Văn mẫu lớp 11 Học kì 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 11: tại đây

Đề bài: Cảm nhận của anh chị về nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

I. Mở bài

– Giới thiệu những nét cơ bản về Thạch Lam truyện ngắn Hai đứa trẻ: Một cây bút với cái nhìn nhân đạo về cuộc sống con người, một truyện ngắn trong trẻo có khả năng thanh lọc con người

– Giới thiệu nhân vật Liên: Nhân vật trung tâm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh nhân vật

    + Trước ở Hà Nội, từ khi bố mất việc, hai chị em về quê.

    + Mẹ giao trông coi một gian hàng tạp hoá nhỏ xíu.

    + Chiều nào cũng dọn hàng, đếm hàng, tính tiền, ngồi trên cái chõng sắp gãy nhìn cảnh và người phố huyện.

    + Ngày chợ phiên mà chỉ bán được 2,5 bánh xà phòng, một cút rượu ti nhỏ

⇒ Hoàn cảnh khó khăn, sa sút, mức sống eo hẹp

2. Liên – cô bé có tâm hồn nhạy cảm, yêu quê hương và giàu lòng trắc ẩn

a. Cô bé có tâm hôn nhạy cảm, yêu quê hương

• Tâm hồn Liên đã có những cảm nhận hết sức tinh tế trước những thời điểm khác nhau trong ngày:

– Cảm nhận bức ranh phố huyện lúc chiều tàn: với hình ảnh, âm thanh, đường nét, màu sắc: Tiếng trống thu không, “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, “tiếng ếch nhái kêu ran”,…

⇒ Cảm nhận bức hoạ đồng quê quen thuộc, bình dị, thơ mộng, gợi cảm, mang cốt cách Việt Nam.

    + Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này” từ tâm hồn nhạy cảm

⇒ Tâm hồn nhạy cảm và lòng yêu quê hương

b. Cô bé giàu lòng trắc ẩn

• Xót thương cho những kiếp người nhỏ bé nơi phố huyện nghèo:

– Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

    + Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.

    + Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình

3. Liên – cô bé có niềm hi vọng và ước mong vào tương lai tốt đẹp hơn cho cuộc sống nghèo nàn buồn tẻ nơi phố huyện nghèo

Thông qua tâm trạng của Liên trong sự háo hức chờ đợi tàu và niềm ước mơ về Hà Nội xa xăm

• Trước khi tàu đến

– Liên cùng em trai dù đã rất buồn ngủ nhưng vẫn cố thức để đợi tàu: Cô thức vì muốn được nhìn thấy chuyến tàu như một hoạt động cuối cùng của đêm khuya

– Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu

– Tiếng Liên gọi em một cách cuống quýt, giục giã như thể nếu chậm một chút sẽ mất đi điều gì đó quý giá

⇒ Niềm háo hức, mong ngóng chuyến tàu đêm như mong ngóng một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống vốn tẻ nhạt thường ngày

• Khi tàu đến

– Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vượt qua

– Dù chỉ trong chốc lát, Liên cũng thấy “những toa hạng trên sang trọng lố nhố người, đồng và kền lấp lánh” ⇒ thế giới khác với cuộc sống thường ngày của chị

– Trong tâm hồn cô cơn xúc động vẫn chưa lắng xuống

– Liên mơ tưởng về Hà Nội, một Hà Nội sáng rực và xa xăm, đẹp, giàu sang và sung sướng… ⇒ thêm tiếc nuối và ngán ngẩm cho cuộc sống hiện tại.

⇒ Tâm trạng xúc động, vui sướng, hạnh phúc, mơ mộng

• Khi tàu đi

– Như bao con người khác, Liên cũng “mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống hằng ngày”

– Khi tàu đi qua, Liên trở về với tâm trạng buồn như cuộc sống thường ngày nơi phố huyện

⇒ Tâm trạng nuối tiếc, niềm suy tư thao thức về cuộc sống hằng ngày nơi phố huyện nghèo

III. Kết bài

– Nhấn mạnh ấn tượng của nhân vật Liên trong lòng độc giả bởi tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn và niềm mơ ước

– Khái quát một số nét nghệ thuật tiêu biểu thể hiện thành công nhân vật

Đề bài: Cảm nhận của anh chị về nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

    Thạch Lam, cây bút văn xuôi lãng mạn nổi tiếng của văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông không đi sâu vào những sự kiện, biến cố mang tính chất gay cấn, cũng không đi vào cái lãng mạn tiểu tư sản đang là thời thượng lúc bấy giờ. Thạch Lam tìm chất lãng mạn trong những thứ bình dị, đời thường nhất. Hai đứa trẻ là tác phẩm thành công nhất của ông, một tác phẩm đượm buồn, bàng bạc chất thơ được nhìn nhận dưới con mắt của cô gái mới lớn – Liên. Liên là cô gái có tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước cuộc sống và thiên nhiên.

    Liên vốn sinh sống ở Hà Nội, cô từng được hưởng cuộc sống tràn ngập ánh sáng, niềm vui và hạnh phúc. Nhưng do biến cố của gia đình cô cùng mọi người chuyển về nơi phố huyện nghèo nàn, hiu hắt. Liên đã quen dần với cuộc sống nơi đây, yêu mùi đất ngai ngái, yêu cả những ngõ tối sâu thẳm nhưng hơn hết trong Liên vẫn bừng lên khao khát về một cuộc sống khác, cuộc sống của mơ ước, hi vọng.

    Liên là một cô gái có tầm lòng nhân hậu, giàu lòng yêu thương. Nhìn thấy cảnh những đứa trẻ con nhà khó khăn nhặt rác, cô bé thương cảm cho số phận của chúng song không thể làm gì bởi chính gia đình Liên cũng nghèo, bản thân hai chị em đang phải phụ giúp gia đình kiếm sống bằng cửa hàng tạp hóa nhỏ. Thấy gia cảnh chị Tí cô cũng ái ngại thay cho họ. Họ ngày đi mò cua bắt ốc, tối lại bán hàng nước mà cuộc sống chẳng khấm khá hơn. Liên ân cần hỏi han và trong lời nói chứa đựng sự xót xa, thương yêu và ái ngại cho gia cảnh của chị Tí. Đối với bà cụ Thi điên, nghe tiếng cười từ xa, như một lẽ tự nhiên, Liên quay vào rót một chén rượu rồi đưa cho cụ, ánh mắt dõi theo cho đến khi cụ đi khuất hẳn. Liên là một cô gái nhân hậu, biết yêu thương, cảm thông cho số phận và nỗi bất hạnh của những người xung quanh. Đôi mắt yêu thương đó cũng chính là tình cảm mà nhà văn Thạch Lam dành cho những người lao động nghèo khổ.

    Không chỉ vậy, Liên còn là cô gái tinh tế, nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc của ngày tàn. Tác phẩm mở đầu bằng một buổi chiều êm ả như nhung và thoảng qua gió mát, gió ngoài đồng đưa vào cùng tiếng ếch nhái kêu ran. Khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng, thanh bình mà đượm buồn hiu quạnh. Tâm hồn Liên nâng niu, cảm nhận từng chuyển động của cuộc sống xung quanh, là mùi ẩm mốc còn lại sau phiên chợ “một mùi âm ẩm bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá”. Đó là mùi của sự thân thuộc, gắn bó với quê hương. Trong khoảnh khắc ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy cái thuốc sơn đen, nỗi buồn của cảnh vật thấm dần vào tâm hồn nhạy cảm của một cô bé mới lớn.

    Khi màn đêm buông xuống, Liên thích thú ngắm nhìn bầu trời với hàng ngàn vạn ánh sao lung linh, lấp lánh trên bầu trời. Và tâm hồn ngây thơ, trong sáng ấy tưởng tượng ra dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân ông thần nông, thế giới cổ tích của tuổi thơ ùa về trong tâm hồn chị. Những cánh hoa bàng mỏng manh khẽ rơi trên vai cũng được tâm hồn nhạy cảm của Liên cảm biết hết. Không chỉ vậy, ẩn sâu trong tâm hồn Liên, cô luôn đi tìm những nguồn sáng khác nhau xung quanh cuộc sống của mình, đó chỉ là những khe sáng, vệt sáng, quầng sáng, … dù nhỏ bé, yếu ớt không thể đi cái tối tắm ngập đầy hết cả không gian nhưng nó cũng cho thấy khát vọng đổi đời mãnh liệt của nhân vật.

    Vậy tại sao khao khát đổi đời lại thể hiện ở nhân vật Liên mạnh mẽ đến vậy. Bởi trước hết Liên còn là một đứa bé, cô đang ở độ tuổi mười bốn, mười lăm, không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn, cô có những nhận biết, cảm nhận thế giới xung quanh rất rõ ràng. Liên lại còn từng được sống trong cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống “mơ ước” nên hơn ai hết cô hiểu vị ngọt của cuộc sống đầy ánh sáng ấy. Nếu như những người dân nơi đây cũng khao khát được đổi đời, nhưng chưa bao họ được hưởng thụ cuộc sống đó nên khao khát ấy vẫn mơ hồ, không xác định. Bởi vậy, khao khát mơ ước đổi đời đặt vào nhân vật Liên là hoàn toàn hợp lí, Liên còn trẻ và còn nhiều cơ hội để thay đổi cuộc sống, để biến mơ ước thành hiện thực. Khao khát đổi đời thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc cũng cho thấy tấm lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam đối với con người: thương cảm cho số phận của những kiếp người sống mòn nơi phố huyện. Nâng niu và trân trọng mơ ước của Liên và những con người nơi đây.

    Và khao khát đổi đời đó được tập trung thể hiện rõ nhất trong cảnh chờ đoàn tàu nơi phố huyện đi qua. Chị em Liên thức đợi tàu không phải để bán thêm một vài món hàng như lời mẹ dặn, mà thức để hưởng thụ đôi chút khoảnh khắc lung linh, rực rỡ ánh sáng của một cuộc sống khác thoáng qua phút chốc. Đây có lẽ không phải đêm đầu tiên hai chị em Liên thức đợi tàu, mà rất nhiều đêm kể từ khi chuyển về nơi phố huyện sinh sống, nhưng khao khát đợi tàu vẫn không thôi cháy bỏng, đặc biệt là với Liên. Cô không ngủ, mà chờ bằng được đoàn tàu đi qua. Tiếng gọi em không chỉ đơn thuần là tiếng gọi mà nó còn như một tiếng reo vui, hân hoan khi đoàn tàu sắp đi qua. Liên đợi tàu từ khi đèn ghi xuất hiện cho đến khi nó đi khuất chỉ còn một chấm đỏ ở sau đuôi và chìm vào tắm tôi. Bằng còn mắt quan sát tinh tường và tâm hồn nhạy cảm, ngay lập tức Liên đã nhận ra đoàn tàu hôm nay hình như kém sáng hơn. Nếu không phải ngày nào cũng khao khát ngắm nghía dõi theo thì sao Liên có thể nhận ra sự thay đổi ấy khi đoan tàu chỉ vụt qua phố huyện trong vài giây ngắn ngủi.

    Đối với Liên đoàn tàu không chỉ đơn thuần là một sự vật lướt nhanh qua phố huyện, mà bản thân đoàn tàu đó còn mang rất nhiều ý nghĩa. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ xa xôi, đẹp đẽ, của Hà Nội xa xăm, đó là thế giới thần tiên mà cô đã từng được sống. Đoàn tàu còn là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà không chỉ Liên mà tất cả người dân phố huyện nơi đây đều khao khát. Đoàn tàu là mơ ước đổi đời mãnh liệt, tha thiết của con người nơi đây đặc biệt là Liên. Với hình ảnh đoàn toàn, Thạch lam cũng gửi gắm nhiều tình cảm, xót thương cho những đứa trẻ, người dân phố huyện. Ông trân trọng khát vọng đổi đời chân chính của họ. Đồng thời cũng gửi gắm thông điệp con người cần phải vượt thoát khỏi thực tại nghèo nàn, tù túng để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

    Nhân vật Liên được tác giả miêu tả chủ yếu ở phương diện nội tâm. Với lời văn giàu chất thơ, đi sâu miêu tả những rung động tinh tế của nhân vật trước thiên nhiên và những khao khát mãnh liệt được đổi đời của nhân vật.

    Nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam không chỉ là một cô gái có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, yêu thương những người xung quanh, mà còn là một cô gái có khao khát sống, đổi đời mãnh liệt. Tâm hồn trẻ thơ đó luôn hướng đến một cuộc sống đẹp hơn, đáng sống hơn. Qua nhân vật này tác giả cũng gửi gắm những giá trị nhân đạo sâu sắc.

Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Cái giá trị đích thực của văn học là con người, cộng đồng con người và cuộc sống con người chứ không phải là một cái gì khác. Ai muốn tìm một cái gì khác thì sẽ không có chỗ đứng, không có triển vọng về tương lai bởi nó xa lạ với con người và con người cũng không cần đến nó”. Nói như vậy có nghĩa là các nhà văn phải hướng ngòi bút của mình vào con người, lấy con người là trung tâm của tác phẩm. Cũng giống như bao nhà văn khác trang văn của Thạch Lam luôn viết về cuộc sống con người, nhưng nhân vật của ông không có nét dữ dội, mãnh liệt như chị Dậu, Chí Phèo hay Lão Hạc mà nó mang vẻ đẹp bình dị, nhẹ nhàng, ông nhấn mạnh đến đời sống tâm hồn của nhân vật. Tiêu biểu cho con người của trang văn Thạch Lam là cô bé Liên trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” mang tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và luôn khao khát về cuộc sống mới tốt đẹp hơn ở tương lai.

“Hai đứa trẻ” kể về cuộc sống con người nơi phố huyện nghèo, với nhân vật chính là Liên và An hai chị em đã từng sống ở Hà Nội nhộn nhịp nhưng khi cha bị mất việc hai đứa nhỏ cùng gia đình chuyển về phố huyện sống. Nói là phố huyện nhưng nơi đó cũng nghèo nàn, cuộc sống vẫn còn khó khăn. Hai chị em được mẹ giao cho việc trông nom cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu bán mấy thứ lặt vặt để kiếm thêm thu nhập phụ giúp gia đình.

Nhân vật Liên là cô chị cả mới lớn trong gia đình nên rất đảm đang, biết quán xuyến công việc giúp mẹ. Ban ngày thì bán hàng tối đến thì dọn hàng lại, hình ảnh “Liên đếm lại những phong thuốc lào, xếp vào hòm những bánh xà phòng còn lại, vừa lẩm nhẩm tính tiền hàng” cùng với một chiếc khóa chị đeo vào cái dây xà tích bạc ở thắt lưng khiến cho “chị cảm thấy hãnh diện, vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang”.

Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm với sự chuyển biến của cảnh vật xung quanh. Khung cảnh ngày tàn được Liên thu vào tầm mắt và cảm nhận những âm thanh, hình ảnh báo hiệu một ngày tàn sắp qua, chuẩn bị cho một đêm tối mới cũng giống như bao đêm khác. “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều; phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Tất cả đã sẵn sàng cho bóng tối bao trùm. Tâm trạng của con người cũng trở nên buồn bã, hiu quạnh “đôi mắt chị bóng tối ngập dần đầy và cái nỗi buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị, Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Khi đêm về bóng tối bao trùm cũng khiến cho cô chìm ngập trong nỗi buồn “qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá vùng sáng nhỏ xanh nhấp nhánh rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một” khiến cho tâm hồn chị tĩnh lặng, có những cảm giác mơ hồ. Liên thật tinh tế khi đã lắng mình cảm nhận, quan sát từng chuyển động nhỏ xung quanh.

Cô bé còn là người giàu lòng yêu thương, đồng cảm và sẻ chia với những mảnh đời nghèo khổ. Chị thương cho lũ trẻ con nhà nghèo khi tan chợ chiều chúng “cúi lom khom” nhặt nhạnh thanh tre, thanh nứa hay bất cứ thứ gì còn dùng được của người bán hàng bỏ lại. Liên thương cho hoàn cảnh của chúng nhưng cũng không biết phải làm sao để giúp đỡ bởi chính chị cũng nghèo và thiếu thốn. Liên cũng thương cho những mảnh đời vất vả cơ cực hiện lên hằng ngày xung quanh cô: Đó là mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt tép tối lại đội nhau ra gốc bàng trông chờ vào bát nước chè xanh mà vẫn không ăn thua, đó là bà cụ Thi điên hay ra chỗ Liên mua rượu, cụ đi ra từ bóng tối cũng khuất bóng đi vào trong đêm tối với tiếng cười khanh khách khuất bóng đằng xa, đó là gánh phở bác Siêu như một thứ quà xa xỉ bởi chính con người ở đây họ cũng nghèo nên bác chẳng thể bán được cho ai, đó còn là gia đình bác Xẩm ngồi bên đường với manh chiếu rách và cái thau trống trơ để chờ đợi giọt hạnh phúc hi hữu mà người khác cho, thằng con thì bò ra ngoài đất nhặt những thứ rác rưởi. Ngày nào cũng vậy, cũng chừng ấy con người, chừng ấy công việc lặp đi lặp lại, nhàm chán, buồn tẻ. Cuộc sống của Liên cũng chẳng khác gì họ, cô thương cho nhứng kiếp người nghèo khổ quanh mình cũng chính là thương cho bản thân và gia đình đang phải vất vả kiếm ăn để trang trải cuộc sống. Thạch Lam cảm thương cho nhân vật, xót xa cho số phận của những người dân nghèo vô cùng nên ông mới để cho Liên quan sát và cảm nhận từng mảnh đời lay lắt mà khắc họa nên bức tranh cuộc sống để lại nhiều xúc cảm thương tâm, xót xa cho người đọc.

Tuy nhiên ông cũng là nhà nhân đạo lớn nên Thạch Lam không nỡ để cho nhân vật của mình chìm trong bóng tối tuyệt vọng. Cô bé Liên luôn có niềm tin và tương lai tươi sáng và khao khát cuộc sống tốt hơn. Điều đó được thể hiện trong tâm trạng háo hức chờ tàu và sự vui mừng rang rỡ khi đứng ngắm chuyến tàu qua. Dù đã buồn ngủ ríu cả mắt nhưng chị vẫn cố thức để nhìn thấy hoạt động cuối cùng nơi phố huyện, chuyến tàu dù chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng đó là cả ước mơ về tương lai và hoài niệm về quá khứ. Tàu đến mang theo thứ âm thanh nhộn nhịp của tiếng còi rít, tiếng tàu rầm rộ đi tới, tiếng nói chuyện của những hành khách phá tan không gian tĩnh mịch, buồn thảm nơi đây. Tàu đến mang theo thứ ánh sáng của thế giới thần tiên xa lạ khác hẳn với ánh đèn leo lét của những kiếp người tàn, đó là “Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa”, “Các toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường”, ánh sáng của đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng đã xóa tan đi đêm tối mịt mù, lóe lên cho họ niềm tin, hi vọng về tương lai ngày mai tươi sáng hơn. Dù cho chỉ thoáng chốc vụt qua nhưng chuyến tàu đêm vô cùng có ý nghĩa với chị em Liên. Dường như đối với chúng đó là niềm say mê vì không những nó đi qua sự phẳng lặng, tẻ nhạt của cuộc sống phố huyện mà còn đưa Liên trở về quá khứ xa xưa khi cha cô chưa bị mất việc cả nhà vẫn còn sống ở Hà Nội huyên náo, nhộn nhịp khi ấy hai đứa trẻ đang được sống và vui chơi trong những tháng ngày tươi đẹp.

Như vậy Liên hiện lên là một cô gái giàu cảm xúc, suy tư trong cô luôn mang một nỗi buồn man mác trước cảnh chiều tà và bóng đêm bao phủ nhưng lại sung sướng vuiver khi chuyến tàu đêm đi qua. Chẳng cần bằng cốt truyện hấp dẫn li kì, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để khám phá ra giá trị cuộc sống, vẻ đẹp con người trong suy nghĩ và cảm nhận của Liên. Nếu nhân vật trong văn học trung đại thường được nhìn nhận dưới góc nhìn đạo đức, luân lí, tốt xấu rõ ràng còn đến với trang văn Thạch Lam người đọc mới thấy rõ sự đa dạng và chuyển biến tinh vi trong nội tâm nhân vật được tác giả miêu tả rõ nét.

Quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam về con người ông luôn nhấn mạng vẻ đẹp tâm hồn, sâu thẳm bên trong, ông cho rằng: “Đối với nhà văn điều quan trọng nhất là phải miêu tả sự sống mà sự sống tinh vi nhất, sâu kín nhất là sự sống của tâm hồn”. Nhân vật Liên được hiện lên với nét đẹp sâu thẳm bên trong con người từ những suy nghĩ đến cảm nhận để lại cho độc giả nhiều ấn tượng. Qua đó cho ta hiểu thêm về những mảnh đời cơ cực trong cuộc sống, càng căm ghét bao nhiêu tội ác của giặc, càng thêm trân trọng giá trị của cuộc sống hiện tại.

Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

   Trong không khí “náo nhiệt” của văn chương lãng mạn 1930 – 1945 của thế kỉ trước, có một nhà văn xuất hiện như một nốt lặng đầy bình thản, thâm trầm mà vô cùng sâu sắc, ấn tượng. Đó là Thạch Lam. Ông được ví như là người dung hòa giữa hai chủ nghĩa hiện thực và lãng mạn. Điều đó thể hiện qua ngòi bút viết truyện ngắn thấm đẫm chất trữ tình nhưng vẫn giản dị, nhẹ nhàng gợi lên nhiều suy ngẫm về thế thái nhân tình. Hai đứa trẻ là tác phẩm tiêu biểu như thế của ông. Ở đó, cô bé Liên – nhân vật chính trong truyện ngắn đã trở thành “lăng kính”, thành “đôi mắt” để Thạch Lam thể hiện cách nhìn đời, nhìn người và phô diễn khả năng nghệ thuật độc đáo của mình.

   Liên là nhân vật duy trì xuyên suốt mạch nguồn cảm xúc trữ tình của tác phẩm, được khơi gợi từ kí ức tuổi thơ của chính tác giả trong những ngày còn nhỏ sống ở phố huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Cô bé mới lớn ấy không được khắc họa bằng những nét quen thuộc của một nhân vật văn xuôi thông thường là ngoại hình, tính cách… mà lại là thế giới nội tâm. Thạch Lam đã nắm bắt được những rung động tinh vi, những chuyển biến đầy tinh tế, khẽ khàng trong tâm hồn của một cô bé những tưởng còn non nớt để lặng nhìn cảnh sống, cuộc sống nơi phố huyện nghèo bên cạnh một ga xép nhỏ có đường tàu chạy qua. Để rồi từ đó gợi lên một cách đầy ám ảnh cho người đọc về những cảnh đời, mà Liên cũng là một số phận tiêu biểu trong đó.

   Bằng một vài nét phác thảo như bao nhân vật khác trong truyện, cảnh ngộ của Liên hiện lên nhiều đáng thương. Do thầy mất việc, nên hai chị em Liên phải rời thành phố Hà Nội sầm uất, lấp lánh cùng với mẹ về sống tại một phố huyện nghèo, tối tăm để trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Mẹ tất bật với công việc hàng xáo, thi thoảng mới đến, còn để lại cho Liên và em trai là An quản lý, trông coi. Gọi là cửa hàng cho sang, chứ hàng hóa chỉ có vài ba thứ lặt vặt là thuốc lá, thuốc lào, bánh xà phòng, rượu…, đến khách chỉ mua đến một cút rượu ti bé tẹo, thậm chí còn mua chịu nửa bánh xà phòng. Cuộc sống của Liên ngày nào cũng vậy, ngày bán hàng, đêm cố thức để đợi chuyến tàu cuối cùng đi qua, rồi lặng lẽ ngắm nhìn một phố huyện ngập tràn bóng tối với những cảnh đời còn khốn khó hơn mình.Chẳng biết từ bao giờ Liên cũng đã trở nên quen thuộc với nó. Bởi vậy mà nó như in hằn, khắc sâu trong lòng chị và hiện lên trang văn của Thạch Lam một cách rất đỗi tự nhiên.

   Bước vào tác phẩm, Liên mang đến cho người đọc cảm giác buồn man mác, ảm đạm, ngưng đọng của một phố huyện nghèo nhưng rất đỗi thân thuộc và đậm chất dư vị làng quê Việt Nam. Nhà văn viết đầy chậm rãi và ngân nga như một câu thơ để thông báo: Chiều, chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru… để từ đó đôi mắt Liên lặng nhìn mọi thử chuyển dịch dần từ những ánh sáng còn rơi rớt lại của buổi hoàng hôn như phương tây đỏ rực, những đám mây ánh hồng đến cái bóng tối đang ngập đầy dần trong đôi mắt Liên. Phố huyện cũng có âm thanh của riêng nó, nhưng Liên chỉ nghe thấy những gì nhỏ bé nhất: là tiếng trống thu không từng tiếng một vang ra gọi buổi chiều khô khốc, tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve, tiếng chõng kêu cót két, tiếng mấy người bán hàng còn trò chuyện vào lúc chợ đã vãn từ lâu… Ngần đấy âm thanh, hình ảnh, đường nét không làm cho nơi đây trở nên sống động mà ngược lại cứ trải dài thêm sự tĩnh lặng, yên ắng đến nao lòng. Và khi màn đêm buông xuống, cái phố huyện nhỏ bé kia bỗng trở nên rộng lớn hơn khi bóng tối cứ lần lượt bủa vây, bao trùm. Có ánh sáng, nhưng chỉ là khe sáng, vệt sáng, hột sáng, quầng sáng… không đủ để lấp đi cái bóng tối lan tỏa khắp các con đường, các ngõ ngách. Thế giới cảnh vật của Liên ở phố huyện này mỗi ngày đều như thế, không có gì sáng sủa, thậm chí còn đáng sợ. Nhưng nỗi sợ đó chỉ là những ngày đầu, giờ đây chị đã quen lúc nào không hay biết. Hơn thế, Liên còn thấy gắn bó, thấy được cái đặc trưng riêng có của vùng đất này. Cái mùi âm ẩm bốc lên từ cát nóng lẫn với bụi đất của ban ngày, bầu trời đêm với ngàn ngôi sao lấp lánh, những loạt hoa bàng khẽ rụng trên vai… Liên đều thấy yêu và gắn bó với nó. Bởi vậy, dẫu có buồn bã nhưng không có lấy một lời than thở. Liên chấp nhận đến mức bằng lòng với nó và còn có một lý do Liên thương xót cho những con người nơi đây.

   Chân dung những người dân phố huyện là một bức tranh đời sống đầy thương cảm mà Thạch Lam đã gửi gắm qua đôi mắt Liên. Liên lặng thầm thương xót cho những mảnh đời nghèo khó, khốn khổ hơn mình. Chị thương những đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa. Chị thương mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, tối dọn quán bán hàng mà dù sớm hay muộn cũng có ăn thua gì. Chị thương bà cụ Thi điên vội uống cút rượt ti rồi lảo đảo đi khuất về phía làng. Chị thương bác phở Siêu đêm nào cũng kĩu kịt gánh thứ quà xa xỉ mà chính chị chẳng dám ăn. Chị thương gia đình bác xẩm với cả gia tài là manh chiếu rách, cái thau sắt, chiếc đàn bầu và đứa con nghịch bò ra đất. Còn bao nhiêu mảnh đời nữa chị thương mà chưa kể ra hết được? Chỉ ngần ấy thôi cũng để Liên tái hiện lại chân thực cuộc sống nghèo tăm tối của người dân phố huyện trước Cách mạng tháng Tám. Liên đồng cảm, xót thương cho họ dẫu bản thân mình cũng chẳng hơn. Nhưng tấm lòng nhân hậu của cô bé sớm trưởng thành này, gợi lên cho người đọc nỗi niềm thương cảm đầy ám ảnh về cuộc sống của người dân trong đêm trường nô lệ trước đây. Vậy hóa ra không phải tự dưng Liên nhìn đâu cũng thấy bóng tối, còn ánh sáng chỗ nào cũng nhỏ bé, yếu ớt, vô vọng trước màn đêm. Điều đó tượng trưng cho bức tranh đời sống của người dân lao động nghèo trước cách mạng tháng Tám, họ sống dật dờ, lầm lũi như những bóng ma trong một không gian chật hẹp, tù túng, ngưng đọng, có cảm giác mất dần sự sống. Hay đúng hơn họ cứ sống tạm bợ, sống cho qua ngày. Nên đến ước mơ đổi đời là cái cần nhất họ cũng chẳng rõ ràng. Liên dẫu trân trọng chừng ấy người trong bóng tối luôn mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hằng ngày của họ, nhưng chị biết rằng nó thật mơ hồ, mong manh đến tội nghiệp. Càng vậy, nỗi niềm thương xót của Liên càng cứa sâu, càng ám ảnh trong lòng người đọc.

   Vậy Liên có giống như họ hay không? Nhà văn Thạch Lam đã trả lời câu hỏi đó trong tác phẩm. Liên sống cùng một nơi với họ, cũng hoàn cảnh chẳng khá khẩm gì hơn nhưng có vẻ ước mơ, khát vọng của cuộc sống của Liên thì khác. Ngày nào Liên và em trai dù buồn ngủ ríu cả mắt vẫn cố thức để đợi tàu. Sự trỗi dậy trong tâm hồn Liên nằm ở thời khắc con tàu đi qua mà Thạch Lam cố tình miêu tả thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ. Đoàn tàu xuất hiện như một điểm nhấn độc đáo trong tác phẩm. Dù là trong khoảnh khắc nhưng nó làm cho Liên sống trọn vẹn cảm xúc, được thỏa mãn khát khao. Ngắm con tàu vụt qua Liên như không bỏ sót một chút âm thanh rầm rộ của nó, không để lỡ bất cứ chút ánh sáng rực rỡ nào tỏa ra. Chỉ giây phút ngắn ngủi ấy Liên đắm mình trong âm thanh, ánh sáng mà phố huyện không bao giờ có. Trong phút chốc Liên quên đi bao nhọc nhằn, bao đêm tối bủa vây. Dẫu ít ỏi nhưng chị cũng sẽ được sống lại những kí ức về Hà Nội xa xăm, một Hà Nội huyên náo và rực rỡ, lấp lánh những ánh đèn và cốc nước xanh đỏ. Có người nói đó ước mơ của Liên, có phần rõ ràng hơn so với những người dân phố huyện. Nhưng đó phải là ước vọng, vì ước mơ sẽ hướng đến tương lai, còn ước vọng sẽ chỉ là quá khứ. Xét đến cùng Liên cũng vẫn giống họ, dù có mong chờ thật nhưng cũng chẳng dám nhìn xa đến tương lai. Vậy nên, Liên thương người dân phố huyện, Thạch Lam lại thương Liên. Ông nhìn thấy chiều sâu khao khát của nhân vật, để nó le lói lên, trỗi dậy theo bản năng nhưng vẫn không thể để Liên có sự bứt phá được. Đó không phải là hạn chế của Thạch Lam mà là hạn chế chung của cả thời đại, cả một giai đoạn văn học như thế.

   Cuối cùng bao khao khát về cuộc đời, về thứ ánh sáng mà con tàu lao qua phố huyện, thứ ánh sáng khác hẳn với ngọn đèn của chị Tí… lại trở về trong tĩnh lặng. Liên để mọi thứ lắng lại trong bóng đêm tĩnh mịch và những khoảng lặng mơ hồ rồi chìm trong giấc ngủ. Phố huyện lại trở về với những gì vốn có của nó: yến ắng, buồn tẻ, ngưng đọng. Có chăng nỗi ước vọng của Liên hằng đêm phần nào sẽ “khuấy động” cái “ao đời bằng phẳng ấy trong tác phẩm.

Đề bài: Cảm nhận của anh chị về nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

I. Mở bài

– Giới thiệu những nét cơ bản về Thạch Lam truyện ngắn Hai đứa trẻ: Một cây bút với cái nhìn nhân đạo về cuộc sống con người, một truyện ngắn trong trẻo có khả năng thanh lọc con người

– Giới thiệu nhân vật Liên: Nhân vật trung tâm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh nhân vật

    + Trước ở Hà Nội, từ khi bố mất việc, hai chị em về quê.

    + Mẹ giao trông coi một gian hàng tạp hoá nhỏ xíu.

    + Chiều nào cũng dọn hàng, đếm hàng, tính tiền, ngồi trên cái chõng sắp gãy nhìn cảnh và người phố huyện.

    + Ngày chợ phiên mà chỉ bán được 2,5 bánh xà phòng, một cút rượu ti nhỏ

⇒ Hoàn cảnh khó khăn, sa sút, mức sống eo hẹp

2. Liên – cô bé có tâm hồn nhạy cảm, yêu quê hương và giàu lòng trắc ẩn

   a. Cô bé có tâm hôn nhạy cảm, yêu quê hương

   • Tâm hồn Liên đã có những cảm nhận hết sức tinh tế trước những thời điểm khác nhau trong ngày:

– Cảm nhận bức ranh phố huyện lúc chiều tàn: với hình ảnh, âm thanh, đường nét, màu sắc: Tiếng trống thu không, “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, “tiếng ếch nhái kêu ran”,…

⇒ Cảm nhận bức hoạ đồng quê quen thuộc, bình dị, thơ mộng, gợi cảm, mang cốt cách Việt Nam.

    + Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này” từ tâm hồn nhạy cảm

⇒ Tâm hồn nhạy cảm và lòng yêu quê hương

   b. Cô bé giàu lòng trắc ẩn

• Xót thương cho những kiếp người nhỏ bé nơi phố huyện nghèo:

– Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

    + Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.

    + Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu, xót thương bà cụ Thi điên

⇒ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình

3. Liên – cô bé có niềm hi vọng và ước mong vào tương lai tốt đẹp hơn cho cuộc sống nghèo nàn buồn tẻ nơi phố huyện nghèo

   Thông qua tâm trạng của Liên trong sự háo hức chờ đợi tàu và niềm ước mơ về Hà Nội xa xăm

   • Trước khi tàu đến

– Liên cùng em trai dù đã rất buồn ngủ nhưng vẫn cố thức để đợi tàu: Cô thức vì muốn được nhìn thấy chuyến tàu như một hoạt động cuối cùng của đêm khuya

– Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu

– Tiếng Liên gọi em một cách cuống quýt, giục giã như thể nếu chậm một chút sẽ mất đi điều gì đó quý giá

⇒ Niềm háo hức, mong ngóng chuyến tàu đêm như mong ngóng một điều gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống vốn tẻ nhạt thường ngày

   • Khi tàu đến

– Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vượt qua

– Dù chỉ trong chốc lát, Liên cũng thấy “những toa hạng trên sang trọng lố nhố người, đồng và kền lấp lánh” ⇒ thế giới khác với cuộc sống thường ngày của chị

– Trong tâm hồn cô cơn xúc động vẫn chưa lắng xuống

– Liên mơ tưởng về Hà Nội, một Hà Nội sáng rực và xa xăm, đẹp, giàu sang và sung sướng… ⇒ thêm tiếc nuối và ngán ngẩm cho cuộc sống hiện tại.

⇒ Tâm trạng xúc động, vui sướng, hạnh phúc, mơ mộng

• Khi tàu đi

– Như bao con người khác, Liên cũng “mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống hằng ngày”

– Khi tàu đi qua, Liên trở về với tâm trạng buồn như cuộc sống thường ngày nơi phố huyện

⇒ Tâm trạng nuối tiếc, niềm suy tư thao thức về cuộc sống hằng ngày nơi phố huyện nghèo

III. Kết bài

– Nhấn mạnh ấn tượng của nhân vật Liên trong lòng độc giả bởi tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn và niềm mơ ước

– Khái quát một số nét nghệ thuật tiêu biểu thể hiện thành công nhân vật

   Thạch Lam, cây bút văn xuôi lãng mạn nổi tiếng của văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông không đi sâu vào những sự kiện, biến cố mang tính chất gay cấn, cũng không đi vào cái lãng mạn tiểu tư sản đang là thời thượng lúc bấy giờ. Thạch Lam tìm chất lãng mạn trong những thứ bình dị, đời thường nhất. Hai đứa trẻ là tác phẩm thành công nhất của ông, một tác phẩm đượm buồn, bàng bạc chất thơ được nhìn nhận dưới con mắt của cô gái mới lớn – Liên. Liên là cô gái có tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước cuộc sống và thiên nhiên.

    Liên vốn sinh sống ở Hà Nội, cô từng được hưởng cuộc sống tràn ngập ánh sáng, niềm vui và hạnh phúc. Nhưng do biến cố của gia đình cô cùng mọi người chuyển về nơi phố huyện nghèo nàn, hiu hắt. Liên đã quen dần với cuộc sống nơi đây, yêu mùi đất ngai ngái, yêu cả những ngõ tối sâu thẳm nhưng hơn hết trong Liên vẫn bừng lên khao khát về một cuộc sống khác, cuộc sống của mơ ước, hi vọng.

