình góp phần hưu ích vào việc xây dựng sự nghiệp riêng và sự nghiệp chung. Người xưa nói: “ngọc không mài, không thành đồ vật tốt; người không học, không biết rõ đạo”. Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Muốn thế thì “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tú thư, Ngũ kinh, chư sử”.

   Còn “hành” là gì? “Hành” là quá trình vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế công việc hàng ngày. Ví dụ những người thầy thuốc đem những hiểu biết tiếp thu được trong suốt quá trình đào tạo ở trường đại học để vận dụng vào việc chữa bệnh cho nhân dân. Những kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng thiết kế và thi công bao công trình như nhà máy, bệnh viện, trường học, công viên … phục vụ con người. Anh công nhân trong xưởng máy vận dụng lý thuyết để cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chị nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật và đồng ruộng để có được những vụ mùa bội thu … Đó là “hành”. Theo Nguyễn Thiếp, muốn học để có thành tựu thì phải biết “học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người, xin chớ bỏ qua”.

   “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”

   Vậy tại sao học phải đi đôi với hành? “Học để hành” có nghĩa là “học” để “làm” cho tốt. Thực tế cho thấy có học có hơn. Ông cha ta ngày xưa đã nói “làm” cho tốt. Thực tế cho thấy có học có hơn. Ông cha ta ngày xưa đã nói: “Nhân bất học, bất tri lí” (Không học thì không biết đâu là phải). Mục đích của việc học là nhằm phục vụ cho quá trình làm việc hiệu quả cao hơn, tốt hơn. Nếu được học lý thuyết dù cao siêu đến đâu mà không đem ra vận dụng thì việc học ấy chỉ tốn thời gian vô ích. Bao công sức, tiền bạc bỏ ra mà kết quả chẳng có gì đáng kể. Một bác sĩ chỉ học lý thuyết, không thực hành vào công việc thì sẽ gây ra những hậu quả ảnh hưởng xấu đến tính mạng con người. Một kỹ sư chưa thực hành lần nào thì khi xây nhà sẽ không kiên cố, căn nhà có thể bị sụp đổ bất cứ lúc nào.

   “Học mới chỉ có mắt, hành mới có chân. Có mắt có chân mới tiến được. Có biết mới làm, có làm mới biết. Nhưng cái biết trong làm mới là cái biết sâu sắc nhất, thiết thực nhất”.

   Ngược lại, “hành mà không học” thì hành không trôi chảy. Nếu ta chỉ làm việc theo thói quen, theo kinh nghiệm mà không có lý thuyết soi sáng thì sẽ tiến triển chậm chạp và chất lượng không cao. Cách làm việc như trên chỉ thích hợp với các công việc thủ công đơn giản, không cần nhiều đến trí tuệ. Còn đối với những công việc phức tạp có liên quan đến khoa học kỹ thuật như hiện nay thì cung cách ấy đã quá lỗi thời. Muốn đạt hiệu quả tốt trong công việc, chúng ta bắt buộc phải học, phải được đào tạo chính quy theo từng chuyên nghành và trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập không ngừng bằng mọi cách. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu của thời đại.

   Do đó, chúng ta phải đánh giá đúng mức mối liên quan giữa “học” và “hành”. “Học” và “hành” phải đi đôi, có tác động hai chiều với nhau. “Học” hướng dẫn “hành”, “hành” bổ sung, nâng cao và làm cho việc “học” thêm hoàn thiện. Có “học” mà không có “hành” thì chỉ là mớ lý thuyết suông. Trái lại, chỉ chú trọng “hành” mà không chịu học hỏi thì làm việc gì cũng khó khăn. “Học” và “hành” là hai mặt của một quá trình, không thể xem nhẹ mặt này hay mặt khác. Theo Nguyễn Thiếp, nếu “người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường” thì “nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”.

   Tóm lại, học phải đi đôi với hành: giữa học và hành có mối quan hệ với nhau chặt chẽ. Học đóng vai trò chủ đạo soi sáng cho hành. Hành giúp con người vận dụng, củng cố, bổ sung và hoàn chỉnh lý thuyết đã được học vào thực tế cuộc sống. Có như vậy thì hiệu quả học tập và lao động sản xuất mới được nâng cao, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:

   “Học phải đi đôi với hành. Học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy”. “Học phải đi đôi với hành. Học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy”.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 929

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống