Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 (Ngắn Gọn)
- Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 12 Cực Ngắn
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1 Nâng Cao
- Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2 Nâng Cao
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 1
- Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 12 Nâng Cao Tập 2
Đề bài: Phân tích và nêu cảm nhận về phác thảo chân dung Đô-xtôi-ép-ki của nhà văn Áo Xvai-gơ
Bài làm
Xvai-gơ (1881-1942) là nhà văn Áo, rất nổi tiếng với những phác thảo chân