    Liên là một cô gái có tầm lòng nhân hậu, giàu lòng yêu thương. Nhìn thấy cảnh những đứa trẻ con nhà khó khăn nhặt rác, cô bé thương cảm cho số phận của chúng song không thể làm gì bởi chính gia đình Liên cũng nghèo, bản thân hai chị em đang phải phụ giúp gia đình kiếm sống bằng cửa hàng tạp hóa nhỏ. Thấy gia cảnh chị Tí cô cũng ái ngại thay cho họ. Họ ngày đi mò cua bắt ốc, tối lại bán hàng nước mà cuộc sống chẳng khấm khá hơn. Liên ân cần hỏi han và trong lời nói chứa đựng sự xót xa, thương yêu và ái ngại cho gia cảnh của chị Tí. Đối với bà cụ Thi điên, nghe tiếng cười từ xa, như một lẽ tự nhiên, Liên quay vào rót một chén rượu rồi đưa cho cụ, ánh mắt dõi theo cho đến khi cụ đi khuất hẳn. Liên là một cô gái nhân hậu, biết yêu thương, cảm thông cho số phận và nỗi bất hạnh của những người xung quanh. Đôi mắt yêu thương đó cũng chính là tình cảm mà nhà văn Thạch Lam dành cho những người lao động nghèo khổ.

    Không chỉ vậy, Liên còn là cô gái tinh tế, nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc của ngày tàn. Tác phẩm mở đầu bằng một buổi chiều êm ả như nhung và thoảng qua gió mát, gió ngoài đồng đưa vào cùng tiếng ếch nhái kêu ran. Khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng, thanh bình mà đượm buồn hiu quạnh. Tâm hồn Liên nâng niu, cảm nhận từng chuyển động của cuộc sống xung quanh, là mùi ẩm mốc còn lại sau phiên chợ “một mùi âm ẩm bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá”. Đó là mùi của sự thân thuộc, gắn bó với quê hương. Trong khoảnh khắc ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy cái thuốc sơn đen, nỗi buồn của cảnh vật thấm dần vào tâm hồn nhạy cảm của một cô bé mới lớn.

    Khi màn đêm buông xuống, Liên thích thú ngắm nhìn bầu trời với hàng ngàn vạn ánh sao lung linh, lấp lánh trên bầu trời. Và tâm hồn ngây thơ, trong sáng ấy tưởng tượng ra dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân ông thần nông, thế giới cổ tích của tuổi thơ ùa về trong tâm hồn chị. Những cánh hoa bàng mỏng manh khẽ rơi trên vai cũng được tâm hồn nhạy cảm của Liên cảm biết hết. Không chỉ vậy, ẩn sâu trong tâm hồn Liên, cô luôn đi tìm những nguồn sáng khác nhau xung quanh cuộc sống của mình, đó chỉ là những khe sáng, vệt sáng, quầng sáng, … dù nhỏ bé, yếu ớt không thể đi cái tối tắm ngập đầy hết cả không gian nhưng nó cũng cho thấy khát vọng đổi đời mãnh liệt của nhân vật.

    Vậy tại sao khao khát đổi đời lại thể hiện ở nhân vật Liên mạnh mẽ đến vậy. Bởi trước hết Liên còn là một đứa bé, cô đang ở độ tuổi mười bốn, mười lăm, không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn, cô có những nhận biết, cảm nhận thế giới xung quanh rất rõ ràng. Liên lại còn từng được sống trong cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống “mơ ước” nên hơn ai hết cô hiểu vị ngọt của cuộc sống đầy ánh sáng ấy. Nếu như những người dân nơi đây cũng khao khát được đổi đời, nhưng chưa bao họ được hưởng thụ cuộc sống đó nên khao khát ấy vẫn mơ hồ, không xác định. Bởi vậy, khao khát mơ ước đổi đời đặt vào nhân vật Liên là hoàn toàn hợp lí, Liên còn trẻ và còn nhiều cơ hội để thay đổi cuộc sống, để biến mơ ước thành hiện thực. Khao khát đổi đời thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc cũng cho thấy tấm lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam đối với con người: thương cảm cho số phận của những kiếp người sống mòn nơi phố huyện. Nâng niu và trân trọng mơ ước của Liên và những con người nơi đây.

    Và khao khát đổi đời đó được tập trung thể hiện rõ nhất trong cảnh chờ đoàn tàu nơi phố huyện đi qua. Chị em Liên thức đợi tàu không phải để bán thêm một vài món hàng như lời mẹ dặn, mà thức để hưởng thụ đôi chút khoảnh khắc lung linh, rực rỡ ánh sáng của một cuộc sống khác thoáng qua phút chốc. Đây có lẽ không phải đêm đầu tiên hai chị em Liên thức đợi tàu, mà rất nhiều đêm kể từ khi chuyển về nơi phố huyện sinh sống, nhưng khao khát đợi tàu vẫn không thôi cháy bỏng, đặc biệt là với Liên. Cô không ngủ, mà chờ bằng được đoàn tàu đi qua. Tiếng gọi em không chỉ đơn thuần là tiếng gọi mà nó còn như một tiếng reo vui, hân hoan khi đoàn tàu sắp đi qua. Liên đợi tàu từ khi đèn ghi xuất hiện cho đến khi nó đi khuất chỉ còn một chấm đỏ ở sau đuôi và chìm vào tắm tôi. Bằng còn mắt quan sát tinh tường và tâm hồn nhạy cảm, ngay lập tức Liên đã nhận ra đoàn tàu hôm nay hình như kém sáng hơn. Nếu không phải ngày nào cũng khao khát ngắm nghía dõi theo thì sao Liên có thể nhận ra sự thay đổi ấy khi đoan tàu chỉ vụt qua phố huyện trong vài giây ngắn ngủi.

    Đối với Liên đoàn tàu không chỉ đơn thuần là một sự vật lướt nhanh qua phố huyện, mà bản thân đoàn tàu đó còn mang rất nhiều ý nghĩa. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ xa xôi, đẹp đẽ, của Hà Nội xa xăm, đó là thế giới thần tiên mà cô đã từng được sống. Đoàn tàu còn là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà không chỉ Liên mà tất cả người dân phố huyện nơi đây đều khao khát. Đoàn tàu là mơ ước đổi đời mãnh liệt, tha thiết của con người nơi đây đặc biệt là Liên. Với hình ảnh đoàn toàn, Thạch lam cũng gửi gắm nhiều tình cảm, xót thương cho những đứa trẻ, người dân phố huyện. Ông trân trọng khát vọng đổi đời chân chính của họ. Đồng thời cũng gửi gắm thông điệp con người cần phải vượt thoát khỏi thực tại nghèo nàn, tù túng để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

    Nhân vật Liên được tác giả miêu tả chủ yếu ở phương diện nội tâm. Với lời văn giàu chất thơ, đi sâu miêu tả những rung động tinh tế của nhân vật trước thiên nhiên và những khao khát mãnh liệt được đổi đời của nhân vật.

    Nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam không chỉ là một cô gái có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, yêu thương những người xung quanh, mà còn là một cô gái có khao khát sống, đổi đời mãnh liệt. Tâm hồn trẻ thơ đó luôn hướng đến một cuộc sống đẹp hơn, đáng sống hơn. Qua nhân vật này tác giả cũng gửi gắm những giá trị nhân đạo sâu sắc.

   Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Cái giá trị đích thực của văn học là con người, cộng đồng con người và cuộc sống con người chứ không phải là một cái gì khác. Ai muốn tìm một cái gì khác thì sẽ không có chỗ đứng, không có triển vọng về tương lai bởi nó xa lạ với con người và con người cũng không cần đến nó”. Nói như vậy có nghĩa là các nhà văn phải hướng ngòi bút của mình vào con người, lấy con người là trung tâm của tác phẩm. Cũng giống như bao nhà văn khác trang văn của Thạch Lam luôn viết về cuộc sống con người, nhưng nhân vật của ông không có nét dữ dội, mãnh liệt như chị Dậu, Chí Phèo hay Lão Hạc mà nó mang vẻ đẹp bình dị, nhẹ nhàng, ông nhấn mạnh đến đời sống tâm hồn của nhân vật. Tiêu biểu cho con người của trang văn Thạch Lam là cô bé Liên trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” mang tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và luôn khao khát về cuộc sống mới tốt đẹp hơn ở tương lai.

   “Hai đứa trẻ” kể về cuộc sống con người nơi phố huyện nghèo, với nhân vật chính là Liên và An hai chị em đã từng sống ở Hà Nội nhộn nhịp nhưng khi cha bị mất việc hai đứa nhỏ cùng gia đình chuyển về phố huyện sống. Nói là phố huyện nhưng nơi đó cũng nghèo nàn, cuộc sống vẫn còn khó khăn. Hai chị em được mẹ giao cho việc trông nom cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu bán mấy thứ lặt vặt để kiếm thêm thu nhập phụ giúp gia đình.

   Nhân vật Liên là cô chị cả mới lớn trong gia đình nên rất đảm đang, biết quán xuyến công việc giúp mẹ. Ban ngày thì bán hàng tối đến thì dọn hàng lại, hình ảnh “Liên đếm lại những phong thuốc lào, xếp vào hòm những bánh xà phòng còn lại, vừa lẩm nhẩm tính tiền hàng” cùng với một chiếc khóa chị đeo vào cái dây xà tích bạc ở thắt lưng khiến cho “chị cảm thấy hãnh diện, vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang”.

   Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm với sự chuyển biến của cảnh vật xung quanh. Khung cảnh ngày tàn được Liên thu vào tầm mắt và cảm nhận những âm thanh, hình ảnh báo hiệu một ngày tàn sắp qua, chuẩn bị cho một đêm tối mới cũng giống như bao đêm khác. “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều; phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Tất cả đã sẵn sàng cho bóng tối bao trùm. Tâm trạng của con người cũng trở nên buồn bã, hiu quạnh “đôi mắt chị bóng tối ngập dần đầy và cái nỗi buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị, Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Khi đêm về bóng tối bao trùm cũng khiến cho cô chìm ngập trong nỗi buồn “qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào dưới mặt lá vùng sáng nhỏ xanh nhấp nhánh rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một” khiến cho tâm hồn chị tĩnh lặng, có những cảm giác mơ hồ. Liên thật tinh tế khi đã lắng mình cảm nhận, quan sát từng chuyển động nhỏ xung quanh.

   Cô bé còn là người giàu lòng yêu thương, đồng cảm và sẻ chia với những mảnh đời nghèo khổ. Chị thương cho lũ trẻ con nhà nghèo khi tan chợ chiều chúng “cúi lom khom” nhặt nhạnh thanh tre, thanh nứa hay bất cứ thứ gì còn dùng được của người bán hàng bỏ lại. Liên thương cho hoàn cảnh của chúng nhưng cũng không biết phải làm sao để giúp đỡ bởi chính chị cũng nghèo và thiếu thốn. Liên cũng thương cho những mảnh đời vất vả cơ cực hiện lên hằng ngày xung quanh cô: Đó là mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt tép tối lại đội nhau ra gốc bàng trông chờ vào bát nước chè xanh mà vẫn không ăn thua, đó là bà cụ Thi điên hay ra chỗ Liên mua rượu, cụ đi ra từ bóng tối cũng khuất bóng đi vào trong đêm tối với tiếng cười khanh khách khuất bóng đằng xa, đó là gánh phở bác Siêu như một thứ quà xa xỉ bởi chính con người ở đây họ cũng nghèo nên bác chẳng thể bán được cho ai, đó còn là gia đình bác Xẩm ngồi bên đường với manh chiếu rách và cái thau trống trơ để chờ đợi giọt hạnh phúc hi hữu mà người khác cho, thằng con thì bò ra ngoài đất nhặt những thứ rác rưởi. Ngày nào cũng vậy, cũng chừng ấy con người, chừng ấy công việc lặp đi lặp lại, nhàm chán, buồn tẻ. Cuộc sống của Liên cũng chẳng khác gì họ, cô thương cho nhứng kiếp người nghèo khổ quanh mình cũng chính là thương cho bản thân và gia đình đang phải vất vả kiếm ăn để trang trải cuộc sống. Thạch Lam cảm thương cho nhân vật, xót xa cho số phận của những người dân nghèo vô cùng nên ông mới để cho Liên quan sát và cảm nhận từng mảnh đời lay lắt mà khắc họa nên bức tranh cuộc sống để lại nhiều xúc cảm thương tâm, xót xa cho người đọc.

   Tuy nhiên ông cũng là nhà nhân đạo lớn nên Thạch Lam không nỡ để cho nhân vật của mình chìm trong bóng tối tuyệt vọng. Cô bé Liên luôn có niềm tin và tương lai tươi sáng và khao khát cuộc sống tốt hơn. Điều đó được thể hiện trong tâm trạng háo hức chờ tàu và sự vui mừng rang rỡ khi đứng ngắm chuyến tàu qua. Dù đã buồn ngủ ríu cả mắt nhưng chị vẫn cố thức để nhìn thấy hoạt động cuối cùng nơi phố huyện, chuyến tàu dù chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng đó là cả ước mơ về tương lai và hoài niệm về quá khứ. Tàu đến mang theo thứ âm thanh nhộn nhịp của tiếng còi rít, tiếng tàu rầm rộ đi tới, tiếng nói chuyện của những hành khách phá tan không gian tĩnh mịch, buồn thảm nơi đây. Tàu đến mang theo thứ ánh sáng của thế giới thần tiên xa lạ khác hẳn với ánh đèn leo lét của những kiếp người tàn, đó là “Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa”, “Các toa đèn sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường”, ánh sáng của đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng đã xóa tan đi đêm tối mịt mù, lóe lên cho họ niềm tin, hi vọng về tương lai ngày mai tươi sáng hơn. Dù cho chỉ thoáng chốc vụt qua nhưng chuyến tàu đêm vô cùng có ý nghĩa với chị em Liên. Dường như đối với chúng đó là niềm say mê vì không những nó đi qua sự phẳng lặng, tẻ nhạt của cuộc sống phố huyện mà còn đưa Liên trở về quá khứ xa xưa khi cha cô chưa bị mất việc cả nhà vẫn còn sống ở Hà Nội huyên náo, nhộn nhịp khi ấy hai đứa trẻ đang được sống và vui chơi trong những tháng ngày tươi đẹp.

   Như vậy Liên hiện lên là một cô gái giàu cảm xúc, suy tư trong cô luôn mang một nỗi buồn man mác trước cảnh chiều tà và bóng đêm bao phủ nhưng lại sung sướng vuiver khi chuyến tàu đêm đi qua. Chẳng cần bằng cốt truyện hấp dẫn li kì, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để khám phá ra giá trị cuộc sống, vẻ đẹp con người trong suy nghĩ và cảm nhận của Liên. Nếu nhân vật trong văn học trung đại thường được nhìn nhận dưới góc nhìn đạo đức, luân lí, tốt xấu rõ ràng còn đến với trang văn Thạch Lam người đọc mới thấy rõ sự đa dạng và chuyển biến tinh vi trong nội tâm nhân vật được tác giả miêu tả rõ nét.

   Quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam về con người ông luôn nhấn mạng vẻ đẹp tâm hồn, sâu thẳm bên trong, ông cho rằng: “Đối với nhà văn điều quan trọng nhất là phải miêu tả sự sống mà sự sống tinh vi nhất, sâu kín nhất là sự sống của tâm hồn”. Nhân vật Liên được hiện lên với nét đẹp sâu thẳm bên trong con người từ những suy nghĩ đến cảm nhận để lại cho độc giả nhiều ấn tượng. Qua đó cho ta hiểu thêm về những mảnh đời cơ cực trong cuộc sống, càng căm ghét bao nhiêu tội ác của giặc, càng thêm trân trọng giá trị của cuộc sống hiện tại.

   Trong không khí “náo nhiệt” của văn chương lãng mạn 1930 – 1945 của thế kỉ trước, có một nhà văn xuất hiện như một nốt lặng đầy bình thản, thâm trầm mà vô cùng sâu sắc, ấn tượng. Đó là Thạch Lam. Ông được ví như là người dung hòa giữa hai chủ nghĩa hiện thực và lãng mạn. Điều đó thể hiện qua ngòi bút viết truyện ngắn thấm đẫm chất trữ tình nhưng vẫn giản dị, nhẹ nhàng gợi lên nhiều suy ngẫm về thế thái nhân tình. Hai đứa trẻ là tác phẩm tiêu biểu như thế của ông. Ở đó, cô bé Liên – nhân vật chính trong truyện ngắn đã trở thành “lăng kính”, thành “đôi mắt” để Thạch Lam thể hiện cách nhìn đời, nhìn người và phô diễn khả năng nghệ thuật độc đáo của mình.

    Liên là nhân vật duy trì xuyên suốt mạch nguồn cảm xúc trữ tình của tác phẩm, được khơi gợi từ kí ức tuổi thơ của chính tác giả trong những ngày còn nhỏ sống ở phố huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Cô bé mới lớn ấy không được khắc họa bằng những nét quen thuộc của một nhân vật văn xuôi thông thường là ngoại hình, tính cách… mà lại là thế giới nội tâm. Thạch Lam đã nắm bắt được những rung động tinh vi, những chuyển biến đầy tinh tế, khẽ khàng trong tâm hồn của một cô bé những tưởng còn non nớt để lặng nhìn cảnh sống, cuộc sống nơi phố huyện nghèo bên cạnh một ga xép nhỏ có đường tàu chạy qua. Để rồi từ đó gợi lên một cách đầy ám ảnh cho người đọc về những cảnh đời, mà Liên cũng là một số phận tiêu biểu trong đó.

    Bằng một vài nét phác thảo như bao nhân vật khác trong truyện, cảnh ngộ của Liên hiện lên nhiều đáng thương. Do thầy mất việc, nên hai chị em Liên phải rời thành phố Hà Nội sầm uất, lấp lánh cùng với mẹ về sống tại một phố huyện nghèo, tối tăm để trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Mẹ tất bật với công việc hàng xáo, thi thoảng mới đến, còn để lại cho Liên và em trai là An quản lý, trông coi. Gọi là cửa hàng cho sang, chứ hàng hóa chỉ có vài ba thứ lặt vặt là thuốc lá, thuốc lào, bánh xà phòng, rượu…, đến khách chỉ mua đến một cút rượu ti bé tẹo, thậm chí còn mua chịu nửa bánh xà phòng. Cuộc sống của Liên ngày nào cũng vậy, ngày bán hàng, đêm cố thức để đợi chuyến tàu cuối cùng đi qua, rồi lặng lẽ ngắm nhìn một phố huyện ngập tràn bóng tối với những cảnh đời còn khốn khó hơn mình.Chẳng biết từ bao giờ Liên cũng đã trở nên quen thuộc với nó. Bởi vậy mà nó như in hằn, khắc sâu trong lòng chị và hiện lên trang văn của Thạch Lam một cách rất đỗi tự nhiên.

    Bước vào tác phẩm, Liên mang đến cho người đọc cảm giác buồn man mác, ảm đạm, ngưng đọng của một phố huyện nghèo nhưng rất đỗi thân thuộc và đậm chất dư vị làng quê Việt Nam. Nhà văn viết đầy chậm rãi và ngân nga như một câu thơ để thông báo: Chiều, chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru… để từ đó đôi mắt Liên lặng nhìn mọi thử chuyển dịch dần từ những ánh sáng còn rơi rớt lại của buổi hoàng hôn như phương tây đỏ rực, những đám mây ánh hồng đến cái bóng tối đang ngập đầy dần trong đôi mắt Liên. Phố huyện cũng có âm thanh của riêng nó, nhưng Liên chỉ nghe thấy những gì nhỏ bé nhất: là tiếng trống thu không từng tiếng một vang ra gọi buổi chiều khô khốc, tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve, tiếng chõng kêu cót két, tiếng mấy người bán hàng còn trò chuyện vào lúc chợ đã vãn từ lâu… Ngần đấy âm thanh, hình ảnh, đường nét không làm cho nơi đây trở nên sống động mà ngược lại cứ trải dài thêm sự tĩnh lặng, yên ắng đến nao lòng. Và khi màn đêm buông xuống, cái phố huyện nhỏ bé kia bỗng trở nên rộng lớn hơn khi bóng tối cứ lần lượt bủa vây, bao trùm. Có ánh sáng, nhưng chỉ là khe sáng, vệt sáng, hột sáng, quầng sáng… không đủ để lấp đi cái bóng tối lan tỏa khắp các con đường, các ngõ ngách. Thế giới cảnh vật của Liên ở phố huyện này mỗi ngày đều như thế, không có gì sáng sủa, thậm chí còn đáng sợ. Nhưng nỗi sợ đó chỉ là những ngày đầu, giờ đây chị đã quen lúc nào không hay biết. Hơn thế, Liên còn thấy gắn bó, thấy được cái đặc trưng riêng có của vùng đất này. Cái mùi âm ẩm bốc lên từ cát nóng lẫn với bụi đất của ban ngày, bầu trời đêm với ngàn ngôi sao lấp lánh, những loạt hoa bàng khẽ rụng trên vai… Liên đều thấy yêu và gắn bó với nó. Bởi vậy, dẫu có buồn bã nhưng không có lấy một lời than thở. Liên chấp nhận đến mức bằng lòng với nó và còn có một lý do Liên thương xót cho những con người nơi đây.

    Chân dung những người dân phố huyện là một bức tranh đời sống đầy thương cảm mà Thạch Lam đã gửi gắm qua đôi mắt Liên. Liên lặng thầm thương xót cho những mảnh đời nghèo khó, khốn khổ hơn mình. Chị thương những đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa. Chị thương mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, tối dọn quán bán hàng mà dù sớm hay muộn cũng có ăn thua gì. Chị thương bà cụ Thi điên vội uống cút rượt ti rồi lảo đảo đi khuất về phía làng. Chị thương bác phở Siêu đêm nào cũng kĩu kịt gánh thứ quà xa xỉ mà chính chị chẳng dám ăn. Chị thương gia đình bác xẩm với cả gia tài là manh chiếu rách, cái thau sắt, chiếc đàn bầu và đứa con nghịch bò ra đất. Còn bao nhiêu mảnh đời nữa chị thương mà chưa kể ra hết được? Chỉ ngần ấy thôi cũng để Liên tái hiện lại chân thực cuộc sống nghèo tăm tối của người dân phố huyện trước Cách mạng tháng Tám. Liên đồng cảm, xót thương cho họ dẫu bản thân mình cũng chẳng hơn. Nhưng tấm lòng nhân hậu của cô bé sớm trưởng thành này, gợi lên cho người đọc nỗi niềm thương cảm đầy ám ảnh về cuộc sống của người dân trong đêm trường nô lệ trước đây. Vậy hóa ra không phải tự dưng Liên nhìn đâu cũng thấy bóng tối, còn ánh sáng chỗ nào cũng nhỏ bé, yếu ớt, vô vọng trước màn đêm. Điều đó tượng trưng cho bức tranh đời sống của người dân lao động nghèo trước cách mạng tháng Tám, họ sống dật dờ, lầm lũi như những bóng ma trong một không gian chật hẹp, tù túng, ngưng đọng, có cảm giác mất dần sự sống. Hay đúng hơn họ cứ sống tạm bợ, sống cho qua ngày. Nên đến ước mơ đổi đời là cái cần nhất họ cũng chẳng rõ ràng. Liên dẫu trân trọng chừng ấy người trong bóng tối luôn mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hằng ngày của họ, nhưng chị biết rằng nó thật mơ hồ, mong manh đến tội nghiệp. Càng vậy, nỗi niềm thương xót của Liên càng cứa sâu, càng ám ảnh trong lòng người đọc.

    Vậy Liên có giống như họ hay không? Nhà văn Thạch Lam đã trả lời câu hỏi đó trong tác phẩm. Liên sống cùng một nơi với họ, cũng hoàn cảnh chẳng khá khẩm gì hơn nhưng có vẻ ước mơ, khát vọng của cuộc sống của Liên thì khác. Ngày nào Liên và em trai dù buồn ngủ ríu cả mắt vẫn cố thức để đợi tàu. Sự trỗi dậy trong tâm hồn Liên nằm ở thời khắc con tàu đi qua mà Thạch Lam cố tình miêu tả thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ. Đoàn tàu xuất hiện như một điểm nhấn độc đáo trong tác phẩm. Dù là trong khoảnh khắc nhưng nó làm cho Liên sống trọn vẹn cảm xúc, được thỏa mãn khát khao. Ngắm con tàu vụt qua Liên như không bỏ sót một chút âm thanh rầm rộ của nó, không để lỡ bất cứ chút ánh sáng rực rỡ nào tỏa ra. Chỉ giây phút ngắn ngủi ấy Liên đắm mình trong âm thanh, ánh sáng mà phố huyện không bao giờ có. Trong phút chốc Liên quên đi bao nhọc nhằn, bao đêm tối bủa vây. Dẫu ít ỏi nhưng chị cũng sẽ được sống lại những kí ức về Hà Nội xa xăm, một Hà Nội huyên náo và rực rỡ, lấp lánh những ánh đèn và cốc nước xanh đỏ. Có người nói đó ước mơ của Liên, có phần rõ ràng hơn so với những người dân phố huyện. Nhưng đó phải là ước vọng, vì ước mơ sẽ hướng đến tương lai, còn ước vọng sẽ chỉ là quá khứ. Xét đến cùng Liên cũng vẫn giống họ, dù có mong chờ thật nhưng cũng chẳng dám nhìn xa đến tương lai. Vậy nên, Liên thương người dân phố huyện, Thạch Lam lại thương Liên. Ông nhìn thấy chiều sâu khao khát của nhân vật, để nó le lói lên, trỗi dậy theo bản năng nhưng vẫn không thể để Liên có sự bứt phá được. Đó không phải là hạn chế của Thạch Lam mà là hạn chế chung của cả thời đại, cả một giai đoạn văn học như thế.

   Cuối cùng bao khao khát về cuộc đời, về thứ ánh sáng mà con tàu lao qua phố huyện, thứ ánh sáng khác hẳn với ngọn đèn của chị Tí… lại trở về trong tĩnh lặng. Liên để mọi thứ lắng lại trong bóng đêm tĩnh mịch và những khoảng lặng mơ hồ rồi chìm trong giấc ngủ. Phố huyện lại trở về với những gì vốn có của nó: yến ắng, buồn tẻ, ngưng đọng. Có chăng nỗi ước vọng của Liên hằng đêm phần nào sẽ “khuấy động” cái “ao đời bằng phẳng ấy trong tác phẩm.

Đề bài: Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

I. Mở bài

– Giới thiệu vài nét tiêu biểu về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Chữ người tử tù: Tác giả với phong cách tài hoa uyên bác. Chữ người tử tù là một truyện ngắn đặc sắc trong Vang bóng một thời

– Khẳng định trong truyện ngắn này, nhân vật Huấn Cao và quản ngục là hai nhân trung tâm của tác phẩm.Thông qua thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục càng làm nổi bật nhân cách cao đẹp của họ

II. Thân bài

1. Thái độ của Huấn Cao khi chưa biết quản ngục là “thanh âm trong trẻo”

a. Thái độ khi lần đầu tiếp xúc với quản ngục

– Giới thiệu hoàn cảnh gặp gỡ của hai nhân vật: Huấn Cao và quản ngục gặp nhau lân đầu tiên khi quản ngục tiếp nhận nhóm tử tù nguy hiểm, trong đó có Huấn Cao – thủ lĩnh

– Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông: “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải.

⇒ Đối với Huấn Cao, quản ngục và bọn lính áp giải chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. ⇒ Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo

⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho

b. Thái độ trong đối với quản ngục trong những ngày biệt giam

– Trong những ngày biệt giam, mặc dù được quản ngục đối đãi rất mực tử tế, nhưng do Huấn Cao nghĩ quản ngục vẫn là một tay sai trung thành cho chế độ, không có tấm lòng lương thiện nên ông vẫn lạnh lùng với những hành động biệt đãi của quản ngục:

– Hành động biệt đãi của quản ngục:

    + Mong muốn: “Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”

    + Sai người đem rượu và đồ nhắm đến cho Huấn Cao vì sợ trong buồng giam lạnh

    + Khép nép bày tỏ: Biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều

– Thái độ, hành động của Huấn Cao:

    + Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”

⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.

    + Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”.

⇒ Không khuất phục trước cường quyền.

⇒ khí phách của một người anh hùng.

2. Thái độ của Huấn Cao thay đổi khi nhận ra quản ngục chính là “thanh âm trong trẻo”

– Khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ

⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.

– Cảnh cho chữ diễn ra thể hiện thái độ trân quý tấm lòng trong thiên hạ của Huấn Cao dành cho quản ngục

– Lời khuyên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn…”

⇒ Lời khuyên thể hiện thái độ trân trọng, lo lắng cho một nhân cách cao đẹp

– Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa … trong thiên hạ”

⇒ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.

⇒ Huấn Cao là một anh hùng – nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.

III. Kết bài

– Khẳng định thái độ của Huấn Cao đối với quản ngục kể cả khi ông chưa biết tấm lòng và nhân cách cao đẹp của quản ngục đến khi ông đã biết càng làm nổi bật vẻ đẹp của khí phách và thiên lương trong sáng của Huấn Cao

Đề bài: Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

    Nguyễn Tuân một trong những gương mặt tiêu biểu, độc đáo nhất của văn học lãng mạn. Trước cách mạng ông tìm về quá khứ của một thời chỉ còn vang bóng với những thú vui hết sức tao nhã: ăn kẹo mạch nha, uống trà thưởng trăng,… và một trong những thú vui đó chính là chơi chữ. Thú vui này đã được tái hiện đầy đủ trong tác phẩm Chữ người tử tù. Nhưng tác phẩm không chỉ đơn thuần là sự tái hiện nét chữ cuối cùng của người tử tù Huấn Cao mà đó còn là hành trình nhận thức, để trân trọng tấm lòng biệt nhỡn của quản ngục.

    Mang trong mình hùng tâm, tráng trí chọc trời khuấy nước, Huấn Cao nổi loạn chống lại triều đình, nhưng khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt giam chờ ngày xử án. Trong quãng thời gian chờ ngày xử án ông đã gặp viên quản ngục. Lần giáp mặt đầu tiên giữa Huấn Cao với quản ngục, Huấn Cao tỏ ra vô cùng khinh bạc. Khi đứng trước viên quản ngục, ông cùng các đồng chí của mình vẫn rỗ gông “đánh uỳnh một cái” không thèm để ý đến những lời dọa nạt của bọn lính quản ngục. Cuộc đời ông tung hoành ngang dọc, chọc trời quấy nước, đến cái chết chém ông còn không sợ thì sao có thể run rẩy trước lời thị uy, ra oai, trước những ngón đòn tiểu nhân của chúng được.

    Những ngày sau đó, Huấn Cao vẫn tự nhiên nhận những đồ ăn, thức uống mà quản ngục biệt đãi riêng cho mình, nhưng ông vẫn dửng dưng, không hề vồn vã: “Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù với một thái độ cực kì lễ phép” “Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm”. Ngày viên quản ngục đến gặp Huấn Cao, quản ngục đem những lời lẽ chân thành ngợi ca ông và hỏi ông cần gì để mình chu tất hơn, đáp lại sự ân cần đó, Huấn Cao chỉ đáp lại một cách trịch thượng: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: là nhà người đừng đặt chân vào đây”. Đó là thái độ bất cần, không hoảng sợ trước uy lực của quyền thế. Dù quản ngục có biệt đãi như vậy hay hơn thế nữa, thì nhất quyết Huấn Cao cũng không vì thế mà đánh mất phẩm chất, khí phách của bản thân.

    Nhưng thái độ của ông đã thay đổi hẳn khi biết tâm nguyện cao đẹp, đáng trân trọng của viên quản ngục. Trước những lời tường thuật hết sức chân thành của thầy thơ lại, Huấn Cao đã hiểu hết cả sự biệt đãi riêng mà quản ngục dành cho mình cũng như cho những người bạn của mình, cái thái độ khúm núm khi lần trước vào diện kiến ông, sự lễ phép và những món đồ biệt đãi vẫn mang vào bình thường như trước. Thì ra không phải quản ngục muốn khai thác thêm thông tin gì từ ông, mà thực chất quản ngục khâm phục tài năng và ý chí của mình mà làm như vậy. Ông đã hiểu tất cả tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục với mình. Và đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ” “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm long trong thiên hạ”. Huấn Cao cảm động thực sự trước tấm lòng biết yêu cái đẹp và quý trọng người tài của quản ngục. Trong câu nói đó vừa là sự trân trọng đối với quản ngục, vừa chứa cả sự ân hận, tự trách về thái độ kinh bạc của mình đối với quản ngục trước đây.

    Ngay trong đêm đó, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có diễn ra nơi ngục tù tối tăm, ẩm thấp. Trong buồng giam chật hẹp, dưới ánh sang tỏa ra từ bó đuốc rực sáng cùng tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ, cả ba cái đầu chụm vào để chiêm ngưỡng khoảnh khắc cái đẹp được hình thành. Từng nét chữ Huấn Cao viết ra thể hiện chí tung hoành ngang dọc của một đời người. Từng chữ được viết xong, quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đi, thầy thơ lại run run bưng chậu mực. Quá trình tạo tác cái đẹp hoàn thành, Huấn Cao đỡ quản ngục dậy và căn dặn: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người… Tôi bảo thực đấy: Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Quản ngục cảm động, hai hàng nước mắt chảy ra và chắp tay vái người tù một vái: “kẻ mê muội này xin bãi lĩnh”. Cái đẹp, cái thiên lương có sức cảm hóa phi thường, nó giúp con người nhận ra chân lí, lẽ phải, giúp người ra đi đúng hướng.

    Không phải ngẫu nhiên mà có sự thay đổi trong thái độ của Huấn Cao đối với quản ngục. Ban đầu Huấn Cao tỏ ra khinh bạc, thậm chí căm ghét quản ngục, bởi quản ngục là đại diện cho cường quyền, cho thế lực thù địch với Huấn Cao. Bởi vậy khi bất ngờ nhận được biệt đãi, Huấn Cao càng phải đề cao cảnh giác hơn, bởi ông đã quá quen với những chiêu trò được sử dụng trong nhà tù. Hơn nữa một con người khí phách ngang tàng, chọc trời khuấy nước thì không thể chỉ vì một chút biệt đãi của quản ngục mà có thể đánh mất đi nhân cách, khí phách của bản thân. Thái độ đó hoàn toàn phù hợp với tính cách ngang tàng của Huấn Cao.

    Nhưng sau đó, Huấn Cao đã hoàn toàn thay đổi khi biết được nguyện ước chân thành, tha thiết của quản ngục. Huấn Cao không chỉ là một con người có tài năng khí phách, mà còn là một người có tâm hồn đẹp, trân trọng những con người biết yêu cái đẹp. Sự thay đổi đó của Huấn Cao đã hoàn chỉnh vẻ đẹp hoàn thiện, toàn mĩ của nhân vật: ông không chỉ có khí phách mạnh mẽ mà còn là nhân cách đẹp.

    Hành trình thay đổi trong nhận thức của Huấn Cao cũng là hành trình tìm thấy người bạn tri âm, để biết rằng trong cuộc đời đen bạc kia vẫn có những thanh âm trong trẻo biết quý trọng người tài, quý trọng cái đẹp. Qua đây Nguyễn Tuân cũng muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp: cái đẹp có sức mạnh vô biên, nó có thể giúp kết nối những tâm hồn đồng điệu, nó làm cho con người trở nên người hơn, hướng con người đến cái đích của chân – thiện – mĩ.

Đề bài: Phân tích thái độ Huấn Cao đối với Viên quản ngục trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân

“Chữ người tử tù” là tác phẩm nổi tiếng được in trong tập “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân sáng tác trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sâu sắc cho quan niệm của ông về cái đẹp. Huấn Cao là nhân vật làm nên cái đẹp lí tưởng của người hùng tài hoa, có thiên lương trong sáng. Qua sự chuyển biến thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục trước lạnh lùng, khinh bạc sau quý mến, trân trọng càng làm cho người đọc hiểu sâu hơn vẻ đẹp tâm hồn người nghệ sĩ tài ba cũng như tấm lòng của viên quan coi ngục.

Huấn Cao là một người anh hùng chọc trời khuấy nước lại có tài viết chữ rất đẹp nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn. Ngay từ đầu tác phẩm Huấn Cao đã hiện lên với những phẩm chất đnág quý qua cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Ông Huấn chưa hiểu biết về viên quản ngục mà chỉ có viên quan ngục biết và khâm phục tài năng của ông. Vua quan triều đình coi ông là một tên tội phạm cực kì nguy hiểm, dám cầm đầu “quân phiến loạn” chống lại triều đình. Có lẽ viên quan coi ngục đã sớm nghe danh người tài nên khi ông Huấn được đưa đến trại giam của mình thì có thái độ ưu ái khác thường. Ngày ngày viên quản ngục sai thầy thơ lại đem rượu thịt xuống nhà giam biệt đãi ông Huấn và những người bạn tù.Trước tấm lòng ấy Huấn Cao có những thái độ khác nhau ở mỗi thời điểm cho ta hiểu thêm nhân cách thanh cao của người tử tù.

Thái độ Huấn Cao trong những ngày đầu khi chưa thực sự hiểu được hành động của viên quản ngục thì hoàn toàn dửng dưng thậm chí là khinh bỉ, coi thường. Ông Huấn vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, vẫn ăn uống bình thường thật hiếm có một người tù nào có thể ung dung ăn uống trước khi chết như ông. Đến một ngày đích thân viên quả ngục mang rượu thịt xuống với thái độ rất cung kính, lễ độ và xin hỏi ông có cần thêm gì không thì Huấn Cao coi thường và lạnh lùng đáp: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Đó chính là thái độ bất cần của người hùng khi cái chết không còn là điều đáng sợ. Ông luôn hiên ngang khí phách, không bao giờ chịu khuất phục trước quyền lực và quyền uy. “Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cái cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Huấn Cao đã chuẩn bị tinh thần cho tất cả mọi chuyện thường xảy ra trong chốn lao tù nhưng không giống như ông nghĩ viên quản ngục không hề có bất cứ một hành động nào y chỉ lễ phép lui ra với một câu: “Xin lĩnh ý” rồi từ hôm ấy rượu thịt vẫn được đưa đến như mọi ngày. Chính thái độ ấy, việc làm ấy của quan ngục khiến cho Huấn Cao băn khoăn không hiểu vì sao “viên quản ngục muốn dò đến bí mật của ta, nhưng không phải vì ông đã khai bên ti Niết cả rồi”. Như vậy không chỉ coi thường khinh bạc với quản ngục mà ông còn phải băn khoăn, suy nghĩ, để tâm để hành động biệt nhỡn, ưu ái của viên quản ngục. Thái độ ấy hoàn toàn hợp lí bởi Huấn Cao chưa hề hiểu về quản ngục hơn nữa giữa hai con người ấy lại có một hố sâu ngăn cách bởi một bên là tử tù chống lại triều đình còn một bên là viên quản ngục người đại diện cho quyền lực nhà nước, nên ông Huấn phải đề phòng những mánh khóe, thủ đoạn tiểu nhân thâm độc mà ông đã biết. Thái độ ấy không làm cho viên quản ngục tức giận, nổi nóng mà càng trân trọng, khâm phục người tài hơn bởi ông thừa hiểu người như ông Huấn “Những người chọc trời khuấy nước đến trên đầu người ta, người ta cũng chưa còn biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”

Vì là một người tử tù nên việc sớm muộn cũng bị giải ra pháp trường, sở nguyện của viên quản ngục là xin được chữ ông Huấn vẫn chưa thành nên ông lo lắng cho một ngày mai ông Huấn bị chém đầu thì thật đáng tiếc vô cùng, cả một đời ông sẽ phải hối hận. Thái độ của Huấn Cao bị đẩy lên một tình huống kịch tính khi “Một buổi chiều lạnh, viên quan coi ngục tái nhợt người đi sau khi đọc công văn”. Sáng sớm tinh mơ ngày mai ông Huấn sẽ bị giải đi nên quan coi ngục buộc phải dãi bày tâm sự, mong muốn của mình cho thầy thơ lại. Hắn hiểu chuyện nên đã đem nỗi lòng ấy kể lại cho người tử tù mong ông có thể hiểu cho tấm lòng say mê cái đẹp, quý trọng người tài của viên quản ngục. Ông Huấn đã thay đổi thái độ từ lạnh lùng bất cần đến mỉm cười hòa dịu, từ coi thường đến coi trọng, quý mến. Huấn Cao quyết định cho chữ_đây là một việc làm hiếm có trong đời, ông Huấn chỉ cho chữ ba lần là ba người bạn thân. Ông cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài, biết thưởng thức và quý trọng cái đẹp của viên quản ngục nên trong câu nói “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” có chút ân hận và sự tự trách bản thân về thái độ và sự hiểu lầm của bản thân trước đó đối với viên quan coi ngục.

Trong đêm hôm ấy một cảnh tượng cho chữ xưa nay chưa từng có đã diễn ra tại nhà giam, trong căn phòng chật hẹp, tăm tối và bẩn thỉu tương phản hoàn toàn với nét chữ thanh cao được viết ra bởi một tâm hồn thăng hoa của con người có thiên lương trong sáng. Huấn Cao và viên quản ngục giờ đây là những người bạn tri âm, tri kỉ trên lĩnh vực nghệ thuật. Một người có tài sáng tạo ra cái đẹp, còn một người biết trân trọng, thưởng thức yêu quý cái đẹp nên bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng chỉ mong có được chữ Huấn Cao. Cũng bởi yêu mến tính cách quản ngục mà ông Huấn đã dành cho ông ta lời khuyên chân thành về nhân cách làm người có thiên lương cao đẹp “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi…Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Trước câu nói ấy viên quản ngục nhận ra vấn đề và “cảm động vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Như vậy thái độ Huấn Cao đối với viên quản ngục được chuyển hướng tích cực điều đó là vô cùng hợp lí với tính cách, con người ông Huấn. Khi chưa hiểu được tấm lòng cao đẹp của quan ngục thì khinh thường bởi ông không bao giờ chịu khuất phục trước cường quyền, khi đã thấu nhân cách ấy khiến cho ông cảm động và quý trọng vô cùng. Qua sự thay đổi thái độ đó có ý nghĩa quan trọng với tác phẩm. Tác giả cho ta hiểu sâu hơn về phẩm chất của Huấn Cao không chỉ là một người hùng hiên ngang, bất khuất mà còn là một người tài hoa tài tử lại mang trong mình thiên lương trong sáng. Mặt khác cũng làm nổi bật lên con người của viên quản ngục rất biết nhìn người, quý trọng người tài và say mê, khao khát thưởng thức cái đẹp. Đúng như Nguyễn Tuân đã nhận xét về ông “âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Cả hai con người ấy đều rất đáng quý, đáng trọng và hiếm có ở trong một xã hội tàn khốc, vùi dập cái tài cái đẹp lúc bấy giờ. Nguyễn Tuân thật tài ba khi đã đặt hai con người ấy cạnh nhau để cùng hô ứng, bổ sung cho nhau để làm sáng ngời cái đẹp trong cuộc đời.

Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục thật hợp tình hợp lí và có ý nghĩa, để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc về con người mang vẻ đẹp của một thời vang bóng, ẩn sau cái tài cái đẹp của nhân vật là sự nuối tiếc, buồn đau của nhà văn cũng như là nỗi đau lớn của dân tộc khi những con người có phẩm chất tốt đẹp lại bị sự nghiệt ngã của chế độ, khắc nghiệt của xã hội vùi dập, hủy diệt.

Đề bài: Phân tích thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân.

   Nguyễn Tuân, nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp đã bao lần chẳng quản ngại đến những vùng đất xa xôi, quay về “lục xới” cả một thời vang bóng để ghi lại những cảnh đẹp, người đẹp của đất nước mình. Trước Cách mạng tháng Tám – 1945 của thế kỉ trước, ông có mang trong mình chút u uất, chút ngông, chút tàn dư của thời đại cũ để “xê dịch” và khắc họa nên chân dung những con người tài hoa bất đắc chí. Trong đó phải kể đến Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, tuýp nhân vật như thế được Nguyễn Tuân đưa lên trang sách của mình với bao niềm ngưỡng vọng, tiếc nuối và đầy ấn tượng. Một trong những điều ấy, phải kể đến cái cách Huấn Cao đối xử vô cùng đặc biệt với viên quản ngục. Đó còn được gọi là thái độ “bất thường” của một kẻ tử tù với một tên cai tù mà người đọc khó có thể quên.

   Nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng cốt truyện Chữ người tử tù dựa trên một tình huống đầy éo le, kỳ lạ. Đó là cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong nhà tù phong kiến. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu chỉ nhìn nhận Huấn Cao – một kẻ cầm đầu phiến quân phản loạn chống lại triều đình, đã bị bắt và chờ ngày hành quyết và viên quản ngục – người đại diện cho bộ máy chính quyền chuyên chế của triều đình phong kiến lúc bấy giờ, tiếp nhận cai quản Huấn Cao và đồng phạm. Một kẻ tử tù, một người cai tù, hai địa vị, hai chiến tuyến hoàn toàn đối lập. Huấn Cao phải hoàn toàn phục tùng theo mệnh lệnh của viên cai ngục, bởi quyền sinh, quyền sát, mạng sống của ông Huấn đang nằm trong tay ông ta. Nhưng mọi chuyện lại không diễn ra như ý thông thường vậy. Khốn đốn thay, cái tên tử tù ấy lại là ông Huấn – người có tài viết chữ đẹp nổi tiếng cả một vùng tỉnh Sơn mà viên quản ngục bấy lâu nay vẫn ngưỡng mộ, vẫn ao ước có được chữ của ông Huấn để treo, thì coi như có được báu vật ở trên đời. Thật trớ trêu, ông Huấn ấy lại ở ngay cạnh mình, “dưới quyền” mình mà chẳng thể nào xin nổi chữ. Và chỉ khi tiếng gọi của cái đẹp cất lên, hai con người ấy mới xích lại gần nhau, xóa nhòa khoảng cách. Bởi vậy, cả thiên truyện là “cuộc rượt đuổi” đầy kịch tính của viên quản ngục và Huấn Cao. Mà ở đó, sự chuyển biến trong thái độ của ông Huấn đối với viên quản ngục là yếu tố quan trọng làm nên sự li kì cho tình huống truyện và độ kịch tính, hấp dẫn của cuộc gặp gỡ này.

   Ngay từ khi Huấn Cao chưa xuất hiện trực tiếp, mới chỉ là cái tên trên phiến trát về sáu tên tử tù mà viên coi ngục nhận được, đã tỏ ra là một người có khí chất, tài năng, không hề dễ dàng để viên quản ngục tiếp cận. Ông Huấn không chỉ nổi tiếng viết chữ đẹp, mà còn có tài bẻ khóa vượt ngục. Ở đây cốt cách phi phàm của ông Huấn khiến “kẻ mê muội” coi ngục này không thể suy nghĩ đến cách “trị tù nhân” như thông lệ thường ngày. Ông ta đã băn khoăn, đã “khổ sở” nghĩ thế nào để “biệt đãi” ông Huấn cho “phải phép”. Điều đó có nghĩa là viên coi ngục đã hiểu tính cách, bản lĩnh của Huấn và muốn thực hiện được ước mơ thì chỉ còn cách phải xem chừng thái độ ông Huấn.

   Đúng như những suy tính của viên quản ngục, ông Huấn xuất hiện chẳng giống như bao tên tử tù, phạm nhân khác. Kẻ chọc trời khuấy nước ấy chẳng sợ đến ai, thì cái nhà tù bé nhỏ và một tốp quân lính canh chừng này có đáng gì. Ông Huấn bước vào nhà lao với một thái độ hiên ngang, hùng dũng. Chẳng màng gì đến những tên lính áp giải tới mỉa mai, cũng không hề quan tâm đến vẻ mặt và cách nhận tù “hiền lành” trái hẳn ngày thường của viên quản ngục. Ông Huấn lạnh lùng dỗ mũi gông nặng xuống sàn đánh thuỳnh một cái, rồi sừng sững khiến cánh cửa đề lao phải mở rộng. Thái độ ấy là biểu hiện của sức mạnh, khí phách anh hùng, của một người khát vọng đổi thay đất nước. Điều đó tiếp tục là lời dự báo cho một thái độ sẽ hoàn toàn coi khinh đối với viên quản ngục của Huấn Cao.

   Và đúng là mọi sự diễn ra như những gì viên quản ngục dự tính. Ông Huấn cùng cộng sự đã nhận được sự biệt đãi đặc biệt từ ngục quan nhưng không hề hay biết lý do. Ông Huấn cũng chẳng buồn muốn biết lý do mà cứ thản nhiên nhận rượu thịt và coi đó là là cái hứng lúc bình sinh ông vẫn làm. Nhưng cũng không phải vì thế mà ông không băn khoăn. Ông cũng hoài nghi về ý đồ của ngục quan trong sự việc này. Hắn ta muốn điều gì từ ông? Khai cái gì thì ông cũng khai hết ở bên kia rồi. Và dù có lý do gì chăng nữa ông cũng không thể chấp nhận một kẻ luôn sống trong sự cặn bã, lọc lừa và bị coi là lũ quay quắt. Bởi thế câu trả lời dứt khoát đến sắc lạnh “Ta chỉ có một mong muốn là nhà người đừng bao giờ đặt chân vào đây nữa” của ông đã bộc lộ thái độ khinh bỉ ngục quan ở mức độ cao nhất. Chính bản thân viên quản ngục cũng chẳng dám sai lời. Cứ thế, họ cứ ở hai đầu xa cách, dù ngục quan muốn đến đâu không thể tiến sát đến gần ông Huấn được. Còn Huấn Cao tính tình vốn “khoảnh” và hoàn toàn không muốn có bất cứ điều gì liên quan đến ngục quan.

   Cuộc gặp gỡ bởi vậy mà càng ngày càng éo le, trắc trở và đi vào bế tắc. Nếu cứ tiếp diễn, chẳng bao lâu sau Huấn Cao bị hành quyết, viên quản ngục không bao giờ có cơ hội để thực hiện mong ước xin chữ của mình. Liệu Huấn Cao có thay đổi thái độ với viên quản ngục? Bao nhiêu lời tâm sự, ngục quan đành chia sẻ với thầy thơ lại – nhân vật được coi là sợi dây kết nối hai con người đối lập lại. Trong hoàn cảnh gấp gáp của thời gian, ông Huấn chỉ còn đêm nay, ngày mai là phải ra pháp trường. Viên quản ngục chỉ còn cách trông chờ vào thầy thơ lại. Rồi người đọc mang theo cảm xúc vỡ òa khi Huấn Cao nói lại: Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Chỉ bởi một chữ tấm lòng ông Huấn đã hoàn toàn đổ gục và thay đổi cái nhìn của mình đối với viên quản ngục. Hóa ra ông ta như là một thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Hóa ra ông ta là một thứ gì đó thuần khiết, tinh khôi giữa đống cặn bã và lũ quay quắt. Huấn Cao đã chẳng ngần ngại mà “trả nghĩa” tấm lòng biệt nhỡn liên tài hiếm có ấy.

   Vậy là từ ánh mắt coi thường, khinh bỉ, ông Huấn đã thực sự cảm động trước niềm say mê cái đẹp của ngục quan. Và ông sẵn sàng đáp trả lại nỗi niềm ấy bằng một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Một người tử tù cổ đeo gong, chân vướng xiềng xích tô đậm từng nét chữ, kẻ giữ tù thì khúm núm, run run đứng cạnh bên. Sự thay đổi thái độ này đã thực sự tạo ra một cuộc hoán đổi vị trí đầy ngoạn mục. Người sắp chết lại đi ban phát sự sống, còn kẻ vẫn sống lại như thể được sinh ra thêm một lần nữa. Giữa họ không còn địa vị xã hội, không còn hận thù mà chỉ còn những trái tim vì cái đẹp mà xích lại gần nhau. Việc ông Huấn có thái độ như vậy là minh chứng cho sự chiến thắng lớn lao của cái đẹp, cái thiện ngay giữa xào huyệt của cái ác, cái xấu, hay đó là chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Khoảnh khắc ông Huấn đưa ra lời khuyên với viên quản ngục về việc thay đổi chỗ ở để giữ gìn cho trong sạch cái thiên lương chính là sự thăng hoa của mối hòa giải giữa hai người. Ông Huấn đã từ bỏ cái lòng tự trọng của một bậc nho sĩ ngay thẳng, của một đấng anh hùng khí phách hiên ngang để đối đãi với một người cũng lĩnh hội được giá trị nhân sinh lớn lao của cái đẹp, cái thiện. Viên quản ngục đã sẵn sàng rũ bỏ chức tước, địa vị để đi theo tiếng gọi của thiên lương. Cái đẹp chính là căn nguyên của sự thay đổi thái độ của ông Huấn với viên quản ngục. Điều đó đã mang tới những ý nghĩa nhân văn cao đẹp, sâu sắc cho tác phẩm.

   Câu chuyện gặp gỡ của viên quản ngục và Huấn Cao kết thúc bằng giọt nước mắt đầy hạnh phúc. Đó là giọt nước mắt của niềm vui sướng khi thực hiện được ước mơ cao đẹp trong cuộc đời con người. Nhưng trên hết là chúng ta nhìn thấy một sự hòa nhịp giữa những tâm hồn đồng điệu. Để có một kết thúc có hậu ấy Nguyễn Tuân đã tạo nên những giây phút căng thẳng, kịch tích mà trước hết xuất phát từ sự thay đổi thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục. Chắc chắn, mỗi chúng ta cũng hồi hộp theo từng thay đổi trong sự chuyển biến ấy cũng đã tự rút ra cho mình những nhận thức có ý nghĩa nhân sinh về cái đẹp.

Đề bài: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)

   Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam từ trước đến nay. Những tác phẩm của ông thường có nhiều thành công lớn về nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp lãng mạn, thủ pháp tương phản,… nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng tạo một ấn tượng khó phai mờ, góp phần vào sự thành công của truyện ngắn. Điều đó được thể hiện sinh động qua tâm lí nhân vật chính của thiên truyện – nhân vật Huấn Cao, đặc biệt là diễn biến thái độ của ông đối với nhân vật viên quản ngục.

   Huấn Cao là nhân vật được xây dựng với tất cả niềm yêu mến, quý trọng của tác giả. Đó là một người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, tài hoa vô song “có tài viết chữ”, văn võ song toàn. Chỉ vì không chịu bị giam cầm trong xã hội nhiều bất công ngang trái mà cùng nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Kết cục, ông đành lỡ dở một đời tài hoa anh dũng, bị giam vào chốn ngục tù.

   Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật của mình, tác giả đã xây dựng lên không gian hết sức khác lạ, đó là ngục tù, chính tại chốn ngục từ này là nơi “lí tưởng” để diễn ra cuộc đối đầu giữa hai luồng tư tưởng – hai thế lực thù địch: một bên là những quan lại quản ngục đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát, bảo thủ, tàn ác đương thời; một bên là những kẻ “nổi loạn”, những tên “giặc cỏ” – những người anh hùng vì bất mãn cường quyền mà đứng lên khởi nghĩa. Hiểu rõ điều đó hơn ai hết, ban đầu Huấn Cao đã tỏ rõ khí khái tiết nghĩa bằng thái độ coi thường miệt thị viên quản ngục. Nhưng hỡi ôi, sự đời vẫn vốn trái ngang như thế. Thối nát, bảo thủ, tàn ác là từ dùng cho ai kia, nó không hoàn toàn đúng với viên quản ngục tỉnh Sơn, nơi Huấn Cao bị giam.

   Xây dựng nhân vật viên quản ngục, người đọc tưởng chừng sẽ được gặp nhân vật trái ngược hoàn toàn với Huấn cao, ngược lạiViên quản ngục lại là một người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” rất mến phục, sùng bái tài viết chữ đẹp của Huấn Cao và thực sự là kẻ còn lại chút “thiên lương”. Cùng với hình tượng nhân vật Huấn cao, viên quản ngục hiện lên thật đẹp, thật đáng khâm phục cho con người có tấm lòng cao đẹp. Dẫu ở giữ chốn quan trường hiểm ác, giữ cái sống và cái chết nhưng viên quan ngục vân thức tỉnh được lương tâm của mình.

   Sau khi nhận ra điều ấy, Huấn Cao bằng tất cả sự cao đẹp của nhân cách một nhà nho chân chính đã cúi mình xuống, nâng dậy và phủi bụi cho một linh hồn đang trên bờ vực của tội lỗi. Huấn Cao dành những dòng chữ cuối đời mình tặng cho viên quản ngục, dành tiếng nói nhân tình vọng lên từ sâu thẳm tâm hồn khuyên giải viên quản ngục nhắc ông quay về với thiên lương.

   Diễn biến thái độ ấy của Huấn Cao là một quá trình biện chứng phức tạp. Lần đầu tiên “ra mắt” những quản ngục tỉnh Sơn, Huấn Cao đã có một thái độ, việc làm đầy thách thức: “rỗ mạnh gông”. Trong cái “rỗ mạnh” rất tự nhiên ấy ẩn chứa một thái độ khinh bạc: gông cùm của các người có là gì? ta rỗ gông đuổi rệp, và các ngươi chẳng khác chi lũ rệp bám đen mặt đất kia. Vào trong nhà giam rồi, thái độ của ông vẫn không hề nhún nhường uốn mình hơn. Trong khi viên quản ngục vì tấm chân tình tội nghiệp mà hết lòng ưu ái cho ông và các bạn đồng chí thì ông luôn luôn ra mặt: “khinh bạc đến điều”. Khi viên quản ngục đến gặp ông trong nhà giam “khép nép” hỏi: “Ngài muốn gì xin cho biết tôi sẽ cố gắng chu cấp” thì lạnh lùng trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Ông rất ung dung nơi bùn lấy khắc nghiệt ấy, thái độ này tất đã nằm trong toan tính của Huấn Cao: ông càng tỏ ra ung dung bao nhiêu càng tỏ lòng khinh bạc lũ “tiểu lại giữ tù” bấy nhiêu, chúng chằng hề làm ông lo sợ, chúng đang bị mất hết uy quyền.

   Có thể nói, thái độ trên đây của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một tất yếu. Bởi ông chưa được rõ nỗi trái ngang trong số phận người quản ngục. Trong suy nghĩ của ông lúc này, hắn là đại diện cho cái chính quyền ông thù ghét: hắn là kẻ thù của ông. Mà Huấn Cao, con người ông đâu chỉ tài năng xuất chúng, ông còn tiêu biểu cho nhân cách và khí phách người anh hùng. Ông đã xả thân vì đại nghĩa, cái chết còn coi nhẹ như lông hồng thì sao lại sợ kẻ giữ từ hèn mọn? Ông là con người đầy tự trọng “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình (…) bao giờ”. Câu nói khẳng khái ấy khiến ta nghĩ đến ý thơ thanh cao của Cao Bá Quát “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”, hay cái nhếch mép “Coi khinh nghìn lực sĩ” của Lỗ Tấn hay cái ý niệm sâu xa “Người đàn ông chỉ có thể quỳ trong hai trường hợp: Để uống nước nguồn và để hái hoa”. Với một nhân cách cao khiết như vậy, trong mắt Huấn Cao, ông chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân lê bước theo cái chính quyền suy mạt ông căm ghét: tất thảy bọn chúng chỉ là kẻ đáng khinh, đáng coi thường mà thôi!

   Thái độ này của Huấn Cao càng khiến người đọc cảm phục ông hơn nữa. Không cúi đầu trước ác quyền, tà lực; biết ghét cái ác đến tận cùng, điều đó chỉ có ở những con người có cái tâm rực rỡ như ánh dương, sáng trong nhưnước ngọt đầu nguồn và thanh cao như bông mai đầu núi. Nếu câu chuyện đi theo chiều hướng ấy thì cũng đã rất hay. Nhưng ngòi bút Nguyễn Tuân không muốn tuân theo những thói thường của cuộc sống(ông là một nhà văn đầy cá tính mà!). Viên quản ngục của Nguyễn Tuân thực chất không giống những viên quản ngục thông thường. Ông lại là một tâm hồn nhiều uẩn khúc kì lạ. Hiểu rõ con người ấy, Huấn Cao lại có một thái độ khác hẳn, hoàn toàn ngược lại lúc ban đầu.

   Ông đã thấy ân hận vì “biết đâu một người như thầy quản lại có tấm lòng biệt nhỡn liên tài”, vì “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Do đó, dù là một người rất “khoảnh” “trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ” thì nay, những dòng chữ cuối cùng của đời mình ông dành tặng người quản ngục. Chẳng những vậy, ông còn coi người ấy như chỗ tri âm đưa lời khuyên giải. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, ban lời trong tác phẩm gây nhiều niềm rung cảm cho người đọc, xứng đáng là một trong những áng văn đẹp nhất của văn học Việt Nam.

   Đó quả thực là “Cảnh tượng xưa nay chưa từng thấy”. Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực, tài năng, và sự bay bổng vào cảnh này. Viết chữ, cho chữ, chiêm ngưỡng chữ thánh hiền… Cảnh tượng ấy vốn chỉ dẫn ra nơi thư phòng trang nghiêm, trịnh trọng của những người học rộng tài cao. Còn chốn ngục từ kia nơi “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián tưởng chỉ là nơi tận đáy cùng xã hội nhơ nhớp tanh hôi”.

   Nhưng vào cái đêm khuya thanh vắng trước ngày Huấn Cao về kinh chịu tội, việc cho chữ thiêng liêng đã diễn ta tại nơi mịt mù tăm tối kia. Ở đây, người cho chữ là con nợ rất mực tài hoa, người nhận chữ là viên quản ngục – người mà xã hội vốn chỉ coi là kẻ đi bên lề cuộc đời sinh động cao cả này. Tâm thế người cho chữ – người tù trong sáng bay bổng thanh cao cùng cái đạo chữ thánh hiền mặc thể xác bị giam cầm “cổ đeo gông chân vướng xiềng”. Người quản ngục “run run” khúm núm như đối nhận sự gia ơn của người tử tù.

   Đêm sâu thăm thẳm, nhà lao âm u tĩnh mịch giữa đêm đen đặc quánh, sánh lại thứ âm khí tội lỗi, oan khiên tù ngục, bất ngờ rực lên ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đỏ rực bừng lên, “mùi mực tàu” thơm ngát. Ánh sáng của bó đuốc, mùi thơm của mực tàu hay chính là ánh sáng, hương thơm của nhân cách khí phách, của cái thần con chữ thánh hiền, ánh sáng rực rỡ của bó đuốc soi tỏ “ba cái đầu chụm lại” trên vuông lụa trắng tinh “còn nguyên vẹn lần hồ”. Cảnh tượng thiêng liêng và trang trọng quá! Bóng tối không làm tắt đi ngọn đuốc, màn đêm không phủ được màu trắng tinh của lụa, và sự hôi tanh của phân gián phân chuột không ngăn được mùi thực ngào ngạt tỏa lên ướp hương, tẩm vị vào tâm hồn con người.

   Cao, tiếng nói của cái đẹp…, tiếng nói khuyên con người về với các Thiện “ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy… về quê không ở đây nhem nhuốc” cả tâm hồn nhân phẩm. Và người quản ngục chỉ có thể nghẹn ngào một tiếng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vậy là cái Đẹp đã cảm hoá cái xấu, cái ác và nói như Đôtxtôiepki “Cái Đẹp đã cứu vớt nhân thế”. Không gian im lìm tĩnh mịch, nếu có âm thanh vang lên thì đó là tiếng nói của Huấn Lời khuyên chân tình của Huấn Cao “ở đây không phải chốn treo tấm lụa” còn khẳng định một điều: Cái Đẹp không thể sống chung, sống cùng, sống lần lộn với cái ác, cái xấu.

   Sau câu nói của Huấn Cao, không gian tĩnh lặng. Tĩnh lặng để cho cái Thiện, cái Đẹp bồi hồi ngân vang… Và khi ấy, Huấn Cao, người quản ngục, từ thế đối lập đã hòa vào nhau chỉ còn niềm tôn kính vô bờ trang trọng với cái Đẹp, cái Thiện của cuộc đời này.

   Sự thay đổi trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục thực ra không có điều gì bất ngờ và phi li. Bởi thực tế Huấn Cao là người khí phách nhưng viên quản ngục không phải hoàn toàn xấu xa. Huống hồ họ lại gặp nhau nơi lòng yêu mến, tôn sùng cái Đẹp. Vì vậy, ta có thể hiểu con đường họ đi từ thế đối lập đến sự hòa hợp trong sự toả hương của con chữ thiên lương. Không chỉ vậy, trong nhân cách Huấn Cao, ông còn là con người đầy tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương. Ông vì cảm một tấm lòng mà cho chữ kẻ tội đồ của cái Thiện. Nơi tù ngục, lúc cuối đời ông đâu ngờ lại gặp được một tâm hồn tri âm, tri kỉ!

   Miêu tả thành công diễn biến thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp nhân cách cho nhân vật ông yêu mến. Đó thực là hình mẫu lí tưởng cho một con người tài hoa, khí phách, độ lượng – một biểu tượng hoàn mĩ cho cái Đẹp, cái Thiện. Qua sự đổi thay trong tâm lí nhân vật, nhà văn cũng khẳng định một điều: cái Thiện có thể sinh ra từ cái ác (thiên lương cho người quản ngục được ban tặng chốn ngục tù) nhưng không thể sống chung, sống lẫn lộn cùng cái ác (Huấn Cao từng khinh thường viên quản ngục vì nghĩ nhầm đó là kẻ ác rồi sau đó khuyên ông rời chốn lao tù thì mới bảo toàn được “thiên lương”).

   Huấn Cao là một hình tượng văn học hoàn mĩ đẹp đẽ nhất từ trước đến nay trong văn học nước nhà. Nhưng hình tượng ấy không hề cứng nhắc hoặc lí tưởng hóa trong ngòi bút của nhà văn. Ngược lại nó vô cùng sinh động bởi có một diễn biến tâm tư lôgic, biện chứng. Điều đó càng khẳng định thành công của Chữ người tử tù và thêm một lần ngợi ca tài năng có một không hai của tác giả Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam vốn hiếm những hình tượng văn học như thế.

   Huấn Cao trong chữ người tử tù hiện lên thật đẹp, thật đáng khâm phục. Dù trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt, cái chết cận kề nhưng vị anh hùng này vẫn chấp nhận, vẫn anh dũng kiên cường. Hình ảnh của nhân vật như là tấm gương cho thế hệ chúng ta suy nghĩ là làm theo.

Đề bài: Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

I. Mở bài

– Giới thiệu vài nét tiêu biểu về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Chữ người tử tù: Tác giả với phong cách tài hoa uyên bác. Chữ người tử tù là một truyện ngắn đặc sắc trong Vang bóng một thời

– Khẳng định trong truyện ngắn này, nhân vật Huấn Cao và quản ngục là hai nhân trung tâm của tác phẩm.Thông qua thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục càng làm nổi bật nhân cách cao đẹp của họ

II. Thân bài

   1. Thái độ của Huấn Cao khi chưa biết quản ngục là “thanh âm trong trẻo”

   a. Thái độ khi lần đầu tiếp xúc với quản ngục

– Giới thiệu hoàn cảnh gặp gỡ của hai nhân vật: Huấn Cao và quản ngục gặp nhau lân đầu tiên khi quản ngục tiếp nhận nhóm tử tù nguy hiểm, trong đó có Huấn Cao – thủ lĩnh

– Ngay khi đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông: “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải.

⇒ Đối với Huấn Cao, quản ngục và bọn lính áp giải chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. ⇒ Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo

⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho

   b. Thái độ trong đối với quản ngục trong những ngày biệt giam

– Trong những ngày biệt giam, mặc dù được quản ngục đối đãi rất mực tử tế, nhưng do Huấn Cao nghĩ quản ngục vẫn là một tay sai trung thành cho chế độ, không có tấm lòng lương thiện nên ông vẫn lạnh lùng với những hành động biệt đãi của quản ngục:

– Hành động biệt đãi của quản ngục:

    + Mong muốn: “Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày cuối cùng còn lại”

    + Sai người đem rượu và đồ nhắm đến cho Huấn Cao vì sợ trong buồng giam lạnh

    + Khép nép bày tỏ: Biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều

– Thái độ, hành động của Huấn Cao:

    + Khi được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”

⇒ phong thái tự do, ung dung, xem nhẹ cái chết.

    + Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”.

⇒ Không khuất phục trước cường quyền.

⇒ khí phách của một người anh hùng.

   2. Thái độ của Huấn Cao thay đổi khi nhận ra quản ngục chính là “thanh âm trong trẻo”

– Khi biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ

⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng cái tài và quý cái đẹp.

– Cảnh cho chữ diễn ra thể hiện thái độ trân quý tấm lòng trong thiên hạ của Huấn Cao dành cho quản ngục

– Lời khuyên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn…”

⇒ Lời khuyên thể hiện thái độ trân trọng, lo lắng cho một nhân cách cao đẹp

– Câu nói của Huấn Cao với quản ngục: “Thiếu chút nữa … trong thiên hạ”

⇒ Sự trân trọng đối với những người có sở thích thanh cao, có nhân cách cao đẹp.

⇒ Huấn Cao là một anh hùng – nghệ sĩ, một thiên lương trong sáng.

III. Kết bài

– Khẳng định thái độ của Huấn Cao đối với quản ngục kể cả khi ông chưa biết tấm lòng và nhân cách cao đẹp của quản ngục đến khi ông đã biết càng làm nổi bật vẻ đẹp của khí phách và thiên lương trong sáng của Huấn Cao

   Nguyễn Tuân một trong những gương mặt tiêu biểu, độc đáo nhất của văn học lãng mạn. Trước cách mạng ông tìm về quá khứ của một thời chỉ còn vang bóng với những thú vui hết sức tao nhã: ăn kẹo mạch nha, uống trà thưởng trăng,… và một trong những thú vui đó chính là chơi chữ. Thú vui này đã được tái hiện đầy đủ trong tác phẩm Chữ người tử tù. Nhưng tác phẩm không chỉ đơn thuần là sự tái hiện nét chữ cuối cùng của người tử tù Huấn Cao mà đó còn là hành trình nhận thức, để trân trọng tấm lòng biệt nhỡn của quản ngục.

    Mang trong mình hùng tâm, tráng trí chọc trời khuấy nước, Huấn Cao nổi loạn chống lại triều đình, nhưng khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt giam chờ ngày xử án. Trong quãng thời gian chờ ngày xử án ông đã gặp viên quản ngục. Lần giáp mặt đầu tiên giữa Huấn Cao với quản ngục, Huấn Cao tỏ ra vô cùng khinh bạc. Khi đứng trước viên quản ngục, ông cùng các đồng chí của mình vẫn rỗ gông “đánh uỳnh một cái” không thèm để ý đến những lời dọa nạt của bọn lính quản ngục. Cuộc đời ông tung hoành ngang dọc, chọc trời quấy nước, đến cái chết chém ông còn không sợ thì sao có thể run rẩy trước lời thị uy, ra oai, trước những ngón đòn tiểu nhân của chúng được.

    Những ngày sau đó, Huấn Cao vẫn tự nhiên nhận những đồ ăn, thức uống mà quản ngục biệt đãi riêng cho mình, nhưng ông vẫn dửng dưng, không hề vồn vã: “Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù với một thái độ cực kì lễ phép” “Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm”. Ngày viên quản ngục đến gặp Huấn Cao, quản ngục đem những lời lẽ chân thành ngợi ca ông và hỏi ông cần gì để mình chu tất hơn, đáp lại sự ân cần đó, Huấn Cao chỉ đáp lại một cách trịch thượng: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: là nhà người đừng đặt chân vào đây”. Đó là thái độ bất cần, không hoảng sợ trước uy lực của quyền thế. Dù quản ngục có biệt đãi như vậy hay hơn thế nữa, thì nhất quyết Huấn Cao cũng không vì thế mà đánh mất phẩm chất, khí phách của bản thân.

    Nhưng thái độ của ông đã thay đổi hẳn khi biết tâm nguyện cao đẹp, đáng trân trọng của viên quản ngục. Trước những lời tường thuật hết sức chân thành của thầy thơ lại, Huấn Cao đã hiểu hết cả sự biệt đãi riêng mà quản ngục dành cho mình cũng như cho những người bạn của mình, cái thái độ khúm núm khi lần trước vào diện kiến ông, sự lễ phép và những món đồ biệt đãi vẫn mang vào bình thường như trước. Thì ra không phải quản ngục muốn khai thác thêm thông tin gì từ ông, mà thực chất quản ngục khâm phục tài năng và ý chí của mình mà làm như vậy. Ông đã hiểu tất cả tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục với mình. Và đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ” “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm long trong thiên hạ”. Huấn Cao cảm động thực sự trước tấm lòng biết yêu cái đẹp và quý trọng người tài của quản ngục. Trong câu nói đó vừa là sự trân trọng đối với quản ngục, vừa chứa cả sự ân hận, tự trách về thái độ kinh bạc của mình đối với quản ngục trước đây.

    Ngay trong đêm đó, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có diễn ra nơi ngục tù tối tăm, ẩm thấp. Trong buồng giam chật hẹp, dưới ánh sang tỏa ra từ bó đuốc rực sáng cùng tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ, cả ba cái đầu chụm vào để chiêm ngưỡng khoảnh khắc cái đẹp được hình thành. Từng nét chữ Huấn Cao viết ra thể hiện chí tung hoành ngang dọc của một đời người. Từng chữ được viết xong, quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đi, thầy thơ lại run run bưng chậu mực. Quá trình tạo tác cái đẹp hoàn thành, Huấn Cao đỡ quản ngục dậy và căn dặn: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người… Tôi bảo thực đấy: Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Quản ngục cảm động, hai hàng nước mắt chảy ra và chắp tay vái người tù một vái: “kẻ mê muội này xin bãi lĩnh”. Cái đẹp, cái thiên lương có sức cảm hóa phi thường, nó giúp con người nhận ra chân lí, lẽ phải, giúp người ra đi đúng hướng.

    Không phải ngẫu nhiên mà có sự thay đổi trong thái độ của Huấn Cao đối với quản ngục. Ban đầu Huấn Cao tỏ ra khinh bạc, thậm chí căm ghét quản ngục, bởi quản ngục là đại diện cho cường quyền, cho thế lực thù địch với Huấn Cao. Bởi vậy khi bất ngờ nhận được biệt đãi, Huấn Cao càng phải đề cao cảnh giác hơn, bởi ông đã quá quen với những chiêu trò được sử dụng trong nhà tù. Hơn nữa một con người khí phách ngang tàng, chọc trời khuấy nước thì không thể chỉ vì một chút biệt đãi của quản ngục mà có thể đánh mất đi nhân cách, khí phách của bản thân. Thái độ đó hoàn toàn phù hợp với tính cách ngang tàng của Huấn Cao.

    Nhưng sau đó, Huấn Cao đã hoàn toàn thay đổi khi biết được nguyện ước chân thành, tha thiết của quản ngục. Huấn Cao không chỉ là một con người có tài năng khí phách, mà còn là một người có tâm hồn đẹp, trân trọng những con người biết yêu cái đẹp. Sự thay đổi đó của Huấn Cao đã hoàn chỉnh vẻ đẹp hoàn thiện, toàn mĩ của nhân vật: ông không chỉ có khí phách mạnh mẽ mà còn là nhân cách đẹp.

    Hành trình thay đổi trong nhận thức của Huấn Cao cũng là hành trình tìm thấy người bạn tri âm, để biết rằng trong cuộc đời đen bạc kia vẫn có những thanh âm trong trẻo biết quý trọng người tài, quý trọng cái đẹp. Qua đây Nguyễn Tuân cũng muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp: cái đẹp có sức mạnh vô biên, nó có thể giúp kết nối những tâm hồn đồng điệu, nó làm cho con người trở nên người hơn, hướng con người đến cái đích của chân – thiện – mĩ.

   “Chữ người tử tù” là tác phẩm nổi tiếng được in trong tập “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân sáng tác trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sâu sắc cho quan niệm của ông về cái đẹp. Huấn Cao là nhân vật làm nên cái đẹp lí tưởng của người hùng tài hoa, có thiên lương trong sáng. Qua sự chuyển biến thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục trước lạnh lùng, khinh bạc sau quý mến, trân trọng càng làm cho người đọc hiểu sâu hơn vẻ đẹp tâm hồn người nghệ sĩ tài ba cũng như tấm lòng của viên quan coi ngục.

   Huấn Cao là một người anh hùng chọc trời khuấy nước lại có tài viết chữ rất đẹp nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn. Ngay từ đầu tác phẩm Huấn Cao đã hiện lên với những phẩm chất đnág quý qua cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Ông Huấn chưa hiểu biết về viên quản ngục mà chỉ có viên quan ngục biết và khâm phục tài năng của ông. Vua quan triều đình coi ông là một tên tội phạm cực kì nguy hiểm, dám cầm đầu “quân phiến loạn” chống lại triều đình. Có lẽ viên quan coi ngục đã sớm nghe danh người tài nên khi ông Huấn được đưa đến trại giam của mình thì có thái độ ưu ái khác thường. Ngày ngày viên quản ngục sai thầy thơ lại đem rượu thịt xuống nhà giam biệt đãi ông Huấn và những người bạn tù.Trước tấm lòng ấy Huấn Cao có những thái độ khác nhau ở mỗi thời điểm cho ta hiểu thêm nhân cách thanh cao của người tử tù.

   Thái độ Huấn Cao trong những ngày đầu khi chưa thực sự hiểu được hành động của viên quản ngục thì hoàn toàn dửng dưng thậm chí là khinh bỉ, coi thường. Ông Huấn vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, vẫn ăn uống bình thường thật hiếm có một người tù nào có thể ung dung ăn uống trước khi chết như ông. Đến một ngày đích thân viên quả ngục mang rượu thịt xuống với thái độ rất cung kính, lễ độ và xin hỏi ông có cần thêm gì không thì Huấn Cao coi thường và lạnh lùng đáp: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Đó chính là thái độ bất cần của người hùng khi cái chết không còn là điều đáng sợ. Ông luôn hiên ngang khí phách, không bao giờ chịu khuất phục trước quyền lực và quyền uy. “Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cái cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Huấn Cao đã chuẩn bị tinh thần cho tất cả mọi chuyện thường xảy ra trong chốn lao tù nhưng không giống như ông nghĩ viên quản ngục không hề có bất cứ một hành động nào y chỉ lễ phép lui ra với một câu: “Xin lĩnh ý” rồi từ hôm ấy rượu thịt vẫn được đưa đến như mọi ngày. Chính thái độ ấy, việc làm ấy của quan ngục khiến cho Huấn Cao băn khoăn không hiểu vì sao “viên quản ngục muốn dò đến bí mật của ta, nhưng không phải vì ông đã khai bên ti Niết cả rồi”. Như vậy không chỉ coi thường khinh bạc với quản ngục mà ông còn phải băn khoăn, suy nghĩ, để tâm để hành động biệt nhỡn, ưu ái của viên quản ngục. Thái độ ấy hoàn toàn hợp lí bởi Huấn Cao chưa hề hiểu về quản ngục hơn nữa giữa hai con người ấy lại có một hố sâu ngăn cách bởi một bên là tử tù chống lại triều đình còn một bên là viên quản ngục người đại diện cho quyền lực nhà nước, nên ông Huấn phải đề phòng những mánh khóe, thủ đoạn tiểu nhân thâm độc mà ông đã biết. Thái độ ấy không làm cho viên quản ngục tức giận, nổi nóng mà càng trân trọng, khâm phục người tài hơn bởi ông thừa hiểu người như ông Huấn “Những người chọc trời khuấy nước đến trên đầu người ta, người ta cũng chưa còn biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”

   Vì là một người tử tù nên việc sớm muộn cũng bị giải ra pháp trường, sở nguyện của viên quản ngục là xin được chữ ông Huấn vẫn chưa thành nên ông lo lắng cho một ngày mai ông Huấn bị chém đầu thì thật đáng tiếc vô cùng, cả một đời ông sẽ phải hối hận. Thái độ của Huấn Cao bị đẩy lên một tình huống kịch tính khi “Một buổi chiều lạnh, viên quan coi ngục tái nhợt người đi sau khi đọc công văn”. Sáng sớm tinh mơ ngày mai ông Huấn sẽ bị giải đi nên quan coi ngục buộc phải dãi bày tâm sự, mong muốn của mình cho thầy thơ lại. Hắn hiểu chuyện nên đã đem nỗi lòng ấy kể lại cho người tử tù mong ông có thể hiểu cho tấm lòng say mê cái đẹp, quý trọng người tài của viên quản ngục. Ông Huấn đã thay đổi thái độ từ lạnh lùng bất cần đến mỉm cười hòa dịu, từ coi thường đến coi trọng, quý mến. Huấn Cao quyết định cho chữ_đây là một việc làm hiếm có trong đời, ông Huấn chỉ cho chữ ba lần là ba người bạn thân. Ông cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài, biết thưởng thức và quý trọng cái đẹp của viên quản ngục nên trong câu nói “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” có chút ân hận và sự tự trách bản thân về thái độ và sự hiểu lầm của bản thân trước đó đối với viên quan coi ngục.

   Trong đêm hôm ấy một cảnh tượng cho chữ xưa nay chưa từng có đã diễn ra tại nhà giam, trong căn phòng chật hẹp, tăm tối và bẩn thỉu tương phản hoàn toàn với nét chữ thanh cao được viết ra bởi một tâm hồn thăng hoa của con người có thiên lương trong sáng. Huấn Cao và viên quản ngục giờ đây là những người bạn tri âm, tri kỉ trên lĩnh vực nghệ thuật. Một người có tài sáng tạo ra cái đẹp, còn một người biết trân trọng, thưởng thức yêu quý cái đẹp nên bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng chỉ mong có được chữ Huấn Cao. Cũng bởi yêu mến tính cách quản ngục mà ông Huấn đã dành cho ông ta lời khuyên chân thành về nhân cách làm người có thiên lương cao đẹp “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi…Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Trước câu nói ấy viên quản ngục nhận ra vấn đề và “cảm động vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

   Như vậy thái độ Huấn Cao đối với viên quản ngục được chuyển hướng tích cực điều đó là vô cùng hợp lí với tính cách, con người ông Huấn. Khi chưa hiểu được tấm lòng cao đẹp của quan ngục thì khinh thường bởi ông không bao giờ chịu khuất phục trước cường quyền, khi đã thấu nhân cách ấy khiến cho ông cảm động và quý trọng vô cùng. Qua sự thay đổi thái độ đó có ý nghĩa quan trọng với tác phẩm. Tác giả cho ta hiểu sâu hơn về phẩm chất của Huấn Cao không chỉ là một người hùng hiên ngang, bất khuất mà còn là một người tài hoa tài tử lại mang trong mình thiên lương trong sáng. Mặt khác cũng làm nổi bật lên con người của viên quản ngục rất biết nhìn người, quý trọng người tài và say mê, khao khát thưởng thức cái đẹp. Đúng như Nguyễn Tuân đã nhận xét về ông “âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Cả hai con người ấy đều rất đáng quý, đáng trọng và hiếm có ở trong một xã hội tàn khốc, vùi dập cái tài cái đẹp lúc bấy giờ. Nguyễn Tuân thật tài ba khi đã đặt hai con người ấy cạnh nhau để cùng hô ứng, bổ sung cho nhau để làm sáng ngời cái đẹp trong cuộc đời.

   Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục thật hợp tình hợp lí và có ý nghĩa, để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc về con người mang vẻ đẹp của một thời vang bóng, ẩn sau cái tài cái đẹp của nhân vật là sự nuối tiếc, buồn đau của nhà văn cũng như là nỗi đau lớn của dân tộc khi những con người có phẩm chất tốt đẹp lại bị sự nghiệt ngã của chế độ, khắc nghiệt của xã hội vùi dập, hủy diệt.

    Nguyễn Tuân, nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp đã bao lần chẳng quản ngại đến những vùng đất xa xôi, quay về “lục xới” cả một thời vang bóng để ghi lại những cảnh đẹp, người đẹp của đất nước mình. Trước Cách mạng tháng Tám – 1945 của thế kỉ trước, ông có mang trong mình chút u uất, chút ngông, chút tàn dư của thời đại cũ để “xê dịch” và khắc họa nên chân dung những con người tài hoa bất đắc chí. Trong đó phải kể đến Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù, tuýp nhân vật như thế được Nguyễn Tuân đưa lên trang sách của mình với bao niềm ngưỡng vọng, tiếc nuối và đầy ấn tượng. Một trong những điều ấy, phải kể đến cái cách Huấn Cao đối xử vô cùng đặc biệt với viên quản ngục. Đó còn được gọi là thái độ “bất thường” của một kẻ tử tù với một tên cai tù mà người đọc khó có thể quên.

    Nhà văn Nguyễn Tuân xây dựng cốt truyện Chữ người tử tù dựa trên một tình huống đầy éo le, kỳ lạ. Đó là cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong nhà tù phong kiến. Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu chỉ nhìn nhận Huấn Cao – một kẻ cầm đầu phiến quân phản loạn chống lại triều đình, đã bị bắt và chờ ngày hành quyết và viên quản ngục – người đại diện cho bộ máy chính quyền chuyên chế của triều đình phong kiến lúc bấy giờ, tiếp nhận cai quản Huấn Cao và đồng phạm. Một kẻ tử tù, một người cai tù, hai địa vị, hai chiến tuyến hoàn toàn đối lập. Huấn Cao phải hoàn toàn phục tùng theo mệnh lệnh của viên cai ngục, bởi quyền sinh, quyền sát, mạng sống của ông Huấn đang nằm trong tay ông ta. Nhưng mọi chuyện lại không diễn ra như ý thông thường vậy. Khốn đốn thay, cái tên tử tù ấy lại là ông Huấn – người có tài viết chữ đẹp nổi tiếng cả một vùng tỉnh Sơn mà viên quản ngục bấy lâu nay vẫn ngưỡng mộ, vẫn ao ước có được chữ của ông Huấn để treo, thì coi như có được báu vật ở trên đời. Thật trớ trêu, ông Huấn ấy lại ở ngay cạnh mình, “dưới quyền” mình mà chẳng thể nào xin nổi chữ. Và chỉ khi tiếng gọi của cái đẹp cất lên, hai con người ấy mới xích lại gần nhau, xóa nhòa khoảng cách. Bởi vậy, cả thiên truyện là “cuộc rượt đuổi” đầy kịch tính của viên quản ngục và Huấn Cao. Mà ở đó, sự chuyển biến trong thái độ của ông Huấn đối với viên quản ngục là yếu tố quan trọng làm nên sự li kì cho tình huống truyện và độ kịch tính, hấp dẫn của cuộc gặp gỡ này.

    Ngay từ khi Huấn Cao chưa xuất hiện trực tiếp, mới chỉ là cái tên trên phiến trát về sáu tên tử tù mà viên coi ngục nhận được, đã tỏ ra là một người có khí chất, tài năng, không hề dễ dàng để viên quản ngục tiếp cận. Ông Huấn không chỉ nổi tiếng viết chữ đẹp, mà còn có tài bẻ khóa vượt ngục. Ở đây cốt cách phi phàm của ông Huấn khiến “kẻ mê muội” coi ngục này không thể suy nghĩ đến cách “trị tù nhân” như thông lệ thường ngày. Ông ta đã băn khoăn, đã “khổ sở” nghĩ thế nào để “biệt đãi” ông Huấn cho “phải phép”. Điều đó có nghĩa là viên coi ngục đã hiểu tính cách, bản lĩnh của Huấn và muốn thực hiện được ước mơ thì chỉ còn cách phải xem chừng thái độ ông Huấn.

    Đúng như những suy tính của viên quản ngục, ông Huấn xuất hiện chẳng giống như bao tên tử tù, phạm nhân khác. Kẻ chọc trời khuấy nước ấy chẳng sợ đến ai, thì cái nhà tù bé nhỏ và một tốp quân lính canh chừng này có đáng gì. Ông Huấn bước vào nhà lao với một thái độ hiên ngang, hùng dũng. Chẳng màng gì đến những tên lính áp giải tới mỉa mai, cũng không hề quan tâm đến vẻ mặt và cách nhận tù “hiền lành” trái hẳn ngày thường của viên quản ngục. Ông Huấn lạnh lùng dỗ mũi gông nặng xuống sàn đánh thuỳnh một cái, rồi sừng sững khiến cánh cửa đề lao phải mở rộng. Thái độ ấy là biểu hiện của sức mạnh, khí phách anh hùng, của một người khát vọng đổi thay đất nước. Điều đó tiếp tục là lời dự báo cho một thái độ sẽ hoàn toàn coi khinh đối với viên quản ngục của Huấn Cao.

    Và đúng là mọi sự diễn ra như những gì viên quản ngục dự tính. Ông Huấn cùng cộng sự đã nhận được sự biệt đãi đặc biệt từ ngục quan nhưng không hề hay biết lý do. Ông Huấn cũng chẳng buồn muốn biết lý do mà cứ thản nhiên nhận rượu thịt và coi đó là là cái hứng lúc bình sinh ông vẫn làm. Nhưng cũng không phải vì thế mà ông không băn khoăn. Ông cũng hoài nghi về ý đồ của ngục quan trong sự việc này. Hắn ta muốn điều gì từ ông? Khai cái gì thì ông cũng khai hết ở bên kia rồi. Và dù có lý do gì chăng nữa ông cũng không thể chấp nhận một kẻ luôn sống trong sự cặn bã, lọc lừa và bị coi là lũ quay quắt. Bởi thế câu trả lời dứt khoát đến sắc lạnh “Ta chỉ có một mong muốn là nhà người đừng bao giờ đặt chân vào đây nữa” của ông đã bộc lộ thái độ khinh bỉ ngục quan ở mức độ cao nhất. Chính bản thân viên quản ngục cũng chẳng dám sai lời. Cứ thế, họ cứ ở hai đầu xa cách, dù ngục quan muốn đến đâu không thể tiến sát đến gần ông Huấn được. Còn Huấn Cao tính tình vốn “khoảnh” và hoàn toàn không muốn có bất cứ điều gì liên quan đến ngục quan.

    Cuộc gặp gỡ bởi vậy mà càng ngày càng éo le, trắc trở và đi vào bế tắc. Nếu cứ tiếp diễn, chẳng bao lâu sau Huấn Cao bị hành quyết, viên quản ngục không bao giờ có cơ hội để thực hiện mong ước xin chữ của mình. Liệu Huấn Cao có thay đổi thái độ với viên quản ngục? Bao nhiêu lời tâm sự, ngục quan đành chia sẻ với thầy thơ lại – nhân vật được coi là sợi dây kết nối hai con người đối lập lại. Trong hoàn cảnh gấp gáp của thời gian, ông Huấn chỉ còn đêm nay, ngày mai là phải ra pháp trường. Viên quản ngục chỉ còn cách trông chờ vào thầy thơ lại. Rồi người đọc mang theo cảm xúc vỡ òa khi Huấn Cao nói lại: Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Chỉ bởi một chữ tấm lòng ông Huấn đã hoàn toàn đổ gục và thay đổi cái nhìn của mình đối với viên quản ngục. Hóa ra ông ta như là một thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Hóa ra ông ta là một thứ gì đó thuần khiết, tinh khôi giữa đống cặn bã và lũ quay quắt. Huấn Cao đã chẳng ngần ngại mà “trả nghĩa” tấm lòng biệt nhỡn liên tài hiếm có ấy.

    Vậy là từ ánh mắt coi thường, khinh bỉ, ông Huấn đã thực sự cảm động trước niềm say mê cái đẹp của ngục quan. Và ông sẵn sàng đáp trả lại nỗi niềm ấy bằng một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Một người tử tù cổ đeo gong, chân vướng xiềng xích tô đậm từng nét chữ, kẻ giữ tù thì khúm núm, run run đứng cạnh bên. Sự thay đổi thái độ này đã thực sự tạo ra một cuộc hoán đổi vị trí đầy ngoạn mục. Người sắp chết lại đi ban phát sự sống, còn kẻ vẫn sống lại như thể được sinh ra thêm một lần nữa. Giữa họ không còn địa vị xã hội, không còn hận thù mà chỉ còn những trái tim vì cái đẹp mà xích lại gần nhau. Việc ông Huấn có thái độ như vậy là minh chứng cho sự chiến thắng lớn lao của cái đẹp, cái thiện ngay giữa xào huyệt của cái ác, cái xấu, hay đó là chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Khoảnh khắc ông Huấn đưa ra lời khuyên với viên quản ngục về việc thay đổi chỗ ở để giữ gìn cho trong sạch cái thiên lương chính là sự thăng hoa của mối hòa giải giữa hai người. Ông Huấn đã từ bỏ cái lòng tự trọng của một bậc nho sĩ ngay thẳng, của một đấng anh hùng khí phách hiên ngang để đối đãi với một người cũng lĩnh hội được giá trị nhân sinh lớn lao của cái đẹp, cái thiện. Viên quản ngục đã sẵn sàng rũ bỏ chức tước, địa vị để đi theo tiếng gọi của thiên lương. Cái đẹp chính là căn nguyên của sự thay đổi thái độ của ông Huấn với viên quản ngục. Điều đó đã mang tới những ý nghĩa nhân văn cao đẹp, sâu sắc cho tác phẩm.

    Câu chuyện gặp gỡ của viên quản ngục và Huấn Cao kết thúc bằng giọt nước mắt đầy hạnh phúc. Đó là giọt nước mắt của niềm vui sướng khi thực hiện được ước mơ cao đẹp trong cuộc đời con người. Nhưng trên hết là chúng ta nhìn thấy một sự hòa nhịp giữa những tâm hồn đồng điệu. Để có một kết thúc có hậu ấy Nguyễn Tuân đã tạo nên những giây phút căng thẳng, kịch tích mà trước hết xuất phát từ sự thay đổi thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục. Chắc chắn, mỗi chúng ta cũng hồi hộp theo từng thay đổi trong sự chuyển biến ấy cũng đã tự rút ra cho mình những nhận thức có ý nghĩa nhân sinh về cái đẹp.

   Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam từ trước đến nay. Những tác phẩm của ông thường có nhiều thành công lớn về nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp lãng mạn, thủ pháp tương phản,… nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng tạo một ấn tượng khó phai mờ, góp phần vào sự thành công của truyện ngắn. Điều đó được thể hiện sinh động qua tâm lí nhân vật chính của thiên truyện – nhân vật Huấn Cao, đặc biệt là diễn biến thái độ của ông đối với nhân vật viên quản ngục.

    Huấn Cao là nhân vật được xây dựng với tất cả niềm yêu mến, quý trọng của tác giả. Đó là một người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, tài hoa vô song “có tài viết chữ”, văn võ song toàn. Chỉ vì không chịu bị giam cầm trong xã hội nhiều bất công ngang trái mà cùng nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Kết cục, ông đành lỡ dở một đời tài hoa anh dũng, bị giam vào chốn ngục tù.

    Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật của mình, tác giả đã xây dựng lên không gian hết sức khác lạ, đó là ngục tù, chính tại chốn ngục từ này là nơi “lí tưởng” để diễn ra cuộc đối đầu giữa hai luồng tư tưởng – hai thế lực thù địch: một bên là những quan lại quản ngục đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát, bảo thủ, tàn ác đương thời; một bên là những kẻ “nổi loạn”, những tên “giặc cỏ” – những người anh hùng vì bất mãn cường quyền mà đứng lên khởi nghĩa. Hiểu rõ điều đó hơn ai hết, ban đầu Huấn Cao đã tỏ rõ khí khái tiết nghĩa bằng thái độ coi thường miệt thị viên quản ngục. Nhưng hỡi ôi, sự đời vẫn vốn trái ngang như thế. Thối nát, bảo thủ, tàn ác là từ dùng cho ai kia, nó không hoàn toàn đúng với viên quản ngục tỉnh Sơn, nơi Huấn Cao bị giam.

    Xây dựng nhân vật viên quản ngục, người đọc tưởng chừng sẽ được gặp nhân vật trái ngược hoàn toàn với Huấn cao, ngược lạiViên quản ngục lại là một người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” rất mến phục, sùng bái tài viết chữ đẹp của Huấn Cao và thực sự là kẻ còn lại chút “thiên lương”. Cùng với hình tượng nhân vật Huấn cao, viên quản ngục hiện lên thật đẹp, thật đáng khâm phục cho con người có tấm lòng cao đẹp. Dẫu ở giữ chốn quan trường hiểm ác, giữ cái sống và cái chết nhưng viên quan ngục vân thức tỉnh được lương tâm của mình.

    Sau khi nhận ra điều ấy, Huấn Cao bằng tất cả sự cao đẹp của nhân cách một nhà nho chân chính đã cúi mình xuống, nâng dậy và phủi bụi cho một linh hồn đang trên bờ vực của tội lỗi. Huấn Cao dành những dòng chữ cuối đời mình tặng cho viên quản ngục, dành tiếng nói nhân tình vọng lên từ sâu thẳm tâm hồn khuyên giải viên quản ngục nhắc ông quay về với thiên lương.

    Diễn biến thái độ ấy của Huấn Cao là một quá trình biện chứng phức tạp. Lần đầu tiên “ra mắt” những quản ngục tỉnh Sơn, Huấn Cao đã có một thái độ, việc làm đầy thách thức: “rỗ mạnh gông”. Trong cái “rỗ mạnh” rất tự nhiên ấy ẩn chứa một thái độ khinh bạc: gông cùm của các người có là gì? ta rỗ gông đuổi rệp, và các ngươi chẳng khác chi lũ rệp bám đen mặt đất kia. Vào trong nhà giam rồi, thái độ của ông vẫn không hề nhún nhường uốn mình hơn. Trong khi viên quản ngục vì tấm chân tình tội nghiệp mà hết lòng ưu ái cho ông và các bạn đồng chí thì ông luôn luôn ra mặt: “khinh bạc đến điều”. Khi viên quản ngục đến gặp ông trong nhà giam “khép nép” hỏi: “Ngài muốn gì xin cho biết tôi sẽ cố gắng chu cấp” thì lạnh lùng trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Ông rất ung dung nơi bùn lấy khắc nghiệt ấy, thái độ này tất đã nằm trong toan tính của Huấn Cao: ông càng tỏ ra ung dung bao nhiêu càng tỏ lòng khinh bạc lũ “tiểu lại giữ tù” bấy nhiêu, chúng chằng hề làm ông lo sợ, chúng đang bị mất hết uy quyền.

    Có thể nói, thái độ trên đây của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một tất yếu. Bởi ông chưa được rõ nỗi trái ngang trong số phận người quản ngục. Trong suy nghĩ của ông lúc này, hắn là đại diện cho cái chính quyền ông thù ghét: hắn là kẻ thù của ông. Mà Huấn Cao, con người ông đâu chỉ tài năng xuất chúng, ông còn tiêu biểu cho nhân cách và khí phách người anh hùng. Ông đã xả thân vì đại nghĩa, cái chết còn coi nhẹ như lông hồng thì sao lại sợ kẻ giữ từ hèn mọn? Ông là con người đầy tự trọng “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình (…) bao giờ”. Câu nói khẳng khái ấy khiến ta nghĩ đến ý thơ thanh cao của Cao Bá Quát “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”, hay cái nhếch mép “Coi khinh nghìn lực sĩ” của Lỗ Tấn hay cái ý niệm sâu xa “Người đàn ông chỉ có thể quỳ trong hai trường hợp: Để uống nước nguồn và để hái hoa”. Với một nhân cách cao khiết như vậy, trong mắt Huấn Cao, ông chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân lê bước theo cái chính quyền suy mạt ông căm ghét: tất thảy bọn chúng chỉ là kẻ đáng khinh, đáng coi thường mà thôi!

    Thái độ này của Huấn Cao càng khiến người đọc cảm phục ông hơn nữa. Không cúi đầu trước ác quyền, tà lực; biết ghét cái ác đến tận cùng, điều đó chỉ có ở những con người có cái tâm rực rỡ như ánh dương, sáng trong nhưnước ngọt đầu nguồn và thanh cao như bông mai đầu núi. Nếu câu chuyện đi theo chiều hướng ấy thì cũng đã rất hay. Nhưng ngòi bút Nguyễn Tuân không muốn tuân theo những thói thường của cuộc sống(ông là một nhà văn đầy cá tính mà!). Viên quản ngục của Nguyễn Tuân thực chất không giống những viên quản ngục thông thường. Ông lại là một tâm hồn nhiều uẩn khúc kì lạ. Hiểu rõ con người ấy, Huấn Cao lại có một thái độ khác hẳn, hoàn toàn ngược lại lúc ban đầu.

    Ông đã thấy ân hận vì “biết đâu một người như thầy quản lại có tấm lòng biệt nhỡn liên tài”, vì “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Do đó, dù là một người rất “khoảnh” “trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ” thì nay, những dòng chữ cuối cùng của đời mình ông dành tặng người quản ngục. Chẳng những vậy, ông còn coi người ấy như chỗ tri âm đưa lời khuyên giải. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, ban lời trong tác phẩm gây nhiều niềm rung cảm cho người đọc, xứng đáng là một trong những áng văn đẹp nhất của văn học Việt Nam.

    Đó quả thực là “Cảnh tượng xưa nay chưa từng thấy”. Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực, tài năng, và sự bay bổng vào cảnh này. Viết chữ, cho chữ, chiêm ngưỡng chữ thánh hiền… Cảnh tượng ấy vốn chỉ dẫn ra nơi thư phòng trang nghiêm, trịnh trọng của những người học rộng tài cao. Còn chốn ngục từ kia nơi “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián tưởng chỉ là nơi tận đáy cùng xã hội nhơ nhớp tanh hôi”.

    Nhưng vào cái đêm khuya thanh vắng trước ngày Huấn Cao về kinh chịu tội, việc cho chữ thiêng liêng đã diễn ta tại nơi mịt mù tăm tối kia. Ở đây, người cho chữ là con nợ rất mực tài hoa, người nhận chữ là viên quản ngục – người mà xã hội vốn chỉ coi là kẻ đi bên lề cuộc đời sinh động cao cả này. Tâm thế người cho chữ – người tù trong sáng bay bổng thanh cao cùng cái đạo chữ thánh hiền mặc thể xác bị giam cầm “cổ đeo gông chân vướng xiềng”. Người quản ngục “run run” khúm núm như đối nhận sự gia ơn của người tử tù.

    Đêm sâu thăm thẳm, nhà lao âm u tĩnh mịch giữa đêm đen đặc quánh, sánh lại thứ âm khí tội lỗi, oan khiên tù ngục, bất ngờ rực lên ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đỏ rực bừng lên, “mùi mực tàu” thơm ngát. Ánh sáng của bó đuốc, mùi thơm của mực tàu hay chính là ánh sáng, hương thơm của nhân cách khí phách, của cái thần con chữ thánh hiền, ánh sáng rực rỡ của bó đuốc soi tỏ “ba cái đầu chụm lại” trên vuông lụa trắng tinh “còn nguyên vẹn lần hồ”. Cảnh tượng thiêng liêng và trang trọng quá! Bóng tối không làm tắt đi ngọn đuốc, màn đêm không phủ được màu trắng tinh của lụa, và sự hôi tanh của phân gián phân chuột không ngăn được mùi thực ngào ngạt tỏa lên ướp hương, tẩm vị vào tâm hồn con người.

    Cao, tiếng nói của cái đẹp…, tiếng nói khuyên con người về với các Thiện “ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy… về quê không ở đây nhem nhuốc” cả tâm hồn nhân phẩm. Và người quản ngục chỉ có thể nghẹn ngào một tiếng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vậy là cái Đẹp đã cảm hoá cái xấu, cái ác và nói như Đôtxtôiepki “Cái Đẹp đã cứu vớt nhân thế”. Không gian im lìm tĩnh mịch, nếu có âm thanh vang lên thì đó là tiếng nói của Huấn Lời khuyên chân tình của Huấn Cao “ở đây không phải chốn treo tấm lụa” còn khẳng định một điều: Cái Đẹp không thể sống chung, sống cùng, sống lần lộn với cái ác, cái xấu.

    Sau câu nói của Huấn Cao, không gian tĩnh lặng. Tĩnh lặng để cho cái Thiện, cái Đẹp bồi hồi ngân vang… Và khi ấy, Huấn Cao, người quản ngục, từ thế đối lập đã hòa vào nhau chỉ còn niềm tôn kính vô bờ trang trọng với cái Đẹp, cái Thiện của cuộc đời này.

    Sự thay đổi trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục thực ra không có điều gì bất ngờ và phi li. Bởi thực tế Huấn Cao là người khí phách nhưng viên quản ngục không phải hoàn toàn xấu xa. Huống hồ họ lại gặp nhau nơi lòng yêu mến, tôn sùng cái Đẹp. Vì vậy, ta có thể hiểu con đường họ đi từ thế đối lập đến sự hòa hợp trong sự toả hương của con chữ thiên lương. Không chỉ vậy, trong nhân cách Huấn Cao, ông còn là con người đầy tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương. Ông vì cảm một tấm lòng mà cho chữ kẻ tội đồ của cái Thiện. Nơi tù ngục, lúc cuối đời ông đâu ngờ lại gặp được một tâm hồn tri âm, tri kỉ!

    Miêu tả thành công diễn biến thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp nhân cách cho nhân vật ông yêu mến. Đó thực là hình mẫu lí tưởng cho một con người tài hoa, khí phách, độ lượng – một biểu tượng hoàn mĩ cho cái Đẹp, cái Thiện. Qua sự đổi thay trong tâm lí nhân vật, nhà văn cũng khẳng định một điều: cái Thiện có thể sinh ra từ cái ác (thiên lương cho người quản ngục được ban tặng chốn ngục tù) nhưng không thể sống chung, sống lẫn lộn cùng cái ác (Huấn Cao từng khinh thường viên quản ngục vì nghĩ nhầm đó là kẻ ác rồi sau đó khuyên ông rời chốn lao tù thì mới bảo toàn được “thiên lương”).

    Huấn Cao là một hình tượng văn học hoàn mĩ đẹp đẽ nhất từ trước đến nay trong văn học nước nhà. Nhưng hình tượng ấy không hề cứng nhắc hoặc lí tưởng hóa trong ngòi bút của nhà văn. Ngược lại nó vô cùng sinh động bởi có một diễn biến tâm tư lôgic, biện chứng. Điều đó càng khẳng định thành công của Chữ người tử tù và thêm một lần ngợi ca tài năng có một không hai của tác giả Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam vốn hiếm những hình tượng văn học như thế.

   Huấn Cao trong chữ người tử tù hiện lên thật đẹp, thật đáng khâm phục. Dù trong hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt, cái chết cận kề nhưng vị anh hùng này vẫn chấp nhận, vẫn anh dũng kiên cường. Hình ảnh của nhân vật như là tấm gương cho thế hệ chúng ta suy nghĩ là làm theo.

Đề bài: Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo từ một nông dân hiền lành, chất phác thành con người tha hóa cả tâm hồn lẫn ngoại hình. Tuy vậy Chí Phèo vẫn còn nhân tính.

I. Mở bài

– Đôi nét về tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo

– Trong tác phẩm, quá trình bị tha hóa của Chí Phèo từ một nông dân hiền lành, chất phác thành con người tha hóa cả tâm hồn lẫn ngoại hình, mặc dù vậy anh vẫn còn nhân tính được ngòi bút Nam Cao tập trung khắc họa một cách chân thực và rõ nét

II. Thân bài

1. Sơ lược về nhân vật Chí Phèo- một nông dân hiền lành, chất phác

– Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có

– Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp:

    + Là một con người lương thiện: đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống ⇒ làm ăn chân chính

    + Từng mơ ước giản dị về cuộc sống gia đình: có một ngôi nhà nho nhỏ, chồn cày thuê cuốc mướn… ⇒ Chí Phèo là một người lương thiện.

    + Có lòng tự trọng: Bà ba Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí cảm thấy nhục ⇒ Là người có ý thức về nhân phẩm.

2. Quá trình bị tha hóa về cả tâm hồn lẫn ngoại hình

– Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:

    + Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.

    + Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”

– Hậu quả của những ngày ở tù:

    + Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm”

⇒ Sự tha hóa về nhân hình

    + Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến

⇒ Sự tha hóa về nhân tính

– Quá trình tha hóa của Chi Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến

⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực

3. Tuy vậy, Chí Phèo vẫn còn nhân tính

– Nhân tính: Tính người

– Chí Phèo vẫn còn tình người, tính người sau cuộc gặp gỡ và mấy ngày chung sống ngắn ngủi với Thị Nở

– Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, nhân tính của Chí Phèo quay trở lại

    + Bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài

    + Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”

    + Cảm thấy “sợ rượu” ⇒ dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất

    + Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói…

    + Hắn đủ tình để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc

⇒ Cuộc gặp với Thị đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên

– Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng

– Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”

⇒ Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, đã thực sự “tỉnh” để yêu, để hi vọng, để mong ước

– Ngay cả khi bị từ chối, chính bởi Chí Phèo còn nhân tính, còn nhân tính để đau đớn, tuyệt vọng cho số phận mình:

    + Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị Nở, nởi vậy, khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn: Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức”

⇒ Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng

    + Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”.

    + Nhưng “hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến và nói thẳng với Bá Kiến: Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của mình

    + Câu hỏi: “Ai cho tao lương thiện”: thể hiện sự ý thức và trỗi dậy mạnh mẽ nhất của nhân tính nhưng cũng là đau đớn nhất, Chí Phèo nhận ra rằng mình mong muốn trở về thành người lương thiện nhưng không thể nào được nữa

III. Kết bài

– Khái quát những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện quá trình bị tha hóa và nhưng nhân tính vẫn còn của Chí Phèo: nghệ thuật khắc họa tâm lí, bút pháp hiện thực…

– Liên hệ trình bày cảm nhận bản thân

Đề bài: Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo từ một nông dân hiền lành, chất phác thành con người tha hóa cả tâm hồn lẫn ngoại hình. Tuy vậy Chí Phèo vẫn còn nhân tính.

    Chí Phèo một trong những đỉnh cao của Nam Cao, cũng như của văn học hiện thực Việt Nam viết về đề tài người nông dân. Nhân vật chính của truyện ngắn là Chí Phèo, từ một người nông dân lương thiện, hiền lành, chất phác, Chí Phèo đã bị tầng lớp thống trị và nhà tù thực dân làm cho tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân tính. Nhưng bản chất lương thiện trong chí vẫn luôn tồn tại. Quá trình đó đã được Nam Cao mô tả bằng ngòi bút hết sức tinh tế và tài hoa.

    Chí Phèo sinh ra đã là một đứa trẻ bất hạnh, vừa cất tiếng khóc chào đời đã bị mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, Chí được anh thả ống lươn mang về nuôi, sau đó chuyển qua bà góa mù, rồi bác phó cối. Chí Phèo lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của dân làng. Mặc dù phải sống lang bạt, nhưng Chí Phèo khi lớn lên vẫn là con người hết sức lương thiện. Chí đi làm thuê ở gia đình bá Kiến, và trong cuộc sống thanh bình đó, Chí đã từng mang trong mình mơ ước, có một gia đình nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nếu có tiền thì mua mảnh đất để làm. Mơ ước thật bình dị, nhỏ bé, đó là mơ ước của bất cứ người nông dân nào. Họ chỉ mong muốn có cuộc sống bình yên, giản dị.

    Nhưng cuộc đời đối với Chí lại không bằng phẳng như thế. Làm việc tại nhà bá Kiến, Chí bị bà ba để ý, bắt bóp chân, điều đó làm Bá Kiến vô cùng căm hận, hắn ta từng mong muốn bỏ tù tất cả những thằng trai trẻ ở làng. Và Chí Phèo là một trong những nạn nhân của cơn ghen cuồng mù quáng ấy. Chính bọn cầm quyền và nhà tù thực dân đã nhào nặn, biến hóa một người nông dân chân chất, hiền lành trở thành một kẻ tha hóa cả về nhân hình và nhân tính.

    Sau bảy tám năm đi tù về, Chí Phèo biến đổi hẳn về ngoại hình, trông hắn như thằng săng đá, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt câng câng, người săm trổ đầy hình trông đến gớm. Hình hài hiền lành của Chí đã bị phá hủy. Không chỉ vậy, nhân tính của hắn cũng bị đập nát. Hắn trở về lấy nghề rạch mặt ăn vạ để sống qua ngày. Ngày đầu tiên ra tù, hắn đến ngay nhà bá Kiến để ăn vạ, nhưng nào ngờ lại bị những lời phỉnh nịnh của tên cáo già ru ngủ, Chí Phèo trở thành tay sai của bá Kiến. Chỉ cần có hơi men Chí Phèo có thể làm bất cứ việc gì được sai khiến: đốt nhà, giết người,… Chí Phèo đã phá hủy hạnh phúc biết bao gia đình, hắn ta trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Người ta tránh Chí như tránh hủi, mọi lời hắn chửi người ta luôn tự nhủ thầm hắn chừa mình ra. Tiếng chửi phẫn uất của Chí là một hình thức giao tiếp đặc biệt, một niềm khao khát tột cùng được giao tiếp, được hòa nhập cùng với cuộc sống của con người. Sự tha hóa của Chí Phèo không phải là một điều ngẫu nhiên mà nó là hệ quả tất yếu, là con đẻ của xã hội thực dân phi nhân tính đã hủy hoại không chỉ hình dáng mà còn hủy hoại nhân phẩm của con người.

    Nhưng cuộc đời Chí chưa dừng lại ở đó, gặp Thị Nở như một cột mốc đánh dấu và cho Chí biết rằng bản thân mình vẫn chưa tha hóa đến độ mất đi hoàn toàn nhân tính. Trong một lần say rượu, tình yêu giữa Chí Phèo và thị Nở nảy sinh, Chí Phèo ốm và nhận thức ra rất nhiều điều về cuộc sống về chính bản thân mình. Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc, mà bấy lâu nay trong hơi men hắn không còn nghe thấy nữa, hắn nhớ về mơ ước nhỏ bé giản dị của mình và đau đớn nhận ra mình đã đi sang cái dốc bên kia của cuộc đời mà vẫn cô đơn. Nào chỉ cô đơn không thôi, hắn còn bị cả xã hội gạt ra ngoài lề, coi như một con quỷ chứ không phải là một con người. Lần đầu tiên hắn biết đến vị cháo hành và nhận ra nó ngon đến kì lạ: “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo hành?”. Hắn nhìn thị Nở bằng đôi mắt thật hiền, đôi mắt hàm ơn và đôi mắt rơm rớm nước. Giọt nước mắt này chính là giọt nước mắt đánh dấu sự trở về của nhân tính trong Chí. Chí không chỉ nhận thức được về bản thân mà còn dấy lên khao khát hạnh phúc, thèm được làm hòa với mọi người: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Và chính Thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn được trở về hòa nhập với cộng đồng. Như vậy phần nhân tính trong Chí chưa bao giờ bị mất đi, nó chỉ bị những cái độc ác, xấu xa của xã hội che khuất mất, chỉ cần có tình yêu thương, sự bao dung tất yếu phần người ấy sẽ quay trở về. Khao khát được làm người lương thiện, được hòa nhập với mọi người là khát khao, mong ước chính đáng của Chí Phèo.

    Nhưng cuộc đời thật biết trêu đùa với Chí, ngay khi phần nhân tính trở về thì Chí một lần nữa bị cự tuyệt quyền làm người. Thị Nở nghe lời của bà cô, đã đến nhà Chí mà sỗ sàng nói thẳng vào mặt, nó như một gáo nước lạnh, dội thẳng vào ngọn lửa hi vọng của Chí. Đau đớn, tuyệt vọng Chí xách dao vao mục đích ban đầu đến giết chết cả nhà con Nở, nhưng vì quen chân, vì Chí đã mơ hồ nhận ra kẻ thù của mình, nên Chí Phèo đã đến nhà bá Kiến. Hắn cao giọng đòi lương thiện, nhưng đồng thời Chí cũng nhận thức rõ: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa?”. Rồi hắn rút dao giết chết bá Kiến và tự kết liễu chính mình. Cái chết của Chí là biểu hiện cao nhất khi nhân tính không bị mất đi. Nhân tính khi đã quay trở lại không cho phép Chí Phèo tiếp tục làm nghề rạch mặt ăn vạ, không cho phép Chí làm con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa. Nhưng đồng thời Chí cũng không thể quay trở lại với xã hội, vì đã bị mọi người cự tuyệt. Cái chết là lựa chọn duy nhất để bảo tồn chút nhân tính ít ỏi không bị ăn mòn bởi những bất công của cuộc đời. Cái chết của Chí là một đòn mạnh mẽ, lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời đã đẩy con người vào bước đường cùng.

    Xây dựng quá trình từ lương thiện đến tha hóa đến sự trở về của nhân tính trong nhân vật Chí Phèo cho thấy nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật miêu tả tâm lí bậc thầy trong ngòi bút của Nam Cao. Nghệ thuật trần thuật đảo ngược thời gian gây ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc. Ngôn ngữ giản dị mà hàm súc, sâu sắc.

    Qua quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc với số phận của những người nông dân bất hạnh, bị đẩy đến bước đường cùng bị tha hóa. Nhưng đồng thời cũng thể hiện niềm tin tưởng của Nam Cao vào nhân cách, thiện tính trong người nông dân hiền lành, chất phác. Không chỉ vậy, còn là tiếng nói phê phán sâu sắc với chế độ thực dân nửa phong kiến đương thời đã đẩy con người đến bước đường cùng. Tác phẩm để lại giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Đề bài: Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo từ một nông dân hiền lành, chất phác thành con người tha hóa cả tâm hồn lẫn ngoại hình. Tuy vậy Chí Phèo vẫn còn nhân tính.

   “- Ai cho tao lương thiện? Làm sao để xóa hết được những mảnh chai trên khuôn mặt này…?”

   Trước khi đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình, Chí Phèo – nhân vật trong tác phẩm của tên của nhà văn Nam Cao, đã hét lên như thế. Câu chuyện của một con người đi đòi lương thiện, đòi xóa những mảnh chai trên khuôn mặt chính mình trong thiên truyện đã khiến bao thế hệ bạn đọc thổn thức trong rất nhiều thập kỉ qua. Nông nỗi nào đẩy con người ấy vào tình cảnh trớ trêu ấy? Trong truyện ngắn được coi là kiệt tác của Nam Cao – Chí Phèo, người đọc đã tìm thấy câu trả lời. Đó chính là quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo, từ một anh nông dân hiền lành chất phác thành con người tha hóa cả về tâm hồn lẫn ngoại hình, tuy vậy Chí vẫn còn nhân tính.

   Chí Phèo ra đời vào năm 1941, khi mà những tác phẩm về đề tài người nông dân đã trở nên quá cũ. Thậm chí để tăng sự hấp dẫn, tò mò đối với người đọc, một nhà xuất bản còn thay đổi nó với cái tên hợp thời hơn Đôi lứa xứng đôi. Nhưng không, bằng tài năng và sự sáng tạo độc đáo của mình, Nam Cao đã viết nên số phận của người nông dân với những nét riêng và khác biệt. Ngay từ tên nhan đề sau này ông đặt lại là Chí Phèo cũng đã gợi cho người đọc về một hiện tượng của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám – 1945. Từ Chí biến thành Chí Phèo là cả một câu chuyện về cuộc đời của một con người trượt dài trên cái dốc của tha hóa. Đến khi muốn dừng lại, muốn quay đầu mà không thể được nữa.

   Sẽ chẳng có gì đáng nói nếu con người ta sinh ra trong hoàn cảnh thiệt thòi, thiếu may mắn để rồi sa ngã, biến chất. Đó là do hoàn cảnh sinh ra không có cha mẹ, không có người dạy bảo, nuôi dưỡng tử tế… Rất nhiều định kiến như thế đã hình thành trong tư duy của mỗi chúng ta từ lâu. Nhưng với trường hợp của Chí trong tác phẩm này thì khác. Bất hạnh ngay từ lúc sinh ra. Trong bộ dạng trần truồng, xám xịt ở cái lò gạch cũ, Chí cứ từng ngày lớn lên bằng cách truyền tay nhau của người làng. Lúc thì anh bị đem cho, khi thì bị đem bán… rồi cũng lớn lên trở thành một thanh niên hai mươi tuổi vạm vỡ, khỏe khoắn và làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Nhìn nhận ở năng lực vươn lên của con người trong hoàn cảnh như thế, Chí là chàng trai đầy nghị lực. Không gia đình, không nhà cửa, không tấc đất cắm rùi, thân phận thì ở đợ, làm nô bộc cho nhà giàu. Vậy mà tâm tính lại tốt. Biết ước mơ về một cuộc sống bình dị, giản đơn mà hạnh phúc: chồng cày thuê, cuốc mươn, vợ dệt vải… Biết nhục nhã, xấu hổ khi bị bà ba – vợ Bá Kiến, dụ dỗ, sàm sỡ. Trước khi bước vào tác phẩm với bộ dạng say khướt, vừa đi vừa chửi, Chí đã là một anh cố nông hiền lành, chất phác, lương thiện như thế.

   Nhưng thói đời cơ cực lại thường hay giơ vuốt, con người tốt tính đến đâu nếu không tự mình gian trá, lọc lừa mà sống trong hoàn cảnh ấy thì cũng sẽ bị nó xô cuốn đi mà vùi, mà dập cho đến khi còn chẳng nhận ra là người. Đánh giá một cách khách quan, xã hội thực dân nửa phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám – 1945 là thói đời như thế. Người đọc vẫn bàn tán rằng, cơn ghen vu vơ của Bá Kiến sẽ rất đỗi bình thường nếu ông ta cũng chỉ là một người nông dân của làng Vũ Đại. Nhưng nó lại trở thành cơn thịnh nộ cùng cực của một kẻ háo sắc đã làm đến chức vụ cao nhất ở nơi đây. Vậy là quyền sinh, quyền sát trong tay, muốn cho ai sống thì sống, muốn cho ai chết thì chết, hoặc tàn nhẫn hơn thì có kẻ còn sống không bằng chết. Cơn ghen ấy trở thành hiểm họa, bàn đạp để đẩy Chí lao vào guồng quay của sự tha hóa. Mà trước hết là tha hóa về nhân hình.

   Nhà tù thực dân đã nhanh chóng biến anh Chí ngày nào trở thành một tên côn đồ, một tên lưu manh ngay từ dáng vẻ bên ngoài. Chính nhà văn Nam Cao phải hai lần thốt lên trông gớm chết khi miêu tả bộ dạng của anh ta sau bảy, tám năm ở tù về. Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gườm gườm, cái mặt rất cơng cơng, mặc cái áo tây vàng, cái quần nái đen, ngực và cánh tay trạm trổ đầy những ông tướng cầm chùy… Người ta không còn nhận ra anh canh điền hiền lành, lương thiện ngày nào nữa. Nhưng đã là gì, dáng vẻ ấy còn chưa khiến họ cảm thấy bắt đầu sợ Chí, kinh hãi Chí và hoàn toàn xa lánh Chí cho đến khi hắn dần dần có những hành động mất hết nhân tính.

   Mới ở tù về mà hắn đã ngồi uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến chiều. Và rồi từ đấy, ngày nào người ta cũng thấy hắn say. Chí làm náo loạn cả làng Vũ Đại với những trận say điên cuồng, lảo đảo xách chai đến nhà Bá Kiến mà chửi bới, mà ăn vạ. Hành động uống rượu say đã đẩy hắn đi xa hơn người ta tưởng. Ban đầu Chí chỉ làm trong vô thức, say để chửi Bá Kiến nhưng dần dần say để vòi vĩnh, để đòi lợi ích cho bản thân. Muốn vậy Chí tình nguyện biến mình trở thành tay sai cho Bá Kiến. Bao nhiêu gia đình tan hoang bởi Chí, máu cũng đã đổ, Chí đã trở nên ngang ngược, hung hãn trong những cơn say triền miên. Chẳng biết tự lúc nào Chí đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Từ việc bị đẩy nhưng rồi Chí tự trượt dài trên cái dốc của sự tha hóa. Chí mất hết tính người và người làng Vũ Đại cũng chẳng ai coi Chí là người. Chí trở thành Chí Phèo – một phần thừa thãi, bỏ đi của xã hội. Vậy nên những gì Chí Phèo làm ngay từ khi mở đầu tác phẩm đó là chửi nhưng cũng chẳng ai thèm đáp trả. Tiếng hắn chửi cũng chỉ như tiếng những con vật bình thường của cuộc sống, chẳng ai buồn nghe, buồn đáp lại.

   Đó cũng là lúc Chí đã hoàn toàn rơi xuống vực sâu của sự tha hóa. Nỗi cô độc tuyệt cùng ấy Chí không thể giải tỏa được cùng ai, Chí đã bị đẩy ra khỏi thế giới loài người, ra ngoài rìa của xã hội. Sự tha hóa của Chí là một sự phản ánh chân thực, nghiệt ngã nhất về xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đồng thời cũng là lời tố cáo mạnh mẽ những kẻ tàn nhẫn, độc ác đã cố tình đẩy Chí và lợi dụng Chí để biến anh thành con quỷ của làng Vũ Đại. Chân dung ấy của anh chính là hiện thân cho nỗi thống khổ lớn nhất của người nông dân trong xã hội lúc bây giờ.

   Nhưng dưới ngòi bút nhân đạo của Nam Cao, Chí Phèo không hề đơn độc. Trong cơn cùng cực của cuộc đời, Chí được nhà văn khơi dậy phần người ít ỏi còn sót lại. Tiếng chửi trong hình hài của con quỷ dữ ấy ẩn chứa những thèm khát vô cùng được trở về thế giới loài người. Đó là tiếng gào thét của một con người đã chót bán linh hồn cho quỷ dữ. Nam Cao như đồng cảm, thấu hiểu điều ấy dù giọng văn có phần sắc lạnh. Đây chính là căn nguyên để Chí hoàn toàn thức tỉnh, trỗi dậy khát vọng hoàn lương sau cái đêm định mệnh gặp Thị Nở. Thực chất bản tính lương thiện của Chí không hề mất đi, mà nó chỉ tạm thời bị vùi sâu, âm ỉ. Nếu không còn nhân tính, Chí chẳng thể nhận ra một cuộc đời đắng cay với quá khứ tưởng như bình yên mà đầy nhục nhã, với hiện tại già nua, cô độc và với tương lai mờ mịt, đáng sợ bởi sự cô độc. Chí cũng chẳng thể nghe được những âm thanh, cảm nhận được những hương vị của cuộc sống nếu vẫn cứ triền miên trong những cơn say. Chí càng không thể cảm nhận được vị ngon của tình người qua bát cháo hành… Bao cảm xúc, suy tư của một con người lại trỗi dậy, Chí ao ước, khao khát được quay về xã hội bằng phẳng của loài người. Rồi ngay cả khi niềm hi vọng ngắn ngủi ấy nhanh chóng bị dập tắt bởi định kiến, Chí vẫn mơ tưởng. Hành động đòi lương thiện, đòi xóa những mảnh chai trên mặt trước Bá Kiến là một việc làm đầy dũng cảm. Không phải là con người sao Chí dám dõng dạc mà cất tiếng như thế. Thực chất, đó là nỗi đau của đời Chí. Bi kịch không được làm người đẩy Chí đến một hành vi quả quyết, giết kẻ thù và tự kết liễu đời mình. Đó là cách duy nhất Chí có thể làm lúc này để minh chứng cho khát vọng làm người của anh là có thật. Đây không phải là hành vi của một con quỷ, mà đó là sự bế tắc, đau đớn không có sự lựa chọn nào khác của một con người. Phần nhân tính của Chí đã trỗi dậy mạnh mẽ, Chí đã hồi sinh.

   Quá trình tha hóa của Chí Phèo là bước miêu tả quá chân thực về số phận người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám – 1945. Từ một người nông dân hiền lành, chất phác, Chí biến thành một con quỷ của làng Vũ Đại. Đó là tiếng chuông tiếp tục cảnh tỉnh con người về một xã hội tàn nhẫn, bất công và vô nhân đạo. Nhưng Nam Cao đã để ngòi bút chan chứa tình yêu thương của mình khai thác, khám phá và khẳng định bản chất lương thiện trong con người anh. Dù Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời, nhưng chắc chắn người ta đã cảm thông, đã tin về phần nhân tính vẫn còn trong con người anh.

Đề bài: Phân tích quá trình bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao để thấy rõ giá trị tố cáo xã hội của tác phẩm

   Năm 1941, Nhà xuất bản Đời mới cho ra đời truyện ngắn “Đôi lứa xứng đôi”. Năm 1946, truyện được tái bản, Nam Cao đổi tên truyện thành “Chí Phèo”. Đó là một truyện ngắn độc đáo viết về đề tài nông dân trước cách mạng. Nam Cao không nói vể tô tức, sưu thuế, mà đi vào hiện tượng lưu manh hoá ở nông thôn. Qua cuộc đời của nhân vật Chí Phèo, tác giả đã sáng tạo nên một bức tranh xã hội chân thực về đời sống khổ cực và thê thảm của người dân cày và nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.

   Với cảm quan hiện thực sắc sảo, với trái tim nhân hậu thiết tha, với hiểu biết sâu sắc về nông thôn, Nam Cao đã thể hiện một cách xúc động con đường bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo, tạo nên giá trị tố cáo xã hội của tác phẩm đầy ám ảnh.

   Làng Vũ Đại, cái đất “quần ngư tranh thực” đã nở ra một Chí Phèo. Hắn sinh ra đã khổ rồi. Không cha mẹ, không một tấc đất cắm dùi, tứ cố vô thân. Tuổi thơ hắn vồ cùng đau khổ, đầy bất hạnh. Năm 20 tuổi, Chí Phèo làm canh điền cho bá Kiến. Vợ ba bá Kiến đã bắt hắn “bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy…” mà Chí Phèo bị giải huyện, phải đi tù bảy, tám năm trời.

   Nhà tù thực dân đã biến anh canh điền hiền lành, cục mịch thành một tên lưu manh ngổ ngáo. Mặt hắn thay đổi đáng sợ “trông đặc như thẳng sắng đá”. Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, Cjậ mặt thì đen mà rất cơng comg, hai mắt gườm gườm, ngực và cánh tay chạm trổ rồng phượng, với ông tướng cầm chuỳ, trông gớm chết! Sự thay đổi của Chí “khắc hẳn”, đến nỗi cả dân làng Vũ Đại, mới đầu “chẳng ai biết hắn là ai”. Năm đó Chí Phèo 27 hay 28 tuổi gì đó.

   Về làng hôm trước thì hôm sau Chí Phèo ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Say khướt, hắn cầm một cại vỏ chai đến thẳng nhà bá Kiến “gọi tên tục ra mà chửi”, “chửi sướng miệng!’, “chửi ngoa ngoắt” làm sao! Cả làng Vũ Đại xưa nay đã có ai dám chửi bá Kiến như Chí Phèo? Lí Cường và Chí Phèo đã đấm, đã đá nhau “bình bịch”. Chí đập vỏ chai vào cột cổng, rạch mặt kêu làng. Hắn lăn lộn dưới đất “máu ra loe loét”. Cả làng Vũ Đại kéo đến xem. Như bị người ta cắt họng, hắn vừa chửi vừa kêu làng: “ôi làng nước ơi,bố con thằng bá Kiến nó đâm chết tôi!” . Bá Kiến một tên cường hào “khôn róc đời”, biết “mêm nắn rắn buông” đã xử nhũn với Chí. Cụ bá “thân mật” mời Chí vào nhà chơi. Cụ cho Chí biết là hắn “có họ” với lí Cường. Cụ giết gà, thết rượu, đãi thêm một đồng bạc để Chí uống thuốc. Hành động của Chí vừa mang tính chất rửa hận, trả thù, vừa mang tính chất côn đồ, nên hắn thấy hắn “cũng oai”, dám “độc lực chọi nhau” với cha con bá Kiến, bốn đòi làm tổng lí “khét tiếng” trong làng huyện. Hình ảnh Chí Phèo từ nhà bá Kiến ra về “loạng choạng vừa đi vừa cười”, hắn nghĩ đến bài thuốc dấu với vài nắm lá, là cái mặt hắn lại đâu vào đấy ngay, còn đồng bạc để uống rượu – cho ta thấy tính chất lưu manh của một anh nông dân ngu dốt đã bị tha hoá.

   Bốn ngày sau tiêu hết đồng bạc, Chí Phèo gây ra bao chuyện “động trời” ghê gớm. Hắn đốt quán mụ bán rượu… Hắn bốc của cô hàng xén một dúm muối trắng. Hắn vạn ba bốn quả chuối xanh của nhà nào đó. Hắn ngồi uống rượu với chuối xanh chấm muối và thấy rằng cũng ngon. Hành động ăn cướp ấy, cách ngồi uống rượu ấy ở cái miếu con tại bờ sông cho thấy Chí Phèo đã là một tên lưu manh rồi. Hắn đang đi tiếp con đường của Năm Thọ, của Binh Chức. Lần thứ hai, sáu ngày sau đi tù về, Chí Phèo lại đến nhà bá Kiến, với con dao nhọn và sắc bỏ trong túi áo, với “cái mắt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Chí Phèo gặp cụ bá để “xin đi ở tù”, vì “từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích ở tù”. Hắn nói là phải đâm chết dãm ba thằng, để cụ Bá bắt hắn giải huyện! Chí cho biết “đi tù sướng quá” vì đi tù “còn có cơm để mà ăn..”. Nhà văn Nam Cao đã phản ánh cay đắng tột cùng của một bộ phận nông dân trong xã hội cũ đã bị chính quyền thực dân phong kiến đẩy họ và con đường lưu manh hoá. Muốn sống chỉ có một con đường: lưu manh, ăn cướp! Với một tiếng cười “khanh khách” – cái cười Tào Tháo, với cái “vỗ vai” và một câu nói khích, bá Kiến đã sai được Chí Phèo cầm dao đến nhà đội Tảo “một tay vai vế trong làng” để đòi nợ 50 đồng bạc cho cụ.

   Chẳng phải giao tranh đổ máu, chỉ bằng mấy tiếng chửi phủ đầu, Chí đã đòi được món nợ mà đội Tảo toan “vỗ tuột”. Chí Phèo “vênh vênh”, tự thấy “oai thêm bậc nữa”, hắn tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta!”. Năm đồng bạc thưởng, năm sào vườn ở bãi sông mới cắm thuế của một ngưòi làng, cụ bá đã ban cho Chí Phèo. Và hắn đã trỏ thành “anh đầy tớ chân tay mới” của bá Kiến. Vốn vô học, đầu bò, lưu manh, Chí Phèo đã bị bá Kiến dụ dỗ mơn trớn, mua chuộc bằng vật chất, hắn bị tha hoá, trượt dài trên con đường tội ác và tội lỗi.

   Từ đó trở đi, bàn tay Chí Phèo vấy đầy máu. Người ta đầu độc hắn bằng rượu. Hắn trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, phá bao nhiêu cơ nghiệp, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện – Cuộc đời hắn giờ đây là những cơn say dài mênh mông, vô tận “hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, doạ nạt trong lúc say..”. Cái mặt của Chí Phèo thật đáng sợ, như mặt của một con vật lạ, vằn dọc vằn ngang biết bao nhiêu là sẹo, “vàng vàng… xạm màu gio”. Cái thẻ biên tên hắn, hắn cũng không có. Hắn thuộc hạng lưu tán, người ta khai hắn “lâu nám không về làng”. Hắn không nhớ tuổi hắn, và “hắn không cỏn ngày tháng nữa”. Chí Phèo trở thành một kẻ điên khùng, gần như mất trí. Hắn vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những ai không chửi nhau với hắn. Hắn chửi “đứa chết mẹ nào thân hắn” cho hắn khổ! Con đường tha hoá của Chí Phèo chỉ trong vòng hơn mười năm trời và hắn đã trờ thành một con quỷ dữ, rất ghê tởm. Tất cả dân làng “đểu sợ hắn” và “tránh mặt hắn” mỗi lần hắn qua! Cái chế độ thực dân phong kiến, mà kẻ chủ mưu là tên cường hào xảo quyệt bá Kiến đã cướp đi cả hình người, cả lình hồn người của Chí!

   Chí Phèo đã đi tiếp con đường của những quỷ dữ.

   Năm đó, Chí Phèo 38 hay 39, 40 hay ngoài 40? Mọi chuyện khủng khiếp cuộc đời của Chí diễn ra trong vòng sáu ngày đêm. Bắt đầu từ một đêm trăng rằm “ánh trăng chảy trên đường trắng tinh”. Chí Phèo bất ngờ đến nhà Tự Lãng, một anh goá vợ làm nghề hoạn lợn kiêm thầy cúng. Hai đứa ngồi uống rượu dưới ánh trăng, hết ba chai, như “một đôi tri kỉ cuồng”… Chính đêm trăng đó, Chí Phèo đã ôm lấy thị Nở mà làm tình, khi thị đang “há hốc” mồm ngủ dưới trăng. Chính đêm ấy, Chí Phèo bị cảm rất nặng. Mắt hoa lên. Chân tay thì lẩy bẩy. Mửa thốc, mửa tháo, mửa ồng ộc… Bát cháo hành và bàn tay săn sóc của thị Nở đã làm cho hắn cảm động, hắn bâng khuâng buồn, gần như là ăn năn. Bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi, nay được đánh thức dậy. Lâu nay, hắn doạ nạt, cướp giật mới có ăn. Lần đầu tiên, Chí được một người đàn bà săn sóc. Chí “thèm lương thiện”, hắn muốn “làm hoà” với mọi người. Hắn cũng muốn với thị Nở “làm thành một cặp rất xứng đôi”. Trận ốm cũng đã làm cho Chí thay đổi cả về sinh lí lẫn tâm lí nữa? Lần đầu tiên hắn nhớ lại mơ ước bình dị, lương thiện thời trai trẻ muốn “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải..”.

   Sau năm ngày đêm Chí Phèo với thị Nở sống với nhau như vợ chổng, thị Nở “đừng yêu” để thị hỏi bà cô thị đã. Bà cô thị xỉa xói thị, không cho thị lấy một kẻ chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ! thị Nở đã trút mọi bực dọc lên mặt nhân ngãi. Chí Phèo bị đẩy vào hố thẳm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn tức quá, muốn đâm chết “cái con khọm già”. Hắn uống đến say mểm “rồi hắn đi!”. Với một con dao ở thắt lưng, Chí Phèo đến thẳng nhà bá Kiến chứ không đến nhà thị Nở! Lần thứ ba, Chí Phèo đến gặp bá Kiến, không phải để xìn tiền mà đòi lương thiện, hắn “không thê là người lương thiện nữa”, “làm thế nào chó mất được những vết mảnh chai trên mặt này?”. Đó I là những tiếng kêu đau đớn, uất hận, hãi hùng! Muốn được làm người lương thiện mà không ai cho, mà không thể được, cái bi kịch‘ấy của Chí Phèo thật khủng khiếp, đáng sợ! Kẻ bất lương muốn hoàn lương đã khó. Quỷ dữ làm sao có thể thành người lương thiện được? Chí Phèo chỉ còn một cách là đâm chết bá Kiến, kẻ làm hại đời anh, rổi tự sát! Cái chết cửa Chí Phèo là cái chết đầy bi kịch, cái chết khủng khiếp, đáng thương của một nông dân nghèo khổ, ngu dốt, bị XÔ đẩy, bị mua chuộc và bị đầu độc vào con đường tha hoá, lưu manh, tội lỗi không có lối thoát.

   Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo thành nhân vật điển hình vể sự thống khổ, lưu manh hoá, chết trong bi kịch thảm thương hãi hùng cửa một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân phong kiến. Năm Thọ đi biệt tăm, Binh Chức đã chết, Chí Phèo đã tự sát, nhưng cái lò gạch cữ vẫn còn, thị Nở đã thấy thoáng hiện ra… một Chí Phèo con sẽ ra đời. Cái xã hội ấy có bao giờ hết được những kẻ như Chí Phèo?

   Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tố cáo và lên án cái xã hội thực dân phong kiến đã xô đẩy những người nông dân lương thiện vào con đường lưu manh, tội lỗi, đã cướp đi của họ cả hình người lẫn tính người. Truyện đã dựng nên một bức tranh hiện thực đen tối đầy máu, nước mắt và tội ác. Truyện “Chí Phèo” thấm đượm một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Nó như một tiếng kêu thương: hãy xoá bỏ tận gốc mọi cái ác để cứu lấy con người, để người nghèo được làm người lương thiện, được sống trong lương thiện.

Đề bài: Phân tích quá trình bị tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo

I. Mở bài

– Đôi nét về tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo

– Trong tác phẩm, quá trình bị tha hóa và thức tỉnh của Chí Phèo được ngòi bút Nam Cao tập trung khắc họa một cách chân thực và rõ nét

II. Thân bài

1. Sơ lược về nhân vật Chí Phèo trước khi bị tha hóa

– Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có

– Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp:

    + Là một con người lương thiện: đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống ⇒ làm ăn chân chính

    + Từng mơ ước giản dị về cuộc sống gia đình: có một ngôi nhà nho nhỏ, chồn cày thuê cuốc mướn… ⇒ Chí Phèo là một người lương thiện.

    + Có lòng tự trọng: Bà ba Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí cảm thấy nhục ⇒ Là người có ý thức về nhân phẩm.

2. Quá trình bị tha hóa

– Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:

    + Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.

    + Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”

– Hậu quả của những ngày ở tù:

    + Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm”

⇒ Sự tha hóa về nhân hình

    + Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến

⇒ Sự tha hóa về nhân tính

– Quá trình tha hóa của Chi Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến

⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực

3. Quá trình thức tỉnh

   a. Sự thức tỉnh sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở

– Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”

    + Bâng Khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài

    + Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”

    + Cảm thấy “sợ rượu” ⇒ dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất

    + Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói…

    + Hắn đủ tình để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc

⇒ Cuộc gặp với Thị đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên

– Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng

– Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”

⇒ Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, đã thực sự “tỉnh” để yêu, để hi vọng, để mong ước

   b. Từ bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người đến sự thức tỉnh nhận rõ kẻ thù

– Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị Nở, nởi vậy, khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn: Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức”

⇒ Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng

– Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”.

– Nhưng “hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến và nói thẳng với Bá Kiến: Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của mình

– Câu hỏi: “Ai cho tao lương thiện”: thể hiện sự thức tỉnh rõ ràng nhất nhưng cũng là đau đớn nhất, Chí Phèo nhận ra rằng mình mong muốn trở về thành người lương thiện nhưng không thể nào được nữa

⇒ Hành động tự kết liễu thể hiện sự thức tỉnh rõ ràng nhất và cũng đau đớn nhất

III. Kết bài

– Khái quát những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện quá trình bị tha hóa và thức tỉnh của Chí Phèo: nghệ thuật khắc họa tâm lí, bút pháp hiện thực…

– Liên hệ trình bày cảm nhận bản thân

   Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực Việt Nam. Những tác phẩm của ông không chỉ chứa đựng làm lượng hiện thực lớn mà còn sâu sắc về nhân đạo. Trong đời văn, ông để lại nhiều tác phẩm, nổi bật nhất là tác phẩm Chí Phèo viết về đề tài người nông dân. Tác phẩm vừa cho thấy sự tha hóa vừa cho thấy sự thức tỉnh của họ. Cho nên tác phẩm chứa được giá trị nhân văn, nhân đạo to lớn.

    Trước hết về quá trình tha hóa của Chí Phèo được Nam Cao mô tả hết sức logic và chi tiết : Chí Phèo từ người nông dân lương thiện, trở thành kẻ lưu manh và cuối cùng là con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

    Chí Phèo vốn là một đứa con hoang, bị mẹ bỏ rơi ở lò gạch cũ ngay từ khi mới sinh ra. Hắn lớn lên bơ vơ, đi ở hết nhà này đến nhà khác. Trưởng thành là một thanh niên cường tráng, Chí làm canh điền cho Bá Kiến – một cường hào trong vùng, nổi tiếng độc ác, nham hiểm. Bấy giờ Chí là một người lương thiện, hiền như đất và là người giàu lòng tự trọng. Bà ba bắt bóp chân hắn chỉ thấy nhục mà không hề thích thú. Bấy giờ mơ ước của Chí thật giản dị, nhỏ bé : chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải. Tuy nhiên, trong một lần Ba Kiến nổi cơn ghen vu vớ đã khiến Chí bị bắt vào tù. Nhà tù thực dân đã biến một người lương thiện trở thành một kẻ khác hắn, Chí rơi vào quá trình tha hóa, khi phần người bị nhà tù thực dân giết chết, tạo tác nên một tên lưu manh với hình hài gớm giếc. Bảy, tám năm ở tù đã khiến Chí biến đổi về nhân hình: cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, hắn mặc chiếc quần nái đen, phanh trước ngực là những hình xăm trổ. Ai nhìn thấy hắn cũng xa lánh, những lời hắn chửi mọi người vẫn luôn tự nhủ chắc nó chừa mình ra. Hắn làm tan nát biết bao gia đình, hắn sẵn sàng chửi bớt, đốt quán, rạch mặt ăn vạ,.. Tất cả mọi người đều xa lánh hắn.

    Không chỉ dừng lại là một kẻ lưu manh, dưới bàn tay quỷ quyệt của Bá Kiến, Chí Phèo còn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bá Kiến đã từng bước một biến Chí Phèo thành công cụ giúp hắn gây thêm tội ác, chỉ cần Chí Phèo có hơi men trong người thì bất cứ việc gì hắn cũng có thể làm. Hắn tác quái cho bao nhiêu dân làng, phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổi bao nhiêu hạnh phúc… . Chí Phèo trượt dài trong vũng bùn tha hóa, tự tay Chí Phèo đã hủy hoại cả nhân hình và nhân tính của chính mình. Với quá trình tha hóa của Chí Phèo Nam Cao đã vạch trần bộ mặt độc ác, nham hiểm, nhẫn tâm của bọn địa chủ cường hào ở nông thôn, của nhà thù thực dân đã hủy hoại cuộc đời của một con người, đã đẩy Chí vào con đường lưu manh, tha hóa.

    Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, thì tác phẩm của Nam Cao lại không thành công và có giá trị sâu sắc đến vậy. Nam Cao đã tiếp tục dùng con mắt tin yêu của mình để nhận thấy bản chất lương thiện ẩn sâu bên trong lốt quỷ dữ kia. Sau đêm gặp gỡ với thị Nở, sáng tỉnh dậy lần đầu tiên sau khi ra tù Chí mới lắng lòng cảm nhận âm thanh của cuộc sống : tiếng chim hoát, tiếng người đi chợ,… những âm thanh vui vẻ đó đã đánh thức, kéo hắn ra khỏi chuỗi ngày dài trong u mê, tăm tối. Nhắc Chí nhớ về ngày trước và giúp Chí nhận ra sự thể thảm của bản thân trong hiện tại và tương lại là sự đói rét và cô độc. Sự nhận thức ấy chính là mốc đánh dấu sự thức tỉnh ý thức, nhân tính trong con người Chí.

    Để phần người ấy có thể thực sự trỗi dậy, sống lại còn phải cần đến một chất xúc tác quan trọng hơn nữa, đó chính là tình yêu thương thị Nở dành cho Chí Phèo. Chỉ là một bát cháo giản dị, nhưng Chí Phèo đi từ ngạ nhiên, đấy xúc động, đến hạnh phúc, bởi đời Chí Phèo chưa được ai cho cái gì bao giờ, và hắn cũng chưa từng được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà. Bát cháo hành đã đánh thức trong Chí khát khao lành mạnh, chân chính: Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao và Chí gửi gắm mọi niềm tin vào thị Nở, đó sẽ là người mở đường cho Chí quay về hòa nhập với cộng đồng. Quả thật bằng sự yêu thương chân thành, mà thật giản dị cũng có thể cảm hóa một con người tưởng như đã ở đáy của sự tha hóa. Đó là niềm tin của Nam Cao vào sức mạnh cảm hóa của con người bằng tình yêu thương và sự chân thành.

    Nhưng sự xuất hiện của thị Nở chỉ như cầu vồng sau mưa, niềm tin tưởng của Chí không được bao lâu thì bị dập tắt hoàn toàn, khi Chí bị thị Nở cự tuyệt. Chí Phèo bấy giờ mới cay đắng nhận ra khoong thể làm mất đi những vết sẹo trên mặt và cũng không thể làm người lương thiện được nữa. Chí Phèo ý thức sâu sắc bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của mình. Không còn con đường nào khác, hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu chính mình. Cái chết ấy là sự hủy diệt con quỷ ở nhân hình và để giữ lại phần nhân tính trong sâu thẳm Chí Phèo. Đồng thời cái chết của Chí Phèo cũng cho thấy khao khát mãnh liệt của người nông dân bị tha hóa muốn trở về làm người lương thiện.

    Quá trình tha hóa và thức tỉnh của Chí Phèo cho thấy giá trị hiện thực nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Vừa là tiếng nói tố cáo đanh thép xã hội vô nhân đạo, vừa là sự cảm thương cho số phận của những người nông dân lương thiện khi bị đẩy vào bước đường cùng. Đồng thời, thể hiện quá trình tha hóa của nhân vật cũng cho thấy nội lực sáng tạo nghệ thuật già dặn, cây bút sắc sảo, tạo nên một hình tượng nhân vật đa dang, nhiều chiều, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

   Viết về đề tài người nông dân đã có rất nhiều cây đại thụ thành công trên nhiều khía cạnh, đó là một thử thách lớn cho các nhà văn đến sau như Nam Cao nhưng với ý thức “Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có” mà tác phẩm “Chí Phèo” của ông vượt lên thử thách sống mãi với thời gian. Điều làm nên giá trị nổi bật nhất của tác phẩm là ở chỗ: “Khi miêu tả người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm của họ, ngay cả khi họ bọ xã hội cướp đi cả nhân hình, nhân tính”. Quá trình Chí Phèo bị tha hóa và thức tỉnh là một nét tiêu biểu minh chứng cho điều đó và có giá trị nhân văn sâu sắc. Một mặt vừa đanh thép tố cáo xã hội phong kiến trước năm 1945, một mặt khẳng định bản chất tốt đẹp của con người chỉ bị khuất lấp chứ không bao giờ bị bất đi.

   Chí bản chất vốn là một con người hiền lành, lương thiện ngay từ khi sinh ra đã “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không” được một anh đi thả ống lươn nhặt được đem về cho người đàn bà góa mù. Người đàn bà này lại bán hắn cho bác phó cối, bác ta mất Chí bơ vơ sống như cây như cỏ đi ở hết nhà này nhà nọ. Đến năm hai mươi tuổi hắn làm canh điền cho Bá Kiến, trong nhà có bà ba vợ ông lí thường hay dở trò với hắn. Ông chồng thì vốn hay ghen nhưng lại sợ vợ nên tìm cách đẩy Chí vào tù ở những năm tháng hoài bão, khát vọng của chàng trai trẻ. Chính chế độ hà khắc của nhà tù thực dân phong kiến đã biến một anh canh điền trở thành một thằng lưu manh để cho thế lực hắc ám như Bá Kiến hoàn thành nốt công đoạn biến hắn thành một con quỉ.

   Quá trình tha hóa của Chí được bắt đầu sau bảy, tám năm đi ở tù nay hắn trở về làng Vũ Đại chẳng khác gì con quỉ dữ với ngoại hình “Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Diện mạo bên ngoài của Chí được tác giả đặc tả qua mấy câu văn con người hắn hiện lên thật đáng sợ và quá khác biệt với trước đây. Chí không còn là anh canh điền hiền lành mà là một thằng đầu bò chính cống với hành động hung hãn, lời nói thô tục vừa về đến làng hôm trước hôm sau đã thấy ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều. Hắn say khướt rồi xách vỏ chai đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ. Nhưng hắn bị Bá Kiến_kẻ xảo trá, quỷ quyệt thu phục chỉ bằng vài lời nói dối ngọt ngào, vài lời nịnh bợ để hắn nguôi ngoai cơn giận ra về. Để rồi lần thứ hai đến Chí không gây gổ, ăn vạ mà điệu bộ hiền lành như đất gãi đầu, gãi tai đòi Cụ Bá cho đi ở tù nhưng thực chất là đòi miếng ăn chỗ ở-nhu cầu chính đáng của con người. Mục đích và yêu cầu ấy thật đáng trân trọng nhưng một lần nữa lại bị Bá Kiến lợi dụng biến Chí thành tay sai đắc lực là tên chuyên đi đòi nợ cho hắn. Kể từ đó cuộc đời của Chí triền miên trong cơn say “Những cơn say của hắn tràn cơn say này sang cơn say khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say,…” mà trong lúc say thì hắn có thể làm bất cứ cái gì mà người khác sai bảo. Chính điều đó đã biến hắn trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” “Phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện” hắn đã khiến cho “tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi khi hắn đi qua”. Chị Dậu dù phải bán con bán chó bán sữa nhưng quyết không bán lương tâm, nhân phẩm đạo đức còn Chí bán cả linh hồn cho quỷ dữ. Vạch ra một cách logic quá trình lưu manh tha hóa của Chí Phèo- hiện tượng độc đáo cho dòng văn học hiện thực tố cáo xã hội phong kiến nửa thuộc địa tàn nhẫn bất công, chà đạp lên tinh thần và thể xác của lao động nghèo khổ, đẩy họ đến bước đường cùng.

   Tưởng rằng những tháng ngày sau đó của Chí vẫn chìm đắm trong men say, sống mãi với kiếp thú vật nhưng Nam Cao là một nhà văn giàu tình thương, có tấm lòng nhân đạo lớn ông không nỡ cho nhân vật của mình say mãi mà không có phút giây tỉnh để làm người. Chính vì vậy nên ông đã để thị Nở-người con gái quá lứa lỡ thì, xấu ma chê quỷ hờn đến đưa Chí ra khỏi cơn say, đánh thức lương tri làm người bị khuất lấp đã lâu trong con người hắn. Đêm hôm ấy khi uống rượu dưới nhà tự Lãng say mèm trên con đường về nhà hắn gặp thị “Một người đàn bà ngồi tênh hênh”. Với bản năng của một người đàn ông và trận ốm lúc nửa đêm cùng bát cháo hành và tấm lòng của thị đã thức tỉnh phần người bấy lâu bị vùi lấp ở Chí.

   Từ khi đi ở tù về đây là lần đầu tiên Chí hết say và tỉnh táo để nghĩ về quá khứ, tương lai và cảm nhận âm thanh của cuộc sống. “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Những âm thanh quen thuộc ấy ngày nào chả có cớ sao hôm nay hắn mới để ý bởi đây là lần đầu tiên hắn tỉnh, lần đầu tiên hắn biết sợ rượu như người ốm sợ cơm. Chí khi ấy nhận thức được bản thân mình đã ở cái dốc bên kia của cuộc đời, hắn đã già mà vẫn còn cô độc và cơ thể như đã bị hư hỏng nhiều, tương lai cuộc sống mờ mịt bởi hắn đã chịu quá nhiều bất hạnh. “Chí Phèo như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Nam Cao đã đi sâu vào nội tâm của nhân vật không ngờ con quỷ dữ ấy cũng có ngày biết nghĩ biết sợ trước cho tương lai của mình. Chí đang dần hồi sinh kiếp người hắn nghĩ lại ngày xưa cũng đã từng có một thời mơ ước cuộc sống của người nông dân “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Chí đã từng mơ về một hạnh phúc gia đình bình dị như thế nhưng đã bị bọn địa chủ cường hào chà đạp, vùi dập để cho giờ ngẫm lại thấy nuối tiếc vô cùng.

   Thị Nở xuất hiện với tấm lòng nhân ái cùng bát cháo hành đã khiến cho Chí từ ngạc nhiên, xúc động đến khao khát hoàn lương. Nếu như cuộc tiếp xúc đầu tiên với một cô gái để lại cho Chí ít nhiều rung cảm thì bát cháo hành tình yêu và sự săn sóc của thị khiến đã trở thành liều thuốc giải độc và chữa lành cơn sốt bất thường trong người Chí, chữa lành cả tâm hồn đã bị bóp méo để rồi giờ đây Chí khao khát được làm người lương thiện “Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Hắn thấy mắt hình như ươn ướt, đó là một điều đơn giản và dễ hiểu bởi đây là lần đầu tiên hắn được săn sóc bởi một tay “đàn bà”. Hắn ân hận thấy lòng thành trẻ con muốn làm nũng với thị như với mẹ. Sao hắn hiền đến thế khác hẳn với một thằng Chí mà bao người vẫn sợ thường ngày. Bản chất con người lương thiện đã trỗi dậy lấn át đi con quỷ dữ. Để từ đó hắn khao khát có một hạnh phúc gia đình “Giá như thế này mãi thì thích nhỉ” đây là một câu tỏ tình xuất phát từ một trái tim chân thành, thuần phác, giản dị không hoa mĩ cầu kì trong ngôn từ. Chí đang ngẩn người nghĩ và mơ về tương lai của hạnh phúc có thị. Chí sẽ chấm dứt cuộc sống cô độc và tàn nhẫn bắt đầu lại đời người khi còn chưa muộn. Nam Cao quả là nhà nhân đạo chủ nghĩa của dòng văn học hiện thực dù cho khoảng thời hạnh phúc ấy ngắn ngủi trong năm ngày đếm trên đầu ngón tay nhưng đã cho thấy giá trị đạo đức tốt đẹp của con người chưa bao giờ bị mất đi có chăng chỉ là bị khuất lấp, vùi dập và chỉ cần có cơ hội nó sẽ trỗi dậy để sống lại làm một người lương thiện tử tế.

   Đặc biệt là đỉnh cao của sự thức tỉnh nằm ở cuối tác phẩm với hành động cầm dao đâm chết Bá Kiến và tự sát khi Chí bị thị Nở từ chối, bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Chí lựa chọn cái chết cho mình và kẻ thù là khi hắn thức tỉnh, ý thức nhân phẩm đã trở về hắn không chấp nhận được kiếp sống quỷ dữ, thú hoang nên phải kết liễu nó để làm lại cuộc đời. Nút thắt của câu chuyện đã được tháo gỡ bởi án mạng hai xác chết để lại ám ảnh cho độc giả. Như vậy Chí thức tỉnh không chỉ ở những ngày hạnh phúc mà còn là khoảnh khắc đau đớn, tuyệt vọng và căm uất vô cùng.

   Viết về quá trình bị tha hóa và thức tỉnh của Chí Phèo ngòi bút của Nam Cao như vừa khơi sâu vào hiện thực vừa mang nét trữ tình đặc sắc. Nhà văn đã khắc họa ngoại hình và lột tả thế giới nội tâm nhân vật thật tài tình, ngôn ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân để lại ấn tượng trong lòng độc giả về một tên Chí Phèo lưu manh nhưng vẫn khao khát làm người lương thiện.

   Quá trình bị tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo có giá trị nhân đạo sâu sắc Nam Cao đã khẳng định bản chất lương thiện và khao khát hạnh phúc là bản tính tự nhiên tốt đẹp tồn tại mạnh mẽ trong tâm hồn con người không bao giờ bị hủy diệt ngay cả khi con người ta bị tha hóa bị đẩy vào mức đường cùng nhưng chỉ cần có cơ hội là trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Qua đó cũng cho ta bài học nhận thức sống trên đời cần có sự quan tâm chia sẻ và dành cho nhau tình yêu thương bởi tình yêu thương làm cho người gần người hơn và có thể cảm hóa những trái tim, tâm hồn đang lầm đường lạc lối trở về con đường chính đạo.

   Năm 1941, Nhà xuất bản Đời mới cho ra đời truyện ngắn “Đôi lứa xứng đôi”. Năm 1946, truyện được tái bản, Nam Cao đổi tên truyện thành “Chí Phèo”. Đó là một truyện ngắn độc đáo viết về đề tài nông dân trước cách mạng. Nam Cao không nói vể tô tức, sưu thuế, mà đi vào hiện tượng lưu manh hoá ở nông thôn. Qua cuộc đời của nhân vật Chí Phèo, tác giả đã sáng tạo nên một bức tranh xã hội chân thực về đời sống khổ cực và thê thảm của người dân cày và nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.

    Với cảm quan hiện thực sắc sảo, với trái tim nhân hậu thiết tha, với hiểu biết sâu sắc về nông thôn, Nam Cao đã thể hiện một cách xúc động con đường bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo, tạo nên giá trị tố cáo xã hội của tác phẩm đầy ám ảnh.

    Làng Vũ Đại, cái đất “quần ngư tranh thực” đã nở ra một Chí Phèo. Hắn sinh ra đã khổ rồi. Không cha mẹ, không một tấc đất cắm dùi, tứ cố vô thân. Tuổi thơ hắn vồ cùng đau khổ, đầy bất hạnh. Năm 20 tuổi, Chí Phèo làm canh điền cho bá Kiến. Vợ ba bá Kiến đã bắt hắn “bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy…” mà Chí Phèo bị giải huyện, phải đi tù bảy, tám năm trời.

    Nhà tù thực dân đã biến anh canh điền hiền lành, cục mịch thành một tên lưu manh ngổ ngáo. Mặt hắn thay đổi đáng sợ “trông đặc như thẳng sắng đá”. Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, Cjậ mặt thì đen mà rất cơng comg, hai mắt gườm gườm, ngực và cánh tay chạm trổ rồng phượng, với ông tướng cầm chuỳ, trông gớm chết! Sự thay đổi của Chí “khắc hẳn”, đến nỗi cả dân làng Vũ Đại, mới đầu “chẳng ai biết hắn là ai”. Năm đó Chí Phèo 27 hay 28 tuổi gì đó.

    Về làng hôm trước thì hôm sau Chí Phèo ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Say khướt, hắn cầm một cại vỏ chai đến thẳng nhà bá Kiến “gọi tên tục ra mà chửi”, “chửi sướng miệng!’, “chửi ngoa ngoắt” làm sao! Cả làng Vũ Đại xưa nay đã có ai dám chửi bá Kiến như Chí Phèo? Lí Cường và Chí Phèo đã đấm, đã đá nhau “bình bịch”. Chí đập vỏ chai vào cột cổng, rạch mặt kêu làng. Hắn lăn lộn dưới đất “máu ra loe loét”. Cả làng Vũ Đại kéo đến xem. Như bị người ta cắt họng, hắn vừa chửi vừa kêu làng: “ôi làng nước ơi,bố con thằng bá Kiến nó đâm chết tôi!” . Bá Kiến một tên cường hào “khôn róc đời”, biết “mêm nắn rắn buông” đã xử nhũn với Chí. Cụ bá “thân mật” mời Chí vào nhà chơi. Cụ cho Chí biết là hắn “có họ” với lí Cường. Cụ giết gà, thết rượu, đãi thêm một đồng bạc để Chí uống thuốc. Hành động của Chí vừa mang tính chất rửa hận, trả thù, vừa mang tính chất côn đồ, nên hắn thấy hắn “cũng oai”, dám “độc lực chọi nhau” với cha con bá Kiến, bốn đòi làm tổng lí “khét tiếng” trong làng huyện. Hình ảnh Chí Phèo từ nhà bá Kiến ra về “loạng choạng vừa đi vừa cười”, hắn nghĩ đến bài thuốc dấu với vài nắm lá, là cái mặt hắn lại đâu vào đấy ngay, còn đồng bạc để uống rượu – cho ta thấy tính chất lưu manh của một anh nông dân ngu dốt đã bị tha hoá.

    Bốn ngày sau tiêu hết đồng bạc, Chí Phèo gây ra bao chuyện “động trời” ghê gớm. Hắn đốt quán mụ bán rượu… Hắn bốc của cô hàng xén một dúm muối trắng. Hắn vạn ba bốn quả chuối xanh của nhà nào đó. Hắn ngồi uống rượu với chuối xanh chấm muối và thấy rằng cũng ngon. Hành động ăn cướp ấy, cách ngồi uống rượu ấy ở cái miếu con tại bờ sông cho thấy Chí Phèo đã là một tên lưu manh rồi. Hắn đang đi tiếp con đường của Năm Thọ, của Binh Chức. Lần thứ hai, sáu ngày sau đi tù về, Chí Phèo lại đến nhà bá Kiến, với con dao nhọn và sắc bỏ trong túi áo, với “cái mắt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Chí Phèo gặp cụ bá để “xin đi ở tù”, vì “từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích ở tù”. Hắn nói là phải đâm chết dãm ba thằng, để cụ Bá bắt hắn giải huyện! Chí cho biết “đi tù sướng quá” vì đi tù “còn có cơm để mà ăn..”. Nhà văn Nam Cao đã phản ánh cay đắng tột cùng của một bộ phận nông dân trong xã hội cũ đã bị chính quyền thực dân phong kiến đẩy họ và con đường lưu manh hoá. Muốn sống chỉ có một con đường: lưu manh, ăn cướp! Với một tiếng cười “khanh khách” – cái cười Tào Tháo, với cái “vỗ vai” và một câu nói khích, bá Kiến đã sai được Chí Phèo cầm dao đến nhà đội Tảo “một tay vai vế trong làng” để đòi nợ 50 đồng bạc cho cụ.

    Chẳng phải giao tranh đổ máu, chỉ bằng mấy tiếng chửi phủ đầu, Chí đã đòi được món nợ mà đội Tảo toan “vỗ tuột”. Chí Phèo “vênh vênh”, tự thấy “oai thêm bậc nữa”, hắn tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta!”. Năm đồng bạc thưởng, năm sào vườn ở bãi sông mới cắm thuế của một ngưòi làng, cụ bá đã ban cho Chí Phèo. Và hắn đã trỏ thành “anh đầy tớ chân tay mới” của bá Kiến. Vốn vô học, đầu bò, lưu manh, Chí Phèo đã bị bá Kiến dụ dỗ mơn trớn, mua chuộc bằng vật chất, hắn bị tha hoá, trượt dài trên con đường tội ác và tội lỗi.

    Từ đó trở đi, bàn tay Chí Phèo vấy đầy máu. Người ta đầu độc hắn bằng rượu. Hắn trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, phá bao nhiêu cơ nghiệp, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện – Cuộc đời hắn giờ đây là những cơn say dài mênh mông, vô tận “hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, doạ nạt trong lúc say..”. Cái mặt của Chí Phèo thật đáng sợ, như mặt của một con vật lạ, vằn dọc vằn ngang biết bao nhiêu là sẹo, “vàng vàng… xạm màu gio”. Cái thẻ biên tên hắn, hắn cũng không có. Hắn thuộc hạng lưu tán, người ta khai hắn “lâu nám không về làng”. Hắn không nhớ tuổi hắn, và “hắn không cỏn ngày tháng nữa”. Chí Phèo trở thành một kẻ điên khùng, gần như mất trí. Hắn vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những ai không chửi nhau với hắn. Hắn chửi “đứa chết mẹ nào thân hắn” cho hắn khổ! Con đường tha hoá của Chí Phèo chỉ trong vòng hơn mười năm trời và hắn đã trờ thành một con quỷ dữ, rất ghê tởm. Tất cả dân làng “đểu sợ hắn” và “tránh mặt hắn” mỗi lần hắn qua! Cái chế độ thực dân phong kiến, mà kẻ chủ mưu là tên cường hào xảo quyệt bá Kiến đã cướp đi cả hình người, cả lình hồn người của Chí!

    Chí Phèo đã đi tiếp con đường của những quỷ dữ.

    Năm đó, Chí Phèo 38 hay 39, 40 hay ngoài 40? Mọi chuyện khủng khiếp cuộc đời của Chí diễn ra trong vòng sáu ngày đêm. Bắt đầu từ một đêm trăng rằm “ánh trăng chảy trên đường trắng tinh”. Chí Phèo bất ngờ đến nhà Tự Lãng, một anh goá vợ làm nghề hoạn lợn kiêm thầy cúng. Hai đứa ngồi uống rượu dưới ánh trăng, hết ba chai, như “một đôi tri kỉ cuồng”… Chính đêm trăng đó, Chí Phèo đã ôm lấy thị Nở mà làm tình, khi thị đang “há hốc” mồm ngủ dưới trăng. Chính đêm ấy, Chí Phèo bị cảm rất nặng. Mắt hoa lên. Chân tay thì lẩy bẩy. Mửa thốc, mửa tháo, mửa ồng ộc… Bát cháo hành và bàn tay săn sóc của thị Nở đã làm cho hắn cảm động, hắn bâng khuâng buồn, gần như là ăn năn. Bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi, nay được đánh thức dậy. Lâu nay, hắn doạ nạt, cướp giật mới có ăn. Lần đầu tiên, Chí được một người đàn bà săn sóc. Chí “thèm lương thiện”, hắn muốn “làm hoà” với mọi người. Hắn cũng muốn với thị Nở “làm thành một cặp rất xứng đôi”. Trận ốm cũng đã làm cho Chí thay đổi cả về sinh lí lẫn tâm lí nữa? Lần đầu tiên hắn nhớ lại mơ ước bình dị, lương thiện thời trai trẻ muốn “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải..”.

    Sau năm ngày đêm Chí Phèo với thị Nở sống với nhau như vợ chổng, thị Nở “đừng yêu” để thị hỏi bà cô thị đã. Bà cô thị xỉa xói thị, không cho thị lấy một kẻ chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ! thị Nở đã trút mọi bực dọc lên mặt nhân ngãi. Chí Phèo bị đẩy vào hố thẳm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn tức quá, muốn đâm chết “cái con khọm già”. Hắn uống đến say mểm “rồi hắn đi!”. Với một con dao ở thắt lưng, Chí Phèo đến thẳng nhà bá Kiến chứ không đến nhà thị Nở! Lần thứ ba, Chí Phèo đến gặp bá Kiến, không phải để xìn tiền mà đòi lương thiện, hắn “không thê là người lương thiện nữa”, “làm thế nào chó mất được những vết mảnh chai trên mặt này?”. Đó I là những tiếng kêu đau đớn, uất hận, hãi hùng! Muốn được làm người lương thiện mà không ai cho, mà không thể được, cái bi kịch‘ấy của Chí Phèo thật khủng khiếp, đáng sợ! Kẻ bất lương muốn hoàn lương đã khó. Quỷ dữ làm sao có thể thành người lương thiện được? Chí Phèo chỉ còn một cách là đâm chết bá Kiến, kẻ làm hại đời anh, rổi tự sát! Cái chết cửa Chí Phèo là cái chết đầy bi kịch, cái chết khủng khiếp, đáng thương của một nông dân nghèo khổ, ngu dốt, bị XÔ đẩy, bị mua chuộc và bị đầu độc vào con đường tha hoá, lưu manh, tội lỗi không có lối thoát.

    Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo thành nhân vật điển hình vể sự thống khổ, lưu manh hoá, chết trong bi kịch thảm thương hãi hùng cửa một bộ phận nông dân trong xã hội thực dân phong kiến. Năm Thọ đi biệt tăm, Binh Chức đã chết, Chí Phèo đã tự sát, nhưng cái lò gạch cữ vẫn còn, thị Nở đã thấy thoáng hiện ra… một Chí Phèo con sẽ ra đời. Cái xã hội ấy có bao giờ hết được những kẻ như Chí Phèo?

    Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tố cáo và lên án cái xã hội thực dân phong kiến đã xô đẩy những người nông dân lương thiện vào con đường lưu manh, tội lỗi, đã cướp đi của họ cả hình người lẫn tính người. Truyện đã dựng nên một bức tranh hiện thực đen tối đầy máu, nước mắt và tội ác. Truyện “Chí Phèo” thấm đượm một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Nó như một tiếng kêu thương: hãy xoá bỏ tận gốc mọi cái ác để cứu lấy con người, để người nghèo được làm người lương thiện, được sống trong lương thiện.

Đề bài: Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

I. Mở bài

– Đôi nét về tác giả Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia: Một cây bút hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu của văn học nước ta trước Cách mạng tháng 8. Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tiểu thuyết hiện thực thành công của ông

– Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã được xây dựng thành công bởi nghệ thuật trào phúng đặc sắc

II. Thân bài

1. Nghệ thuật trào phúng là gì?

– Trào phúng : nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội.

– Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức truyện làm nổi bật mâu thuẫn đó

2. Nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích

a. Mâu thuẫn trào phúng được xây dựng thành công

– Thể hiện ngay trong tựa đề:

    + “Tang gia”: nhà có đám, đáng ra với hoàn cảnh đó, không khí phải tràn ngập nhiều buồn tiếc

    + “Hạnh phúc”: Cảm xúc khi gặp chuyện nhiều niềm vui, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”

⇒ nhan đề chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng cười chua chát, kích thích trí tò mò của người đọc:

– Thể hiện trong niềm vui của những người trong gia đình và ngoài gia đình:

    + Nhà chuyện buồn nhưng mỗi nhân vật trong gia đình đều không giấu nổi niềm vui bởi mình sẽ đạt được mục đích khác nhau

    + Những người ngoài gia đình: Mừng vui vì được khoe mẽ, chim chuột, được xem đám ma to…

– Mâu thuẫn trào phúng xuyên suốt cảnh đám ma: một đám ma rất to, rất đông, được tiến hành rất trọng thể, đúng là một đám ma gương mẫu. Nhưng kỳ thực lại giống một đám hội, đám rước.

b. Nhân vật trào phúng

– Cố Hồng: vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người, mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo ⇒ con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình

– Ông Văn Minh: thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lý thuyết viễn vông nữa.

– Bà Văn Minh: mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.

– Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết, cô cũng buồn nhưng là “buồn lãng mạn” vì không thấy người tình của mình

– Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến

– Ông Phán: Sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị.

– Xuân tóc đỏ: Hạnh phúc đặc biệt vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết, danh giá uy tín lại càng to hơn.

– Cảnh sát Min Đơ và Min Toa:“giữa lúc không có ai đáng bị phạt…đương buồn rầu…thì sung sướng cực điểm”.

– Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương

– Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chu ý vào những kiểu quần áo tang…

⇒ Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước, nhân vật trào phúng thể hiện rõ nét, ai cũng tìm thấy niềm vui trong đám tang đáng lẽ ra nên buồn thương

c. Cảnh tượng trào phúng

– Cảnh đưa đám:

    + Chậm chạp và nhốn nháo

    + Các loại kèn ta, Tây , Tàu lố lăng

    + Người đi đám nói chuyện bàn tán

    + Điệp khúc “Đám cứ đi”

– Cảnh hạ huyệt:

    + Cậu Tú bắt mọi người tạo dáng chụp ảnh

    + Cụ cố Hồng: tỏ ra chí hiếu nhưng lại lộ sự giả dối

    + Phán mọc sừng khóc oặt người đi nhưng lại giúi vào tay Xuân tờ 5 đồng rồi lại khóc oặt người đi

⇒ Càng thể hiện rõ sự “trào phúng” của đoạn trích

III. Kết bài

– Khẳng định nghệ thuật trờ phúng đã được thể hiện thành công trong đoạn trích

– Nghệ thuật trào phúng góp phần phơi bày những hợm hĩnh, lố lăng, bịp bợm của xã hội tượng lưu.

Đề bài: Phân tích Nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia của tác giả Vũ Trọng Phụng.

    Vũ Trọng Phụng một trong những cây bút trào phúng bậc thầy của Văn học Việt Nam. Trong các sáng tác của ông nổi bật nổi bật nhất là Số đỏ – tác phẩm có thể đem lại vinh dự cho bất cứ nền văn học nào. Đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia” tuy chỉ là trích đoạn ngắn ngủi nhưng cũng đã làm nổi bật tài năng trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng.

    Trào phúng là khái niệm để nói việc sử dụng những lời lẽ bóng bẩy, hào nhoáng để chế nhạo những sự vật, hiện tượng, con người đáng cười trong cuộc sống. Tiếng cười được tạo ra khi ta phát hiện ra cái đáng cười, phát hiện mâu thuẫn trào phúng. Trào phúng không chỉ mới xuất hiện trong văn học hiện đại mà trước đó đã có những nhà thơ với các sáng tác đậm tính trào phúng, tự trào như Tú Xương. Vũ Trọng Phụng đã kế thừa và phát huy nghệ thuật trào phúng lên một đỉnh cao mới. Trong đoạn trích này, nghệ thuật trào phúng được thể hiện ở những mâu thuẫn, sự kệch cỡm của những đứa con, đứa cháu trước cái chết của người thân trong gia đình. Cùng với giọng điệu lạnh lùng đã cho thấy ngòi bút châm biếm sắc sảo, vạch trần bộ mặt “chó đểu” của xã hội đương thời.

    Tính trào phúng được thể hiện trước hết ở nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia”. Nhắc tới đám tang là nhắc đến kẻ ở người đi, là sự biệt li mãi mãi, thường đem đến sự xót thương, đau đớn đến tột cùng. Nhưng ở đám tang này lại khác hẳn, người ta hạnh phúc, sung sướng khi được thỏa mãn ước nguyện. Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã thể hiện mâu thuẫn, nghịch lý, đây đồng thời cũng là mẫu thuẫn được triển khai trong toàn bài, để làm nổi bật chủ đề tác phẩm, và thái độ phê phán sâu sắc của tác giả với xã hội.

    Để làm tính chất trào phúng được bộc lộ rõ nét hơn, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng soi chiếu vào từng chân dung, để thấy được bản chất xấu xa của mỗi người. Hòa với niềm vui chung, khi cụ cố tổ chết đi, bản di chúc vốn lâu nay chỉ được nằm trên giấy thì đến đây đã được đi vào thực hành, mỗi nguời sẽ được chia những gia sản kếch xù. Ai ai cũng như mở cờ trong bụng. Nhưng bên cạnh niềm vui chung đó, mỗi người lại có những niềm vui riêng cho bản thân. Cụ cố Hồng hạnh phúc, sung sướng khi tưởng tượng đến cảnh mình được mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, và để người ta khen: “úi kìa, con giai nhớn đã già thế kìa à”. Tuy mới ngoài năm mươi tuổi nhưng lúc nào ông Hồng cũng muốn được người ta gọi là cụ. Ông bà Văn Minh thì sung sướng, đây chính là cơ may hiếm có để vợ chồng ông bà tung bộ sưu tập mới, lăng xê những mẫu quần áo âu hóa mới nhất đến với mọi người. Riêng ông Văn Minh được Vũ Trọng Phụng lia máy quay đến cận cảnh, ghi lại khoảnh khắc vò đầu bứt tóc, vô cùng đăm chiêu vì không biết xử lí với Xuân Tóc Đỏ ra sao. Còn người đàn ông chuyên đào mỏ, mang cái sừng to trên đầu lại sung sướng, thỏa mãn khi biết cái sừng trên đầu lại đem đến cho mình những món hời lớn đến như vậy, chính ông ta cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế . Cô Tuyết với bộ mặt buồn rầu, rất đúng mốt của nhà có đám, mặc bộ quần áo ngây thơ, hững hờ, nữa kín nửa hở khiến các bạn của cụ cố Hồng không thể rời mắt. Bộ mặt buồn rầu đó không phải dành cho người đã chết mà là đang trông ngóng người tình – Xuân Tóc Đỏ mãi vẫn chưa xuất hiện. Đối với cậu Tú Tân, niềm vui của cậu là được mang chiếc máy ảnh đã có từ lâu đem vào sử dụng, cậu đã ao ước đến ngày này rất lâu rồi. Không chỉ người trong nhà vui mà những kẻ bên ngoài cũng hết sức sung sướng. Min Đơn Min Toa đang thất nghiệp, bỗng nhận được lời thuê trông đám tang thì vui sướng khôn xiết; đây cũng là cơ hội để bạn bè cụ cố Hồng khoe khoang những huân chương dính đầy trên ngực.

    Không dừng lại ở đó, tính chất trào phúng còn được thể hiện đậm nét trong cảnh đám rước tang đông vui, ồn ào như một đám hội, một buổi diễu hành. Đám tang họ cố làm cho thật to, thật hoành tráng để xứng đáng với chữ “hiếu” mà họ muốn bày tỏ với người đã khuất. Đám tang đi đến đâu làm huyên náo đến đó, ai cũng phải trầm trồ về một đám tang tầm cỡ. Kèn tây, kèn ta, kèn tàu, rồi cả lốc bốc xoảng hòa vào nhau tạo nên sự pha tạp, hỗn độn. Giữa lúc đám đang đi thì xuất hiện thêm chiếc xe “trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng” đi cùng với đó là “hai vòng hoa đồ sộ, một của báo Gõ mõ, một của Xuân”. Khi lia góc máy đến cận cảnh người ta còn hết sức hoảng hốt về những câu chuyện trong đám tang ấy, với gương mặt buồn bã chuẩn mực của đám tang, họ chim chuột nhau, nói xấu người này, kể chuyện người kia, “đám cứ đi” kéo dài theo đó là sư suy đồi, bại hoại về nhân cách và đạo đức. Cả đám tang đó là hội tụ của những nhân cách bị tha hóa, của thói đạo đức giả đang lên ngôi trong xã hội lúc bấy giờ.

    Cảnh hạ huyệt cũng là là một trong những cảnh trào phúng đặc sắc không kém. Cậu Tú Tân ra bắt bẻ từng người, đứng kiểu này, đứng dáng nọ sao cho đau khổ nhất để cậu chụp được những bức ảnh hoàn hảo. Nhưng có lẽ đỉnh cao của ngòi bút trào phúng chính là khi Vũ Trọng Phụng tinh mắt nhận ra cuộc mua bán, trao đổi quá đỗi nhanh chóng của ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc Đỏ. Tờ tiền gấp làm tư, trong lúc khóc oặt cả người đi, ông Phán Mọc Sừng đã nhanh nhẹn đặt vào tay Xuân, như một lẽ tự nhiên Xuân cất ngay đi để người ta khỏi trông thấy. Quả là sự phối hợp hết sức hài hòa, nhịp nhàng của những diễn viên lão làng.

    Để hoàn thiện bức tranh trào phúng ta cũng không thể không nhắc đến ngôn ngữ trào phúng bậc thầy được tác giả sử dụng trong tác phẩm. Ngôn từ được sự dụng tinh tế, có chọn lọc, đúng bản chất sự vật. Đầu tiên là về tên nhân vật: Tuyết ngây thơ, Phán mọc sừng, ông bà Văn Minh, Xuân Tóc Đỏ,… Sử dụng linh hoạt các hình ảnh so sánh hài hước: Cảnh sát không được biên phạt buồn như nhà buôn vỡ nợ; Từ chối việc chạy chữa như những vị danh y biết tự trọng… đã vạch trần bộ mặt đểu giả, bất nhân của xã hội bấy giờ. Giọng văn đậm chất châm biếm: Thật là một đám ma to tát ; Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm… Sự kết hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật cùng với tình huống trào phúng đặc sắc, Vũ Trọng Phụng đã vẽ nên một bức tranh vô cùng chân thực về xã hội âu hóa rởm đời, khi mà càng âu hóa con người càng bị mài mòn về nhân tính, càng trở nên giả dối, đểu cáng hơn.

    Bằng bút pháp trào phúng đặc sắc, đầy sâu cay, Vũ Trọng Phụng đã thành công khi vạch trần bộ mặt bất nhân của xã hội đương thời. Tiếng cười hài hước, hóm hỉnh lại vô cùng sắc sảo cho thấy sự khinh bỉ đến tột cùng của ông với xã hội âu hóa lố lăng, kệch cỡm của tầng lớp thị dân đương thời.

Đề bài: Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng.

   Vũ Trọng Phụng là cây bút bậc thầy của nghệ thuật trào phúng. Vốn sẵn cái tài tình, cái sắc lạnh của một ông vua phóng sự Bắc kì, ông dường như được thỏa sức trong thế giới nghệ thuật ấy. Và Số đỏ là một minh chứng cho những sáng tạo không mệt mỏi của ông. Tác phẩm là đỉnh cao trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng, mà trong đó nếu coi thiên truyện là một màn đại hài kịch về xã hội thượng lưu thành thị trước Cách mạng tháng Tám 1945 thì chương truyện thứ XV, với cái tên độc đáo Hạnh phúc của một tang gia là một màn hài kịch đặc sắc nhất. Ở đó, tất thảy những giá trị của nghệ thuật trào phúng được nhà văn thể hiện một cách xuất sắc nhất.

   Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật gây cười nhằm đả kích, châm biếm những hiện tượng xấu xa trong đời sống xã hội. Nó được biểu hiện qua việc xây dựng những mâu thuẫn trào phúng, nhân vật trào phúng, cảnh tượng trào phúng, ngôn ngữ trào phúng, giọng điệu trào phúng… Trong tác phẩm Số đỏ nói chung và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nói riêng, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã tạo nên chất trào phúng dựa trên những yếu tố đó, thậm chí còn đạt đến đỉnh cao.

   Trong chương truyện Hạnh phúc của một tang gia, mâu thuẫn trào phúng được thể hiện qua nhan đề và tình huống trào phúng. Chắc hẳn người đọc không khỏi bất ngờ, tò mò và buồn cười vì cái tên chương truyện có một không hai này. Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc sung sướng, vui mừng khi đạt được điều mình mong muốn, còn tang gia là thời khắc đau buồn, xót thương vì trong gia đình có người thân qua đời. Hai thứ vốn hoàn toàn đối lập, không thể đi liền với nhau, vậy mà giờ đây nó lại còn được đặt trong mối quan hệ sở hữu qua từ của. Trong tang gia lại có hạnh phúc, hay hạnh phúc xuất phát từ tang gia. Điều này thật nghịch lý, trớ trêu và quá hài hước. Nhưng đó lại là sự thật và không hề vô lý chút nào, khi câu văn mở đầu cho chương truyện được cất lên: Ba hôm sau cụ già chết thật. Người chết theo quy luật sinh lão bệnh tử cũng là lẽ thường tình. Vậy mà sao nhà văn lại dùng từ thật? Nghĩa là cụ già ấy đã từng chết giả? Nghe thật nực cười, nhưng đúng là như vậy, sau nhiều lần ốm thập tử nhất sinh, đám con cháu trong gia đình lo toan hết ông lang băm đến ông lang tây, thuốc nọ thuốc kia… mà cuối cùng ông cụ vẫn chưa chết. Bởi chúng đang mong ngóng từng ngày cụ từ giã cõi đời để còn được chia chác cái gia tài kếch xù. Vậy nên chúng vô cùng bất ngờ và mừng rỡ vì hôm nay cụ chết thật sau ba ngày chạy chữa. Cái chết ấy làm cho nhiều kẻ sung sướng lắm! Nhan đề và tình huống ấy đã tạo nên cái chất trào phúng vô cùng độc đáo. Người thân lại vui mừng, phấn khởi khi trong nhà có tang!

   Và thế là bao nhiêu bộ mặt giả dối của đám con cháu trong gia đình thượng lưu bậc nhất đất Hà thành ấy được nhà văn khắc họa đầy mỉa mai, châm biếm trong đám tang của cụ cố tổ. Mở màn là cụ cố Hồng – con giai nhớn của người mất. Ở địa vị này, ông ta phải là người đau buồn nhất, vì người cha đã không còn. Ông tỏ ra “buồn đau” thật khi mơ màng nghĩ đến cảnh tượng mặc đồ xô gai, miệng ho khạc, mếu máo, được dân tình bàn tán: “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”. Trong cơn bối rối vì cha mất, ông không thể kiềm chế được mà hút đến sáu mươi điếu thuốc phiện, nói một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu: “Biết rồi khổ lắm nói mãi”. Kẻ luôn tự nhận “trên thông thiên văn, dưới tường địa lí” ấy thực chất chả biết cái gì. Ngày cha mất, ông ta hiện ra nguyên hình chân tướng của một kẻ háo danh, bất hiếu. Tiếp đến là ông Văn Minh, con trai cụ cố Hồng và là cháu trưởng của người mất. Cái vẻ đăm đăm chiêu chiêu rất hợp với gia đình có tang ấy lại không phải là nỗi buồn, mà Văn Minh còn bao nhiêu nỗi bối rối cần giải quyết. Ông ta sốt ruột vì sao luật sư còn chưa đến để chuyển cái chúc thư kia từ thời kì lý thuyết sang thực hành. Ông ta băn khoăn vì không biết xử trí thế nào với Xuân Tóc Đỏ kẻ có hai cái tội nhỏ là tố cáo tội hoang dâm của một người em gái ông và quyến rũ một người em gái khác của ông nhưng lại có một cái ơn to vì câu nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng” khiến cho ông cụ chết thật. Đám con cháu còn lại kẻ thì sốt ruột, la ó như bà Văn Minh vì chưa được phát tang để trưng diện những mốt tang phục của tiệm may Âu Hóa, kẻ thì phát điên người lên như cậu Tú Tân vì chưa được sử dụng những chiếc máy ảnh, kẻ thì buồn lãng mạn như cô Tuyết trong bộ dạng thất thần với bộ cánh Ngây thơ hở hang nhưng là mong ngóng người tình Xuân Tóc Đỏ mãi không đến, kẻ thì vô liêm sỉ đến mức tự hào vì cái sừng hươu vô hình trên đấu lại đáng giá vài nghìn bạc như ông Phán mọc sừng… Ai cũng có nỗi buồn riêng mà thành ra lại hợp mốt với nhà có tang. Nhưng rõ ràng Vũ Trọng Phụng đã dùng ngòi bút trào phúng đầy mỉa mai của mình để lột tả cái bản chất tàn nhẫn, bất hiếu, vô đạo đức bên trong được che lấp bởi cái vỏ bên ngoài quá giả tạo. Chân dung những kẻ trong gia đình thượng lưu ấy đã góp phần quan trọng làm cho nghệ thuật trào phúng của chương truyện thành công.

   Chưa dừng lại ở đó, ngòi bút trào phúng của nhà văn như con dao sắc lạnh, nó còn lia xa hơn, rộng hơn. Không chỉ những đám con cháu trong tang quyến, mà cả những người đến dự cũng được miêu tả một cách đầy mỉa mai. Có hai tên cảnh sát Min Đơ và Min Toa lại sướng điên người vì được thuê giữ trật tự đám ma khi đang thất nghiệp. Có ông Typn nhà thiết kế tiệm may Âu hóa bực bội vì sự chậm chễ trong việc phát tang khiến những bộ sưu tập tang phục của ông chưa được ra mắt công chúng. Có đám bạn ông cụ cố Hồng đầy những râu, những huân huy chương và cũng đầy xao xuyến, não nùng như điệu nhạc Xuân Nữ khi nhìn thấy làn da trắng thập thò dưới cánh tay và ngực cô Tuyết. Có sư cụ Tăng Phú xuất hiện như một ngôi sao đầy kiêu hãnh vì vừa lật đổ được hội phật giáo, đi cùng với cố vấn báo Gõ Mõ là Xuân Tóc Đỏ – kẻ gây ra cái chết của cụ cố tổ lại được đón tiếp nồng hậu. Cả đám giai thanh gái lịch bạn cô Tuyết đi dự đám tang như đi trẩy hội, tán tỉnh, chọc ghẹo… nhau một cách hồn nhiên. Tuy miêu tả nhiều nhân vật, nhưng nhà văn Vũ Trọng Phụng dường như không bỏ sót một nhân vật nào. Ai cũng hiện lên với những nét chân dung điển hình nhất. Điều ấy vừa cho thấy cái tài của nhà văn vừa thể hiện sức phản ánh hiện thực mạnh mẽ của tác phẩm. Không chỉ đám con cháu trong gia đình mà đến những kẻ ngoài xã hội cũng cùng một ruộc. Tất cả bọn chúng tạo nên một xã hội dị hợm, nhố nhăng, đồi bại, vô đạo đức mà nhà văn gọi là cải cách, văn minh, Âu hóa. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng vì thế mà có sức công phá mạnh mẽ.

   Song có lẽ đọc chương Hạnh phúc của một tang gia, ngoài những chân dung biếm họa trên, người đọc chắc hẳn không thể quên cảnh tượng trào phúng mà tác giả dựng lên. Mơ ước của con trai cụ cố tổ là cụ cố Hồng sẽ phải làm một đám ma thật to tát, một đám ma gương mẫu, một đám ma danh giá nhất bậc Hà thành. Chính vì vậy cảnh tượng đám ma trong tác phẩm là một trong những thành công xuất sắc của nghệ thuật trào phúng mà nhà văn đã dụng công miêu tả. Trước hết là cảnh đám tang. Có lẽ do sự mong ngóng từ lâu nên nó đã được chuẩn bị kĩ lưỡng. Từ tang phục đến đồ vật, phụ kiện cho tang lễ đều chuẩn bị hoành tráng, chu đáo và tươm tất. Chỉ cần nhìn bộ đồ đám tang cô Tuyết mặc là đủ biết nó được thiết kế “cầu kỳ, tinh xảo” đến mức như thế nào, mà cả gia đình ấy đều hứng khởi, vui mừng. Đồ vật chuẩn bị cho đám tang thì không đám nào có thể bì được. Kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, có đủ các loại kèn Ta, Tây, Tàu, có đến ba trăm vòng hoa… Đoàn người đi đưa đám kéo dài cả mấy con phố. Không khí của đám tang cũng đặc biệt. Không tiếng khóc, không lời xót thương, không giọt nước mắt nào nhưng lại đầy rẫy sự ồn ào, hỗn loạn. Đám đi đến đâu huyên náo đến đó, người dân hàng phố đổ ra xem rồi trầm trồ khen ngợi, thành thử người chết nằm trong quan tài cũng gật gù cái đầu và mỉm cười sung sướng. Cảnh tượng ấy đúng hơn là một đám rước, một đám hội, chứ không phải đám tang!

   Và rồi thời khắc đau thương, xót xa nhất cũng đã đến – lúc hạ huyệt. Đây là lúc mà người âm kẻ dương sẽ vĩnh viễn, mãi mãi chia lìa, không bao giờ gặp lại. Vậy mà cảnh hạ huyệt trong chương truyện lại được ví như một màn trò hề lố bịch. Cụ cố Hồng mếu máo rồi ngất đi. Cậu tú Tân trong bộ tang phục luộm thuộm cùng đám bạn bè nhảy hết lên mả này đến mả khác, bắt mọi người phải uốn éo, tạo dáng, khóc như này, khóc như kia để chụp ảnh. Nhưng có lẽ diễn viên làm tròn vai nhất phải là ông Phán mọc sừng. Ông cháu rể quý hóa ấy khóc quá, khóc nức nở, khóc oặt cả người nhưng thực ra là để trá hình cho một vụ thương thảo với Xuân Tóc Đỏ. Cảnh tượng ấy khiến người đọc cười ra nước mắt. Những trò hề đầy đốn mạt, mất hết nhân tính, tình người dưới ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đậm chất mỉa mai, châm biếm. Đến đây, chúng ta hiểu vì sao nhà văn lặp lại hai câu “Đám cứ đi…” trong lúc đưa tang. Cũng chẳng biết đây là đám ma hay đám gì nữa, nhưng đám cứ đi, cứ đi là đi đến cái huyệt để chôn sống hết những kẻ từ gia đình đến xã hội kia. Tiếng khóc Hứt! Hứt! Hứt! của Phán mọc sừng như thể là “Hất! Hất! Hất” tất cả xuống nấm mồ đó. Đám ma to tát, gương mẫu, danh giá nhất, cái gì cũng có nhưng lại thiếu cái quan trọng nhất, đó là Tình thương với người đã khuất. Sức tố cáo mạnh mẽ được khơi gợi lên từ những cảnh tượng đậm chất trào phúng độc đáo như thế này.

   Một trong những giá trị thành công của nghệ thuật trào phúng của tác phẩm thể hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu. Trong đoạn trích không ít lần người đọc bật cười vì những từ ngữ đậm chất mỉa mai, châm biếm mà Vũ Trọng Phụng sử dụng. Nổi bật có những từ như “cả nhà ấy nhao lên”, từ nhao lột tả rất chân thực cái biểu hiện về sự bất ngờ, sung sướng của đám con cháu khi nghe tin cụ cố tổ chết, nhưng đồng thời cũng lột tả được cái bản chất nhơ bẩn của bọn chúng. Hay trong một đám tang của gia đình danh giá bậc nhất Hà thành này điều quan trọng nhất là sự trang nghiêm, tôn kính, quy củ. Ấy vậy mà tác giả không ít lần dùng những từ ngữ như nhốn nháo, vui vẻ, huyên náo… để mô tả không khí của đám tang. Trong khi đó còn chưa kể đến cách dùng tử miêu tả chân dung nhân vật đạt đến mức độ mỉa mai cao nhất, như: cụ cố Hồng mơ màng, ông Văn Minh băn khoăn, bối rối, đăm đăm chiêu chiêu, cô Tuyết buồn lãng mạn… Thi thoảng nhà văn lại chua thêm một số câu văn đến người đọc cũng “nhột cả người”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm, Thật là đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu… Không chỉ là cảm giác cười hả hê, sung sướng, mà cười đến chảy nước mắt. Giọng điệu mỉa mai, chấm biếm “phủ sóng” khắp cả chương truyện. Không thể tưởng tượng một xã hội, một gia đình trong bối cảnh thời đại ấy lại có những biểu hiện mục nát, băng hoại đến mức độ như vậy.

   Không thể phủ nhận, Vũ Trọng Phụng có phần hơi gay gắt trong cách nhìn nhận đánh giá về hiện thực đời sống xã hội thành thị đương thời. Tuy nhiên với quan điểm nghệ thuật rất dứt khoát: tiểu thuyết phải là sự thật ở đời và ngòi bút trào phúng sắc lạnh, nhà văn đã đem đến cho người đọc những vết thương đã trở thành “ung nhọt” trong xã hội cần phải “chữa trị” gấp. Có nhiều người vẫn cho rằng: tuy Vũ Trọng Phụng không làm cách mạng nhưng cách mạng phải cảm ơn ông vì những cái nhìn hiện thực quá sâu sắc như vậy. Và nghệ thuật trào phúng chính là công cụ để giúp ông làm tốt điều này. Ông xứng đáng trở thành một trong những gương mặt nhà văn hiện thực tiêu biểu, xuất sắc của văn học giai đoạn 1930 – 1945.

Đề bài: Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc một tang gia của Vũ Trọng Phụng.

I. Mở bài

– Đôi nét về tác giả Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia: Một cây bút hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu của văn học nước ta trước Cách mạng tháng 8. Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tiểu thuyết hiện thực thành công của ông

– Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã được xây dựng thành công bởi nghệ thuật trào phúng đặc sắc

II. Thân bài

1. Nghệ thuật trào phúng là gì?

– Trào phúng : nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội.

– Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức truyện làm nổi bật mâu thuẫn đó

2. Nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích

   a. Mâu thuẫn trào phúng được xây dựng thành công

– Thể hiện ngay trong tựa đề:

    + “Tang gia”: nhà có đám, đáng ra với hoàn cảnh đó, không khí phải tràn ngập nhiều buồn tiếc

    + “Hạnh phúc”: Cảm xúc khi gặp chuyện nhiều niềm vui, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”

⇒ nhan đề chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng cười chua chát, kích thích trí tò mò của người đọc:

– Thể hiện trong niềm vui của những người trong gia đình và ngoài gia đình:

    + Nhà chuyện buồn nhưng mỗi nhân vật trong gia đình đều không giấu nổi niềm vui bởi mình sẽ đạt được mục đích khác nhau

    + Những người ngoài gia đình: Mừng vui vì được khoe mẽ, chim chuột, được xem đám ma to…

– Mâu thuẫn trào phúng xuyên suốt cảnh đám ma: một đám ma rất to, rất đông, được tiến hành rất trọng thể, đúng là một đám ma gương mẫu. Nhưng kỳ thực lại giống một đám hội, đám rước.

   b. Nhân vật trào phúng

– Cố Hồng: vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người, mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo ⇒ con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình

– Ông Văn Minh: thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lý thuyết viễn vông nữa.

– Bà Văn Minh: mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.

– Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết, cô cũng buồn nhưng là “buồn lãng mạn” vì không thấy người tình của mình

– Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến

– Ông Phán: Sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị.

– Xuân tóc đỏ: Hạnh phúc đặc biệt vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết, danh giá uy tín lại càng to hơn.

– Cảnh sát Min Đơ và Min Toa:“giữa lúc không có ai đáng bị phạt…đương buồn rầu…thì sung sướng cực điểm”.

– Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương

– Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chu ý vào những kiểu quần áo tang…

⇒ Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước, nhân vật trào phúng thể hiện rõ nét, ai cũng tìm thấy niềm vui trong đám tang đáng lẽ ra nên buồn thương

   c. Cảnh tượng trào phúng

– Cảnh đưa đám:

    + Chậm chạp và nhốn nháo

    + Các loại kèn ta, Tây , Tàu lố lăng

    + Người đi đám nói chuyện bàn tán

    + Điệp khúc “Đám cứ đi”

– Cảnh hạ huyệt:

    + Cậu Tú bắt mọi người tạo dáng chụp ảnh

    + Cụ cố Hồng: tỏ ra chí hiếu nhưng lại lộ sự giả dối

    + Phán mọc sừng khóc oặt người đi nhưng lại giúi vào tay Xuân tờ 5 đồng rồi lại khóc oặt người đi

⇒ Càng thể hiện rõ sự “trào phúng” của đoạn trích

III. Kết bài

– Khẳng định nghệ thuật trờ phúng đã được thể hiện thành công trong đoạn trích

– Nghệ thuật trào phúng góp phần phơi bày những hợm hĩnh, lố lăng, bịp bợm của xã hội tượng lưu.

    Vũ Trọng Phụng không chỉ được biết đến là “ông vua phóng sự đất Bắc” mà còn được biết đến là một nhà tiểu thuyết hiện thực đại tài. Dù thời gian sáng tác ít ỏi, nhưng ông đã để lại cho văn học Việt Nam hiện đại những tác phẩm xuất sắc: Giông tố, Số đỏ, Kĩ nghệ lấy tây, … Các tác phẩm của ông thường đi sâu phân tích, khám phá những mâu thuẫn trong đời sống, phê phán lối sống giả dối của xã hội thượng lưu đương thời thông qua nghệ thuật trào phúng đặc sắc. Tất cả những đặc điểm đó đã được phán ánh trong đoạn trích: Hạnh phúc một tang gia trích từ tiểu thuyết Số đỏ.

    Trước hết ta cần hiểu nghệ thuật trào phúng là gì? Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật tạo nên những mâu thuẫn, tạo nên những tiếng cười mang tính chất đả kích, châm biếm sâu cay những hiện tượng đáng cười trong xã hội, từ đó tạo nên tiếng cười mang dụng ý phê phán và lên án xã hội.

    Trước hết nghệ thuật trào phúng được thể hiện ở mâu thuẫn trào phúng. Mẫu thuẫn này đã được bộ lộ ngay từ nhan đề của tác phẩm. Hạnh phúc vốn là khái niệm chỉ trạng thái tâm lí vui sướng, hân hoan khi đạt được điều gì đó. Còn tang gia vốn là một nỗi buồn, nỗi đau cho các thành viên trong gia đình cũng như người xung quanh. Còn trong trường hợp này, tang gia lại trở thành niềm vui, sự hạnh phúc cho tất cả mọi người.

    Cả gia đình cụ cố Hồng đều cho sự sống của cụ cố tổ là bất thường, bởi cụ đã sống quá lâu, số tài sản mà họ mong ngóng mãi không thể nhận được. Bởi vậy, việc Xuân Tóc Đỏ làm cho cụ cố tổ tức chết đã làm mãn nguyện tất cả những thành viên trong gia đình, từ đây tài sản kếch xù mà họ nhòm ngó bấy lâu nay sẽ được chia. Trong niềm vui chung được nhận gia sản, mỗi người họ lại có những niềm vui riêng, niềm vui của họ quả là muôn màu, muôn vẻ. Cụ cố Hồng hám danh, thích khoe mẽ, thì đây chính là cơ hội để cụ được mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy để cho người ta khen: “úi kìa, con gia nhớn đã già thế kia à”, để người ta thấy phúc phận mà người chết được hưởng. Vợ chồng Văn Minh và TYPN thì lại sung sướng khi có thể biến đám tang thành sàn diễn thời trang, lăng xê những mẫu quần áo mới nhất của họ. Còn ông Phán mọc sừng nhận ra giá trị lớn đôi sừng trên đầu, vì đôi sừng đó mà lão nhận thêm được vài nghìn trong số gia sản tiền đền bù danh dự. Cô Tuyết ngây thơ được trưng diện những bộ đồ hở hang, “ngây thơ” chứng tỏ mình còn trong trắng. Riêng với cậu Tú Tân, cậu sẽ được đem chiếc máy ảnh vào thực hành. Không chỉ vậy, những kẻ ngoài gia đình cũng tìm được hạnh phúc cho mình: Min Đơn Min Toa đang thất nghiệp bỗng có việc làm; bàn bè cụ cố có dịp khoe huân chương đầy ngực,… Ngoài ra mâu thuẫn trào phúng còn phải kể đến Xuân Tóc Đỏ: hắn là người gây ra cái chết của cụ cố, vốn có tội lại thành có công, sự vắng mặt của Xuân khiến cho tất thảy mọi người phải lo lắng: “Thiếu ông đốc tờ Xuân là thiếu tất cả, những ông thầy thuốc chính hiệu đã thất bại hoàn toàn”. Như vậy một gia đình tự gán cho mình cái mác văn minh, một xã hội âu hóa nhưng đều là những kẻ bất hiếu, độc ác, đây là xã hội lố lăng, không có chút tình người.

    Không chỉ vậy, để tô đậm chất trào phúng trong đoạn trích, Vũ Trọng Phụng đã lựa chọn những chi tiết đắt giá, đầy ấn tượng. Đó là cảnh đám ma đông vui, ồn ã như một đám hội. Đám ma đó là sự kết hợp lố lăng, Tây – Tàu – Ta lẫn lộn, người đi rước chẳng chút buồn thương, họ không hề quan tâm đến người chết. Kẻ thì nói chuyện chồng con, hàng xóm, kẻ thì tận dụng cơ hội để chim chuột nhau,… “đám cứ đi” và tiếp tục câu chuyện của mình. Điệp từ “đám cứ đi” được lặp đi lặp lại nhiều lần cho thấy sự giả tạo, đi chậm lại không phải quyến luyến, tiếc thương mà là để cố khoe sự giàu có, hào nhoáng của gia đình, của đám tang.

    Quay đến cận cảnh, Vũ Trọng Phụng hướng ngòi bút vào cậu Tú Tân đang hò hét, la ó mọi người đứng tư thế sao cho đẹp nhất để cậu chụp ảnh, người phải chống gậy, kẻ phải gục đầu, người phải lau nước mắt,… ; bà Văn Minh sốt ruột,… cụ cố Hồng mếu máo, khóc ngất đi; còn ông Phán mọc sừng trong lúc đau đớn khóc oặt cả người vẫn tận dụng cơ hội để tạo ra một cuộc mua bán, trao đổi chóng vánh với Xuân Tóc Đỏ, tờ năm đồng được gấp làm tư, nhanh chóng đưa vào tay Xuân Tóc Đỏ cùng với đó là niềm hi vọng sẽ có cơ hội hợp tác ở những lần khác hiệu quả hơn nữa. Họ quả là những kẻ diễn viên đại tài.

    Ngoài ra còn phải kể đến ngôn ngữ trào phúng, phóng đại bậc thầy. Vũ Trọng phụng rất tinh tế khi sử dụng các từ ngữ gây cười, từ cách gọi tên sự vật: lợn quay đi lọng, lốc bốc xoảng, bú dích,… đến cách đặt tên các nhân vật: TYPN, Min Đơ, Min Toa, ông Phán mọc sừng, sư cụ Tăng Phú… đều diễn đạt một cách ý nhị thái độ châm biếm của ông. Những hình ảnh so sánh vi von hài hước: Cảnh sát không được biên phạt buồn như nhà buôn vỡ nợ; Từ chối việc chạy chữa như những vị danh y biết tự trọng… diễn tả chính xác bản chất nhân vật và sự thối nát của xã hội. Hình ảnh đậm tính chất trào phúng: “Tuyết đi mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt nhà có đám”,… Giọng văn đậm chất châm biếm: Thật là một đám ma to tát ; Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm… Tất cả những yếu tố nghệ thuật đó đã tạo nên giá trị mỉa mai sâu cay, đặc sắc, tố cáo, vạch trần sự giả dổi, đểu cáng trong nhân cách của những kẻ giàu có trong xã hội đương thời.

    Bằng bút pháp trào phúng đặc sắc, giọng điệu châm biếm, trào phúng sâu cay Vũ Trọng Phụng đã vô cùng thành công khi vạch trần bộ mặt xã hội giả dối, bất nhân. Tiếng cười bật lên vừa hỏm hỉnh vừa sắc sảo, qua đó thể hiện thái độ coi thường, kinh bỉ cái xã hội âu hóa lố lăng, tầng lớp thị dân lố bịch đương thời.

   Nếu như trong thời kì văn học trung đại ta được biết đến nghệ thuật trào phúng qua những sáng tác thơ ca của cụ Tam nguyên Yên Đổ-Nguyễn Khuyến hay Tú Xương thì trong nền văn học Việt Nam hiện đại nó lại được thể hiện xuất sắc trong thể loại tiểu thuyết với tác phẩm “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng-ông thầy trào phúng. Tiêu biểu là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” thể hiện thành công nghệ thuật trào phúng qua các khía cạnh như: tình huống, nhân vật, chi tiết nghệ thuật đặc sắc đã tái hiện lại bức tranh xã Việt Nam lúc bấy giờ.

   Nghệ thuật trào phúng là gì? Nghệ thuật trào phúng trong văn học là sáng tác sử dụng tiếng cười để châm biếm, đả kích thói hư tật xấu trong xã hội qua đó thể hiện thái độ của người viết là chê bai, phê phán hay răn bảo mang ý nghĩa giáo dục. Nó đòi hỏi nhà văn trào phúng tài năng phải phát hiện và xây dựng tình huống mẫu thuẫn, chân dung và chi tiết trào phúng đặc sắc.

   “Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết làm nên thành công nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng. Câu chuyện kể về nhân vật chính là Xuân tóc đỏ một kẻ bị coi là hạ lưu nhưng bằng lời nói dối ngọt ngào và thủ đoạn mưu mô đã nhảy lên được tầng lớp thượng lưu danh giá của xã hội Âu hóa lúc bấy giờ. Qua đó nhà văn phê phán những con người nhố nhăng trong xã hội đang buổi giao thời Đông Tây lũng loạn.

   “Hạnh phúc của một tang gia” là lời tựa đề chương XV trong “Số đỏ”. Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật trào phúng sắc sảo trong đám tang của cụ cố Hồng. Nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua các phương diện sau:

   Thứ nhất trào phúng ngay trong nhan đề của đoạn trích. “Hạnh phúc của một tang gia”. Hạnh phúc là trạng thái cảm xúc sung sướng khi thỏa mãn được mong muốn. Tang gia là gia đình có người qua đời. Xưa nay tang gia phải là đau khổ, buồn bã bao phủ lên là không khí bi thương, sầu não, lệ nhòa. Gia đình có người mất phải khóc lóc, thương tâm vậy mà ở đây lại trái ngược hoàn toàn. Tang gia mà lại hạnh phúc. Cái chết đem đến cho cả dòng họ một niềm vui vỡ òa. Nhan đề đã thể hiện nét trào phúng rõ rệt, nó đi ngược lại với lẽ tự nhiên, nó khiến cho con người ta bất ngờ, tò mò muốn tìm hiểu bởi sự mâu thuẫn khác thường và lôi cuốn.

   Thứ hai: trào phúng trong chân dung các nhân vật. Tang gia mà từ con cái, cháu chắt người trong người ngoài đều vui mừng. Bởi đối với họ ai nấy cũng cảm thấy đây là một dịp may hiếm có, một cơ hội đặc biệt để thỏa mãn ý muốn của mỗi người. Cái chết ấy đồng nghĩa với tờ di chúc sẽ được đi vào thực thi chứ không còn là những dòng chữ trên tờ giấy. Tất cả mọi người sẽ sung sướng vì được chia tài sản, đó là hạnh phúc của tiền bạc danh lợi chứ không phải là tình cảm thương xót chân thành của người thân yêu dành cho người đã khuất. Là người lớn tuổi nhất ở gia đình trong hoàn cảnh bố mất, thi hài còn đang nằm dưới nhà mà cụ cố Hồng vẫn nằm trên gác “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa””. Đối với ông ta đám tang này là một cơ hội để khoe danh khoe của chứ không phải là tình thương của người con dành cho bố.

   Cái chết của cụ cố Tổ làm cho nhiều người sung sướng trong đó hả hê nhất là ông Phán mọc sừng: “ông đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia thêm một số tiền vài trăm nghìn đồng” bởi chính đôi sừng vô hình trên đầu ông ta làm cho cụ tổ uất ức mà chết, niềm vui ấy chạy trong từng mạch máu thế mà đến phút giây cuối cùng khi vĩnh biệt người chết lại khóc “Hứt hứt” oặt người đi. Ngay trong tên gọi “Phán mọc sừng” cũng đã thấy sự mỉa mai, châm biếm không hề nhẹ. Tại sao Vũ Trọng Phụng không gọi là Phán bị cắm sừng mà lại là mọc sừng? Đó là một dụng ý nghệ thuật. Bởi con người ta có thêm đôi sừng vô hình trên đầu là ý nói về việc bị người yêu hoặc vợ ngoại tình. Đây là một điều không ai mong muốn xảy ra nhưng đối với ông Phán là ông mọc sừng tức thể hiện sự tự nguyện và ông lấy làm hãnh diện nên đã làm ngay với Xuân một cuộc doanh thương trước đó chỉ để quảng bá về đôi sừng của mình.

   Ông Văn Minh-cháu nội đích tôn hớn hở mời luật sư đến vì cái chúc thư không còn là lí thuyết viển vông nữa. Hắn vò đầu bứt tóc với điệu bộ bối rối phù hợp với tang gia nhưng thực chất là đang không biết đối xử với Xuân thế nào cho phải trước hai cái tội nhỏ, một cái ơn to. Nhà văn đã vạch trần bộ mặt giả dối bất nhân bất nghĩa bất hiếu của nhân vật.

   Bà Văn Minh thì suốt ruột vì mãi không được mặc bộ xô gai tân thời. Đối với cô Tuyết đây là dịp để trưng diện “bộ y phục Ngây thơ-cái áo dài voan mỏng, trong có cooc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú- nhưng mà viền đen và đội mũ mấn xinh xinh” và để chứng minh cho thiên hạ là cô chưa đánh mất cả chữ trinh mà vẫn còn một nửa. Cậu Tú Tân thì điên người lên vì hào hứng “đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến” đám tang là dịp để cậu thực hiện sở thích nghệ thuật của mình. Đúng là một lũ con cháu bất hiếu không có tình người, một đám người của một gia đình lố lăng. Mỗi người chỉ bằng một vài nét chấm phá mà tất cả đều hiện lên thật sống động. Tất cả những con người ấy trong gia đình ấy là một xã hội thu nhỏ với những thói hư tật xấu tập trung hết ở đây.

   Chân dung của những người ngoài gia đình dù chẳng được hưởng lợi lộc gì từ tài sản nhưng cũng vui mừng không kém. Đó là sự vui vẻ ra mặt của hai cảnh sát min đơ và min toa đang thất nghiệp lại kiếm lời từ một cái chết. Đó là Xuân tóc đỏ mưu mô quỷ kế giết được cụ cố Tổ lại đến dự đám tang với một vòng hoa khiến cho mọi người phải thán phục. Đó còn là bạn bè của cụ cố Hồng và sư cụ tăng phú được dịp phô diễn huân chương và khoe mẽ tài năng. Quả thực đây là “một đám ma to làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng”. Qua đó Vũ Trọng Phụng lên án xã hội không có tình người, mất đi giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

   Thứ ba: trào phúng qua các chi tiết nghệ thuật đắt giá trong đám tang. Với cảnh chuẩn bị đám tang của cụ cố là ngày hội của gia đình và làng xóm. Người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, náo nức gọi phường kèn, tíu tít thuê xe đám và sốt ruột khi chưa thấy phát tang. Không khí đám tang như đám rước hội “Kèn Tây, kèn Ta, kèn Tàu lần lượt tahuy nahu mà rộn lên”, thành phần đưa đám đầy đủ cả từ già đến trẻ, từ cảnh sát đến sư sãi, từ thằng lưu manh giả nhà cải cách xã hội cho đến nhà thiết kế thời trang…Đưa đám là quãng thời gian mặc niệm để đưa người chết về nơi an nghỉ cuối cùng vậy mà trong lúc nà, ở nơi này “họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau..” mặt người vẻ buồn rầu hợp với người đi đưa nhưng trong thâm tâm của họ không một chút thương tiếc cho người đã khuất. Nhà văn như nhà quay phim tài ba lia ống kính quay chậm từng cảnh, từng người, từng gương mặt, từng trái tim trong đám tang. Đặc biệt ở cảnh hạ huyệt là lúc các nhân vật thể hiện vai diễn của mình xuất sắc nhất, diễn nhập vai là tang gia nhất. Cậu Tú Tân bắt bẻ từng người hoặc chống gậy hoặc còng lưng hoặc lau nước mắt thế nọ thế kia để chụp ảnh làm kỉ niệm. Bạn bè thì rầm rộ nhảy lên những đống mả khác mà chụp để ảnh khỏi giống nhau. Chỉ với chi tiết nho nhỏ này nhưng có giá trị to lớn nó làm rõ hơn mục đích đến đám tang của những người đưa đám. “Cụ cố Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi”. Ông Phán khóc oặt người mãi không thôi nhưng vẫn không quên dúi vào tay Xuân tờ năm đồng bạc gấp làm tư để trả công hắn ta đã giết được cụ tổ. Ông tỏ ra mình là một người giữ chữ tín. Kẻ bất lương đeo mặt nạ của một người con có hiếu được tác giả dùng ngòi bút lột tả sạch sẽ. Đằng sau đó là sự thô bỉ đến vô liêm sỉ của giới thương lưu trong xã hội tư sản thành thị thực dân nửa phong kiến. Màn hài kịch được miêu tả thật sinh động, hóm hỉnh đem đến cho người đọc cảm xúc vừa cười vừa buồn. Cười vì sự bịp bợp, sảo trá, ngụy trang đến thành thục. Buồn vì cách ứng xử của con người lúc bấy giờ chỉ biết chạy theo vật chất và giá trị văn hóa vớ vẩn.

   Bản thân sâu thẳm bên trong mỗi con người là cái khó nắm bắt, khó khám phá nhất nhưng bằng ngòi bút trào phúng tài năng, lối khắc họa chân thực từng chân dung nhân vật, Vũ Trọng Phụng đã lột tả được lối sống Tây hóa của tầng lớp tư sản. Có thể nói ông là cây bút trào phúng bậc thầy về sự thật với tuyên ngôn văn học đáng kính: “Các ông muốn cuốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn có cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời (…) Các ông muốn theo tiểu thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thực, thành ra nguy hiểm, vì sự thực mất lòng”. Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là một trong những sự thật lúc bấy giờ được nhà văn tái bút thành công với nghệ thuật trào phúng.

   Vũ Trọng Phụng là cây bút bậc thầy của nghệ thuật trào phúng. Vốn sẵn cái tài tình, cái sắc lạnh của một ông vua phóng sự Bắc kì, ông dường như được thỏa sức trong thế giới nghệ thuật ấy. Và Số đỏ là một minh chứng cho những sáng tạo không mệt mỏi của ông. Tác phẩm là đỉnh cao trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng, mà trong đó nếu coi thiên truyện là một màn đại hài kịch về xã hội thượng lưu thành thị trước Cách mạng tháng Tám 1945 thì chương truyện thứ XV, với cái tên độc đáo Hạnh phúc của một tang gia là một màn hài kịch đặc sắc nhất. Ở đó, tất thảy những giá trị của nghệ thuật trào phúng được nhà văn thể hiện một cách xuất sắc nhất.

    Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật gây cười nhằm đả kích, châm biếm những hiện tượng xấu xa trong đời sống xã hội. Nó được biểu hiện qua việc xây dựng những mâu thuẫn trào phúng, nhân vật trào phúng, cảnh tượng trào phúng, ngôn ngữ trào phúng, giọng điệu trào phúng… Trong tác phẩm Số đỏ nói chung và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nói riêng, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã tạo nên chất trào phúng dựa trên những yếu tố đó, thậm chí còn đạt đến đỉnh cao.

    Trong chương truyện Hạnh phúc của một tang gia, mâu thuẫn trào phúng được thể hiện qua nhan đề và tình huống trào phúng. Chắc hẳn người đọc không khỏi bất ngờ, tò mò và buồn cười vì cái tên chương truyện có một không hai này. Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc sung sướng, vui mừng khi đạt được điều mình mong muốn, còn tang gia là thời khắc đau buồn, xót thương vì trong gia đình có người thân qua đời. Hai thứ vốn hoàn toàn đối lập, không thể đi liền với nhau, vậy mà giờ đây nó lại còn được đặt trong mối quan hệ sở hữu qua từ của. Trong tang gia lại có hạnh phúc, hay hạnh phúc xuất phát từ tang gia. Điều này thật nghịch lý, trớ trêu và quá hài hước. Nhưng đó lại là sự thật và không hề vô lý chút nào, khi câu văn mở đầu cho chương truyện được cất lên: Ba hôm sau cụ già chết thật. Người chết theo quy luật sinh lão bệnh tử cũng là lẽ thường tình. Vậy mà sao nhà văn lại dùng từ thật? Nghĩa là cụ già ấy đã từng chết giả? Nghe thật nực cười, nhưng đúng là như vậy, sau nhiều lần ốm thập tử nhất sinh, đám con cháu trong gia đình lo toan hết ông lang băm đến ông lang tây, thuốc nọ thuốc kia… mà cuối cùng ông cụ vẫn chưa chết. Bởi chúng đang mong ngóng từng ngày cụ từ giã cõi đời để còn được chia chác cái gia tài kếch xù. Vậy nên chúng vô cùng bất ngờ và mừng rỡ vì hôm nay cụ chết thật sau ba ngày chạy chữa. Cái chết ấy làm cho nhiều kẻ sung sướng lắm! Nhan đề và tình huống ấy đã tạo nên cái chất trào phúng vô cùng độc đáo. Người thân lại vui mừng, phấn khởi khi trong nhà có tang!

    Và thế là bao nhiêu bộ mặt giả dối của đám con cháu trong gia đình thượng lưu bậc nhất đất Hà thành ấy được nhà văn khắc họa đầy mỉa mai, châm biếm trong đám tang của cụ cố tổ. Mở màn là cụ cố Hồng – con giai nhớn của người mất. Ở địa vị này, ông ta phải là người đau buồn nhất, vì người cha đã không còn. Ông tỏ ra “buồn đau” thật khi mơ màng nghĩ đến cảnh tượng mặc đồ xô gai, miệng ho khạc, mếu máo, được dân tình bàn tán: “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”. Trong cơn bối rối vì cha mất, ông không thể kiềm chế được mà hút đến sáu mươi điếu thuốc phiện, nói một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu: “Biết rồi khổ lắm nói mãi”. Kẻ luôn tự nhận “trên thông thiên văn, dưới tường địa lí” ấy thực chất chả biết cái gì. Ngày cha mất, ông ta hiện ra nguyên hình chân tướng của một kẻ háo danh, bất hiếu. Tiếp đến là ông Văn Minh, con trai cụ cố Hồng và là cháu trưởng của người mất. Cái vẻ đăm đăm chiêu chiêu rất hợp với gia đình có tang ấy lại không phải là nỗi buồn, mà Văn Minh còn bao nhiêu nỗi bối rối cần giải quyết. Ông ta sốt ruột vì sao luật sư còn chưa đến để chuyển cái chúc thư kia từ thời kì lý thuyết sang thực hành. Ông ta băn khoăn vì không biết xử trí thế nào với Xuân Tóc Đỏ kẻ có hai cái tội nhỏ là tố cáo tội hoang dâm của một người em gái ông và quyến rũ một người em gái khác của ông nhưng lại có một cái ơn to vì câu nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng” khiến cho ông cụ chết thật. Đám con cháu còn lại kẻ thì sốt ruột, la ó như bà Văn Minh vì chưa được phát tang để trưng diện những mốt tang phục của tiệm may Âu Hóa, kẻ thì phát điên người lên như cậu Tú Tân vì chưa được sử dụng những chiếc máy ảnh, kẻ thì buồn lãng mạn như cô Tuyết trong bộ dạng thất thần với bộ cánh Ngây thơ hở hang nhưng là mong ngóng người tình Xuân Tóc Đỏ mãi không đến, kẻ thì vô liêm sỉ đến mức tự hào vì cái sừng hươu vô hình trên đấu lại đáng giá vài nghìn bạc như ông Phán mọc sừng… Ai cũng có nỗi buồn riêng mà thành ra lại hợp mốt với nhà có tang. Nhưng rõ ràng Vũ Trọng Phụng đã dùng ngòi bút trào phúng đầy mỉa mai của mình để lột tả cái bản chất tàn nhẫn, bất hiếu, vô đạo đức bên trong được che lấp bởi cái vỏ bên ngoài quá giả tạo. Chân dung những kẻ trong gia đình thượng lưu ấy đã góp phần quan trọng làm cho nghệ thuật trào phúng của chương truyện thành công.

    Chưa dừng lại ở đó, ngòi bút trào phúng của nhà văn như con dao sắc lạnh, nó còn lia xa hơn, rộng hơn. Không chỉ những đám con cháu trong tang quyến, mà cả những người đến dự cũng được miêu tả một cách đầy mỉa mai. Có hai tên cảnh sát Min Đơ và Min Toa lại sướng điên người vì được thuê giữ trật tự đám ma khi đang thất nghiệp. Có ông Typn nhà thiết kế tiệm may Âu hóa bực bội vì sự chậm chễ trong việc phát tang khiến những bộ sưu tập tang phục của ông chưa được ra mắt công chúng. Có đám bạn ông cụ cố Hồng đầy những râu, những huân huy chương và cũng đầy xao xuyến, não nùng như điệu nhạc Xuân Nữ khi nhìn thấy làn da trắng thập thò dưới cánh tay và ngực cô Tuyết. Có sư cụ Tăng Phú xuất hiện như một ngôi sao đầy kiêu hãnh vì vừa lật đổ được hội phật giáo, đi cùng với cố vấn báo Gõ Mõ là Xuân Tóc Đỏ – kẻ gây ra cái chết của cụ cố tổ lại được đón tiếp nồng hậu. Cả đám giai thanh gái lịch bạn cô Tuyết đi dự đám tang như đi trẩy hội, tán tỉnh, chọc ghẹo… nhau một cách hồn nhiên. Tuy miêu tả nhiều nhân vật, nhưng nhà văn Vũ Trọng Phụng dường như không bỏ sót một nhân vật nào. Ai cũng hiện lên với những nét chân dung điển hình nhất. Điều ấy vừa cho thấy cái tài của nhà văn vừa thể hiện sức phản ánh hiện thực mạnh mẽ của tác phẩm. Không chỉ đám con cháu trong gia đình mà đến những kẻ ngoài xã hội cũng cùng một ruộc. Tất cả bọn chúng tạo nên một xã hội dị hợm, nhố nhăng, đồi bại, vô đạo đức mà nhà văn gọi là cải cách, văn minh, Âu hóa. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng vì thế mà có sức công phá mạnh mẽ.

    Song có lẽ đọc chương Hạnh phúc của một tang gia, ngoài những chân dung biếm họa trên, người đọc chắc hẳn không thể quên cảnh tượng trào phúng mà tác giả dựng lên. Mơ ước của con trai cụ cố tổ là cụ cố Hồng sẽ phải làm một đám ma thật to tát, một đám ma gương mẫu, một đám ma danh giá nhất bậc Hà thành. Chính vì vậy cảnh tượng đám ma trong tác phẩm là một trong những thành công xuất sắc của nghệ thuật trào phúng mà nhà văn đã dụng công miêu tả. Trước hết là cảnh đám tang. Có lẽ do sự mong ngóng từ lâu nên nó đã được chuẩn bị kĩ lưỡng. Từ tang phục đến đồ vật, phụ kiện cho tang lễ đều chuẩn bị hoành tráng, chu đáo và tươm tất. Chỉ cần nhìn bộ đồ đám tang cô Tuyết mặc là đủ biết nó được thiết kế “cầu kỳ, tinh xảo” đến mức như thế nào, mà cả gia đình ấy đều hứng khởi, vui mừng. Đồ vật chuẩn bị cho đám tang thì không đám nào có thể bì được. Kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, có đủ các loại kèn Ta, Tây, Tàu, có đến ba trăm vòng hoa… Đoàn người đi đưa đám kéo dài cả mấy con phố. Không khí của đám tang cũng đặc biệt. Không tiếng khóc, không lời xót thương, không giọt nước mắt nào nhưng lại đầy rẫy sự ồn ào, hỗn loạn. Đám đi đến đâu huyên náo đến đó, người dân hàng phố đổ ra xem rồi trầm trồ khen ngợi, thành thử người chết nằm trong quan tài cũng gật gù cái đầu và mỉm cười sung sướng. Cảnh tượng ấy đúng hơn là một đám rước, một đám hội, chứ không phải đám tang!

    Và rồi thời khắc đau thương, xót xa nhất cũng đã đến – lúc hạ huyệt. Đây là lúc mà người âm kẻ dương sẽ vĩnh viễn, mãi mãi chia lìa, không bao giờ gặp lại. Vậy mà cảnh hạ huyệt trong chương truyện lại được ví như một màn trò hề lố bịch. Cụ cố Hồng mếu máo rồi ngất đi. Cậu tú Tân trong bộ tang phục luộm thuộm cùng đám bạn bè nhảy hết lên mả này đến mả khác, bắt mọi người phải uốn éo, tạo dáng, khóc như này, khóc như kia để chụp ảnh. Nhưng có lẽ diễn viên làm tròn vai nhất phải là ông Phán mọc sừng. Ông cháu rể quý hóa ấy khóc quá, khóc nức nở, khóc oặt cả người nhưng thực ra là để trá hình cho một vụ thương thảo với Xuân Tóc Đỏ. Cảnh tượng ấy khiến người đọc cười ra nước mắt. Những trò hề đầy đốn mạt, mất hết nhân tính, tình người dưới ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đậm chất mỉa mai, châm biếm. Đến đây, chúng ta hiểu vì sao nhà văn lặp lại hai câu “Đám cứ đi…” trong lúc đưa tang. Cũng chẳng biết đây là đám ma hay đám gì nữa, nhưng đám cứ đi, cứ đi là đi đến cái huyệt để chôn sống hết những kẻ từ gia đình đến xã hội kia. Tiếng khóc Hứt! Hứt! Hứt! của Phán mọc sừng như thể là “Hất! Hất! Hất” tất cả xuống nấm mồ đó. Đám ma to tát, gương mẫu, danh giá nhất, cái gì cũng có nhưng lại thiếu cái quan trọng nhất, đó là Tình thương với người đã khuất. Sức tố cáo mạnh mẽ được khơi gợi lên từ những cảnh tượng đậm chất trào phúng độc đáo như thế này.

    Một trong những giá trị thành công của nghệ thuật trào phúng của tác phẩm thể hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu. Trong đoạn trích không ít lần người đọc bật cười vì những từ ngữ đậm chất mỉa mai, châm biếm mà Vũ Trọng Phụng sử dụng. Nổi bật có những từ như “cả nhà ấy nhao lên”, từ nhao lột tả rất chân thực cái biểu hiện về sự bất ngờ, sung sướng của đám con cháu khi nghe tin cụ cố tổ chết, nhưng đồng thời cũng lột tả được cái bản chất nhơ bẩn của bọn chúng. Hay trong một đám tang của gia đình danh giá bậc nhất Hà thành này điều quan trọng nhất là sự trang nghiêm, tôn kính, quy củ. Ấy vậy mà tác giả không ít lần dùng những từ ngữ như nhốn nháo, vui vẻ, huyên náo… để mô tả không khí của đám tang. Trong khi đó còn chưa kể đến cách dùng tử miêu tả chân dung nhân vật đạt đến mức độ mỉa mai cao nhất, như: cụ cố Hồng mơ màng, ông Văn Minh băn khoăn, bối rối, đăm đăm chiêu chiêu, cô Tuyết buồn lãng mạn… Thi thoảng nhà văn lại chua thêm một số câu văn đến người đọc cũng “nhột cả người”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm, Thật là đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu… Không chỉ là cảm giác cười hả hê, sung sướng, mà cười đến chảy nước mắt. Giọng điệu mỉa mai, chấm biếm “phủ sóng” khắp cả chương truyện. Không thể tưởng tượng một xã hội, một gia đình trong bối cảnh thời đại ấy lại có những biểu hiện mục nát, băng hoại đến mức độ như vậy.

    Không thể phủ nhận, Vũ Trọng Phụng có phần hơi gay gắt trong cách nhìn nhận đánh giá về hiện thực đời sống xã hội thành thị đương thời. Tuy nhiên với quan điểm nghệ thuật rất dứt khoát: tiểu thuyết phải là sự thật ở đời và ngòi bút trào phúng sắc lạnh, nhà văn đã đem đến cho người đọc những vết thương đã trở thành “ung nhọt” trong xã hội cần phải “chữa trị” gấp. Có nhiều người vẫn cho rằng: tuy Vũ Trọng Phụng không làm cách mạng nhưng cách mạng phải cảm ơn ông vì những cái nhìn hiện thực quá sâu sắc như vậy. Và nghệ thuật trào phúng chính là công cụ để giúp ông làm tốt điều này. Ông xứng đáng trở thành một trong những gương mặt nhà văn hiện thực tiêu biểu, xuất sắc của văn học giai đoạn 1930 – 1945.

   Là một nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện thực phê phán, Vũ Trọng Phụng không chỉ là Ông vua phóng sự Bắc mà còn là một cây bút trào phúng đặc sắc nhất. Mỗi chương trong tác phẩm là một màn hài kịch. Chương XV Hạnh phúc một tang gia là màn hài kịch tiêu biểu.

    Hiệu quả trào phúng của đoạn trích Hạnh phúc một tang gia tạo lên bởi sự phát huy hiệu quả của hàng loạt các yếu tố trào phúng: mâu thuẫn trào phúng, những chân dung trào phúng. Những lời văn, giọng điệu trào phúng. Không có chi tiết nào không hướng tới mục đích bóc trần những sự lố lăng trong tang gia tràn trề hạnh phúc này.

    Để dàn dựng màn hài kịch nhà văn trước hết đã phát hiện ra mâu thuẫn trào phúng. Mâu thuẫn trào phúng trong chương truyện này được gợi ra trước hết ở cái tên của nó: Hạnh phúc một tang gia. Tang gia và hạnh phúc là hai căn từ ngữ đối nhau. Nói đến tang gia là nói đến một gia đình vừa có người thân mất. Theo quy luật tâm lí thông thường hẳn tang gia phải bao trùm cái không khí khổ đau, sầu thương não nề bởi mỗi khi một ngọn nến đời tắt đi là đề bao vết thương cho người sống. Vậy mà trong tang gia của một gia đình được xem là danh giá nhất Hà thành, trước cái chết của một người ông, người cha (cụ tổ) chẳng đứa con cháu nào của cụ sầu não, tiếc thương cả. Trái lại, cái chết ấy như đã đem đến một nguồn hạnh phúc to lớn không nén nổi cứ tuôn ra, trào ra.

    Tang gia mà hạnh phúc. Đó là chuyện là đời nhưng lại có thật. Vì sao cái chết của cụ tổ lại là hạnh phúc của cái tang gia đại bất hiếu này? Ấy là vì cụ tổ có một gia tài kếch xù. Bao ngày lũ con cháu hau háu trông đợi phần mình. Cụ cố Hồng chưa có dịp tỏ ra sự rộng rãi và biết điều của mình đối với bầy con trai, con gái, dâu, rể… Họ từng muốn giết chết cụ bằng bài thuốc Thánh nhưng cụ vẫn chưa chịu chết. Bây giờ mơ ước trở thành sự thực lẽ nào họ không vui. Đúng như Vũ Trọng Phụng nhận xét: Tang gia ấy ai ai cũng vui vẻ cả hoặc cái chết ấy làm cho nhiều người sung sướng lắm.

    Mâu thuẫn trào phúng không chỉ thể hiện ở tâm trạng mong cụ tổ chóng chết hay ở không khí chuẩn bị tang lễ mà còn thể hiện rõ nét ở hình thức tổ chức đám tang. Có thể nói âm điệu bi thương lẽ ra phải có ở một đám tang đã bị thay thế bằng âm điệu náo nức phấn khởi. Nhà văn đã nêu lên một giả định có ý châm biếm chua chát: Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Quả là ở thời buổi nhố nhăng này người ta đã quen sống trong sự lừa dối, rất thích lửa dối và thật sự hài lòng khi bị lừa dối.

    Trong màn hài kịch này còn có một chi tiết đặc sắc nữa tô đậm mâu thuẫn trào phúng đà nói. Đó là khi cụ tổ chết, người ta quan tâm việc mai táng cái xác chết ấy thì ít mà lo lắng bàn bạc việc chôn cái xác sống của cô Tuyết cùng cái tiếng hư hỏng của cô thì nhiều. Đám tang bị trì hoãn là vì thế. Người ta còn bận thu xếp cho êm ả chuyện cô tiểu thư hư hỏng, còn bận bịt tiếng xấu xa có thể làm tổn hại đến danh giá tang gia.

    Trong khi quan tâm tô đậm mâu thuẫn trào phúng, Vũ Trọng Phụng còn đồng thời vẽ lên nhiều bức chân dung trào phúng đặc sắc.

    Trước hết là cụ cố Hồng với câu nói cửa miệng: Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Xưa nay cụ mới chỉ được diễn trò già yếu ở nhà, giờ cụ được ra mắt trước đám đông: Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt mơ màng đến lúc cụ mặt đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: úi giời ơi, trai lớn đã già đến thế kia kìa.

    Cô Tuyết thì sung sướng được mặc bộ y phục ngây thơ – cái áo voan mỏng… với cái tráp trầu cau và thuốc lá mời khách với vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt.

    Thật đáng cười cho chân dung trào phúng của ông Phán mọc sừng. Ông là kẻ vớ bở nhờ cái chết của cụ tổ. Có vẻ như nhờ thế mà ông bộc lộ nỗi đau xót của mình một cách ồn ào hơn ai hết: Ông oặt người khi khóc mãi không thôi: Hứt!… Hứt!. Nhưng trào phúng thay khi ông Phán dúi vào tay Xuân tờ bạc năm đồng. Màn kịch của ông Phán bị lột trần.

    Đây cũng là dịp may hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông Typn có thể lăng xê những mốt trang phục mà có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết cũng được chút ít hạnh phúc ở đời.

    Cậu tú Tân thì mừng quá và đang điên người lên vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mãi mà không được dùng đến.

    Còn Xuân Tóc Đỏ càng vênh váo vì nhờ hắn mà cụ Tổ lăn đùng ra chết.

    Hạnh phúc lan tràn cả ra ngoài gia đình người chết: Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang thất nghiệp bỗng được thuê giữ trật tự… Bạn bè cụ cố Hồng có điều kiện khoe khoang sự oai vệ của mình…

    Một trong những nét đặc sắc của ngòi bút trào phúng Vũ Trọng Phụng là sự thể hiện đám đông. Tác giả lùi ống kính thật xa quay toàn cảnh đám tang với điệp khúc đám cứ đi. Có khi tác giả lại quay cận cảnh để vạch trần bản chất nhố nhăng giả tạo của đám tang này. Vũ Trọng Phụng đã thể hiện ngôn ngữ trào phúng khi miêu tả một sế kiểu râu ria của các cụ: Có cụ lún phún rầm rậm, có vị râu hung hung, lại có vị râu loăn xoăn… Các cụ ấy đã thực sự cảm động vì làn da trắng nơi ngực và cánh tay cô Tuyết. Đến đưa ma cụ tổ phần đông là trai thanh gái lịch đất Hà thành ngàn năm văn hiến, đến với đám cốt để chim nhau, hò hẹn nhau… nói với nhau đủ chuyện hàng ngày, cho nên đám ma đông là thế, ồn ào náo nhiệt là vậy.

    Nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng còn hiện ra ở giọng điệu trong chương truyện. Nhà văn sử dụng giọng kể dửng dưng, giễu cợt, thậm chí bằng những lời ác khẩu. Luôn luôn có sự khập khiễng giữa sự vật được nói tới với giọng điệu câu văn: Ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh Bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chểt cụ tổ; điệp khúc đám cứ đi…, tiếng khóc cũng nhại lại đầy sự châm biếm: Hứt!… Hứt!… Hứt!…

    Tất cả những thành công đó chỉ có được ở cây bút trào phung bậc thầy của Vũ Trọng Phụng một xã hội nhố nhăng thị thành hiện lên chân thực sinh động. Nhà văn đã bóc trần bản chất xấụ xa, thói lừa bịp rởm đời chạy theo sống thị thành của hàng loạt người. Ngòi bút châm biếm của ông có sức mạnh ghê gớm bắt nguồn từ chính sự phẫn uất của ông. trước xã hội thực dân phong kiến – xã hội mà ông gọi là chó để này.

    Bằng tài năng, nghệ thuật trào phúng bậc thầy, qua việc tả người, dựng cảnh, sử dụng các chi tiết nghệ thuật biếm họa chận dung, ngốn ngữ hài hước… Chương truyện Hạnh phúc một tang gia như một làn roi quất mạnh vào xã hội thượng lưu tiểu tư sản thành thị hết sức lố lăng, đồi bại, nổi bật là sự giả dối. Đám tang của cụ tổ là cuộc hành quân đi xuống mồ chôn của xã hội chó đểu này.

   Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc của thể loại tiểu thuyết trào phúng. Số đỏ như chính là hiện thân của nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười một cách hả hê, thoải mái. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên: Trời, cái xã hội gì, cái lũ người gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân bạc ác đến thế.

    Đọc Số đỏ, người ta nghĩ: đây đúng là đất sở trường của Vũ Trọng Phụng, đây thật là ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng tác phẩm này, ngón võ ấy được sử dụng một cách cực kì lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan đề là Hạnh phúc của một tang gia.

    Ngón võ ấy là ngón gì? Ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra thì không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vốn nó tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ, với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái tài của một nhà trào phúng bẩm sinh, đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả bàn dân thiên hạ nhìn thấy, để cười, để căm ghét và khỉnh bỉ nó.

    Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạnh lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết, cái chết của người thân gia đình có thể dem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra, bịa ra một cách ác ý sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của một xã hội mà nhà văn muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mặt.

    Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của một gia đình đông đảo và đáng kính của một xã hội thượng lưu. Cả gia đình ấy đã nhao lên, nhao lên mỗi người một cách. Nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng.. trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì… hạnh phúc! Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng. Câu văn tưởng chừng ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm cả một thứ thế thái nhân tình.

    Nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật rành rành rết cụ thể này đây: Ông Phán mọc sừng, sau cái chết của ông bố vợ, bỗng thấy cái sự mọc sừng của mình đột nhiên tăng giá lên thêm vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa kho khạc vừa khóc mếu để được người ta ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…Còn ông Văn Minh, cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội? Ông ta sung sướng tột đỉnh, bởi vì, với cái chết của ông nội, ông ta thấy rằng cái tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi, để chia của, đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có để có thể mặc tang phục tân thời, đồ xô gai tân thời, dernieres créations của tiệm may Âu hóa.

    Tâm địa cái lũ người kia tưởng đến thế đã là tởm. Nhưng chưa hết. Đến đây, Vũ Trọng Phụng còn đầy mâu thuẫn lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu bất mục nhất trần đời đó còn muốn tỏ ra mình là những kẻ có hiếu có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút của nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ ra. Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng hiếu thảo, nghĩa tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã tập trung sức mạnh, như có thần, trong phần thứ hai của chương sách, nghĩa là phần tả cảnh đám ma.

    Trước hết, nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng nhưng chỉ hư hỏng một nửa, một thứ thiếu nữ đang rất tiêu biểu trong xã hội tân thời ngày ấy. Tuyết mặc bộ tang phục ngây thơ nửa kín nửa hở, với nét mặt có vẻ buồn lãng mạn (vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết) đã gây một hiệu quả lạ lùng: các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ nhìn vào vẻ khơi gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy.

    Đám ma thật to, to đến nước có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng. Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu khoe sang và khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình! Nếu như mong muốn của tất cả đám con cháu của người chết kia là, trong đám ma này, đưa ra sự giả dối, bịp bợm đồng thời cũng là sự tàn nhẫn, bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn, thì quả thật chúng đã đạt được một cách trọn vẹn xuất sắc.

   Nhưng chưa hết đâu, dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy đâu. Chúng đông đảo lắm. Chúng là toàn xã hội.

    Bắt đầu là đại diện bộ máy cảnh sát, nghĩa là đại diện của Nhà nước: thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả đã nói đến vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi được nhà chủ đám ma thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ duy nhất chỉ là vị họ đang không có việc gì để làm, và đang rầu như nhà buôn sắp vỡ nợ. Thứ đến là các vị tai to mặt lớn, Lớp tinh hoa của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi long trọng, ngực đeo đầy đủ thứ bội tinh. Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải vì tưởng nhớ đến người đã khuất, cũng không vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì… được ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết.

   

    Sự xuất hiện của hai tên đại bịp trong dịp này lại khiến người ta cảm động đến cực điểm: Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng hoa đồ sộ, hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có lẽ người lương thiện nhất trong cái gia đinh vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm dộng đến hớt hải lên.

    Nhưng người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc Đám cứ đi… được nhắc lại đến mấy lần, tác giả như muốn nói: đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà chiêm ngưỡng dể thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ tìm thử xem trong đám người đông đảo ấy có ai là người đang thực sự đi đưa đám , nghĩa là thực sự có chút tiếc thương đối với người chết mà họ đang đưa tiễn? Không có ai cả. Tất cả mọi ngươi đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chính, nhưng đều đang nói một điều gì dó, làm một điều gì đó, nghĩ một điều gi đó không dính dáng đến người chết và đám ma cả. Trai thanh gái lịch thỉ chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau… nhưng tất cả đều bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.

    Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ thế. Nhưng với Vũ Trọng Phụng, có nghe được những lời mà bọn họ nói với nhau mới thấy sự vô liêm sỉ ấy còn trơ tráo đến mức nào. Và nhà văn đã đưa ra một số lời ấy.

    Đám cứ đi… nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài.

    Đến lúc đám không cứ đi nữa mà dừng lại để hạ huyệt. Vũ Trọng Phụng còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta., chụp ảnh. Chi tiết thứ hai là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong gia đình này, đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta đã giúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là mgười chồng mọc sừng (chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già đã chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò dời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương sách nói về sự giả dối của người đời.

    Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong chương sách là chuyện thật ư? Lẽ nào… Những điều ấy toàn là hư cấu ư? Nhưng những điều ấy đều hợp lí lắm mà, và hình như đều có thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ trên đó nổi lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá.

Đề bài: Người xưa có câu: “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Anh (chị) hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên.

   Truyện Kiều từ lâu đã được đánh giá là một kiệt tác, đỉnh cao của nghệ thuật thơ ca tiếng Việt và thi hào Nguyễn Du được công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Thế nhưng dưới thời phong kiến trước đây, đã có lúc Truyện Kiều bị kết tội là “dâm thư” và trong dân gian lưu truyền câu nói: Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều. Dựa trên cơ sở giá trị bất hủ của Truyện Kiều, chúng ta có thể khẳng định rằng đây là quan điểm sai lầm của một số nhà Nho bảo thủ.

   Dạng đầy đủ của câu nói đó như sau:

    Đàn ông chớ kể Phan Trần,

    Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.

   Ý nghĩa của câu nói này là răn đe nam nữ chớ noi gương Phan Trần trong truyện thơ Phan Trần và Thúy Kiều trong Truyện Kiều, làm những điều trái với lễ giáo phong kiến. Các nhà Nho bảo thủ cho rằng Thúy Kiều là một cô gái hư vì đã dám coi thường chuẩn mực đạo đức phong kiến. Đạo đức ấy quy định người phụ nữ phải đoan chính, phải giữ chữ trinh làm đầu. Trong khi luân lí quy định nam nữ thụ thụ bất thân, vậy mà Thúy Kiều lại dám: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang gặp Kim Trọng để thổ lộ lòng mình. Đã thế, trong quãng đời mười lăm năm lưu lạc, Thúy Kiều phải trải qua: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, hết gá nghĩa với Thúc Sinh lại kết duyên vợ chồng với Từ Hải. Chính những điều ấy khiến các nhà Nho thủ cựu phê phán Thúy Kiều mà không cần tìm hiểu, phân tích rõ nguyên nhân.

   Chúng ta thấy họ đã sai lầm và phiến diện khi đánh giá Thúy Kiều và Truyện Kiều vì Thúy Kiều là người con gái đáng thương và đáng trân trọng. Nàng không chỉ tài sắc vẹn toàn mà còn có phẩm hạnh cao quý hiếm thấy. Trong tình yêu với Kim Trọng, Thúy Kiều là người tình tuyệt vời. Nàng đã dám vượt qua những trói buộc hà khắc của lễ giáo phong kiến để chủ động đi tìm hạnh phúc. Điều đó thể hiện khát vọng sống, khát vọng yêu mãnh liệt. Hành động của Thúy Kiều thật đáng yêu, đáng phục. Thử hỏi các cô gái ngày nay mấy người dám suy nghĩ và hành động mạnh dạn như nàng? Không ngồi chờ số phận, không chấp nhận quy định: Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy của lễ giáo phong kiến cổ hủ, đó là sự dũng cảm, tiến bộ của Thúy Kiều.

   Chúng ta hãy trở lại với mối tình khá đặc biệt của lứa đôi Kim Trọng, Thúy Kiều, một trong những nguyên nhân dẫn đến quan niệm cực đoan trên. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thì hai người đã bị ‘‘tiếng sét ái tình” đánh trúng ngay từ phút đầu tiên gặp gỡ trong một buổi chiều của tiết Thanh minh, để rồi Người quốc sắc kẻ thiên tài, Tình trong như đã mặt ngoài còn e. Sau lúc chia tay, hình bóng Kim Trọng đã in đậm trong trái tim đa cảm của Thúy Kiều khiến nàng thao thức, băn khoăn suốt canh thâu: Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không ? Tình yêu chân thành, mãnh liệt đã thôi thúc nàng Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang tâm sự với chàng Kim. Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường, cử chỉ hăm hở và mạnh bạo của Thúy Kiều đã gây ngạc nhiên đến sững sờ cùng với phản ứng dữ dội của những người vốn coi trọng luân thường đạo lí Nho giáo. Họ không thể chấp nhận một tiểu thư khuê các như Thúy Kiều mà lại có tư tưởng tự do, tình yêu tự do vượt ra ngoài khuôn khổ của lễ giáo và sợ rằng nàng sẽ là gương xấu cho nữ giới. Đó cũng là điều dễ hiểu dưới thời phong kiến.

   Thúy Kiều đã tự tìm đến với người yêu, với tình yêu. Tuy chủ động tìm đến với Kim Trọng nhưng Thúy Kiều luôn giữ sự đoan trang, đúng mực. Trong đêm thề nguyền đính ước, khi Kim Trọng: Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi thì Thúy Kiều đã tế nhị, nhẹ nhàng khuyên nhủ:

    Đã cho vào bậc bố kinh,

    Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

    Phải tuồng trên bộc trong dâu,

    Thì con người ấy ai cầu làm chi!

   Thúy Kiều không làm gì sai trái với đạo đức mà nàng chỉ không tuân theo những ràng buộc phi lí, cổ hủ của chế độ phong kiến mà thôi.

   Nếu nhìn nhận và đánh giá tình yêu Kim Trọng – Thúy Kiều theo quan niệm của thời nay thì chúng ta thấy rằng đó là một tình yêu hồn nhiên, trong sáng. Nó không bị chi phối, không vướng bận bởi bất cứ một toan tính vật chất nào mà thuần là tiếng nói của hai trái tim, hai tâm hồn hòa hợp. Cho nên nó nhanh chóng trở thành lời thề nguyền vàng đá trăm năm. Tình yêu ấy dù dang dở nhưng nó vẫn ám ảnh mọi suy nghĩ, cảm xúc của Thúy Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương với thân phận tủi nhục: Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Mỗi lần chìm đắm trong đau khổ, Thúy Kiều đều nghĩ tới Kim Trọng với một tình cảm xót xa, nuối tiếc: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

   Như vậy là tình yêu và phẩm giá của Thúy Kiều rất xứng đáng với hai câu thơ ca ngợi của Nguyễn Du: Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay? Hay như nhận xét của Chu Mạnh Trinh, một nhà Nho tiến bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX vốn rất mê hình tượng Thúy Kiều thì: Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên.

   Đối với cha mẹ, Thúy Kiều là người con hiếu thảo hiếm có. Sau lời vu oan của một thằng bán tơ nào đó, gia đình nàng tan tác. Thúy Kiều đành phải ngậm ngùi gác mối tình đầu trong sáng, thiết tha với Kim Trọng rồi quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha và em ra khỏi chốn ngục tù : Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành. Hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều khiến người đọc cảm phục và thương xót.

   Sau khi bước chân lên cỗ xe định mệnh: Đùng đùng gió giục mây vần, Một xe trong cõi hồng trần như bay, Thúy Kiều đã dấn thân vào kiếp đoạn trường. Suốt mười lăm năm lưu lạc, nàng luôn bị những thế lực đen tối vùi dập xuống bùn nhơ. Mấy lần nàng cố gắng vùng vẫy để thoát khỏi đêm tối của số phận nhưng lại càng bị nhấn chìm sâu hơn nữa. Làm sao chúng ta có thể trách một người con gái liễu yếu đào tơ như Thúy Kiều?! Có trách là trách cái xã hội vạn ác đã nhẫn tâm chà đạp lên số phận của người phụ nữ đáng thương ấy.

   Để thoát khỏi kiếp kĩ nữ tủi nhục chốn lầu xanh nhơ nhớp, Thúy Kiều đành chấp nhận làm lẽ Thúc Sinh. Cuộc hôn nhân tạm bợ này kéo dài chưa được bao lâu thì nàng bị vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư bắt cóc về nhà làm con ở, đày đọa cất đầu chẳng lên, đang đêm phải bỏ trốn khỏi Quan Âm Các. Thoát chốn hang hùm, Thúy Kiều lại rơi vào ổ rắn. Lần thứ hai, Thúy Kiều bị Bạc Bà, Bạc Hạnh lừa bán vào lầu xanh. Đau đớn và tuyệt vọng, nàng đã thốt lên những lời bất bình, uất hận:

    Chém cha cái số hoa đào,

    Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!

    Nghĩ đời mà ngán cho đời,

    Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!

    Tiếc thay nước đã đánh phèn,

    Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!

   Từ Hải yêu vì sắc trọng vì tài nên đã bỏ tiền chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Chàng còn giúp nàng thỏa ước nguyện đền ơn, báo oán, gột rửa bao tủi hờn chất chứa trong lòng bấy lâu nay. Sống sung sướng, đầy đủ bên người anh hùng hiểu mình, thương mình hết lòng nhưng Thúy Kiều vẫn không quên tình cũ, người xưa:

    Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,

    Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

   Xã hội trọng nam khinh nữ quan niệm rằng: Trai năm thê bảy thiếp, Gái chính chuyên chỉ có một chồng, cho nên các nhà Nho căn cứ vào đó để kết tội Thúy Kiều là: đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm mà không xem xét kĩ để tìm ra nguyên nhân nào đã đẩy nàng vào tình cảnh éo le, trớ trêu ấy.

   Có lẽ chỉ có Nguyễn Du là người thấu hiểu và đồng cảm nhiều nhất với nỗi đau khổ của Thúy Kiều, để từ đó đưa ra lời nhận xét khái quát thấm đẫm cảm xúc chua xót, đắng cay:

    Đau đớn thay phận đàn bà,

    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!

   Nguyễn Du đã hoàn lương chiêu tuyết cho Thúy Kiều bằng những câu thơ thể hiện thái độ yêu mến và trân trọng:

    Như nàng lấy hiếu làm trinh,

    Bụi nào cho đục được mình ấy vay…

    Hoa tàn mà lại thêm tươi,

    Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa…

   Thúy Kiều không chỉ đáng thương mà còn đáng quý. Đọc Truyện Kiều, chúng ta thông cảm với nỗi đau khổ và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người con gái tài sắc ấy.

   Câu: Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều không chỉ nhận xét sai lầm về nhân vật Thúy Kiều mà còn là nhận định không đúng về Truyện Kiều của Nguyễn Du, khi cho rằng đây là “dâm thư”, không nên đọc. Truyện Kiều là một kiệt tác của nền văn học dân tộc, đỉnh cao của thơ ca tiếng Việt, bởi vậy khi đánh giá Truyện Kiều, chúng ta cần phải có thái độ khách quan, đúng đắn.

   Đọc Truyện Kiều, chúng ta thấy được sự tàn ác của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ. Một người con gái tài sắc, hiếu nghĩa đủ đường như Thúy Kiều mà lại bị coi như một món hàng vô tri vô giác: Thoắt mua về, thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi. Cuộc đời Thúy Kiều trầm luân, khổ nhục cũng vì những thế lực đen tối trong xã hội vạn ác. Ma lực của đồng tiền khiến những kẻ bất lương nhẫn tâm đẩy Thúy Kiều từ tình cảnh đau thương này tới tình cảnh đau thương khác. Hơn ở bất cứ đâu, bức tranh về một xã hội nhiễu nhương, đảo điên, thối nát được phản ánh rất rõ trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã ngậm ngùi thốt lên:

    Trải qua một cuộc bể dâu,

    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!

   Truyện Kiều còn đạt tới đỉnh cao của giá trị nhân đạo bởi nó là tiếng kêu đứt ruột về số phận của một người con gái tài sắc vẹn toàn, lẽ ra phải được sống trong tình yêu và hạnh phúc thì lại phải chịu toàn là khổ nhục, đớn đau.

   Về mặt nghệ thuật, Truyện Kiều đạt tới đỉnh cao của văn chương, đặc biệt là nghệ thuật thơ ca tiếng Việt. Nguyễn Du thành công xuất sắc trên nhiều phương diện như tả cảnh, tả người, thể hiện tâm lí nhân vật… Với Truyện Kiều, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào của dân tộc Việt Nam.

Đề bài: Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao?

   Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phấm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nối lên hình tượng Chí Phèo trong tác phấm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã đế lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.

   Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hon nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khố đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.

   Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khố đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khố và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thử cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hon phải tha hương cầu thực ở xứ người.

   Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đấy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỉ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.

   Ở Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỉ dữ.

   Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỉ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với nhũng người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thế ngay trong nhừng hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hon khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.

   Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Neu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đòi sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.

   Sống, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.

   Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thế khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tụ’ ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ưót nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mất và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giói người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.

   Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đòi trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.

   Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỉ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và họp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đen nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.

   Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thế hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.

   Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan bởi bản thân nhũng người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lung vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biếu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuối, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hon?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Ket thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.

   Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với nhũng kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hon, trân trọng hon hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.

   Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.

   Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.

   Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.

   Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.

   Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.

   Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.

   Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.

   Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.

   Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.

   Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.

   Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.

   Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?

   Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1125

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống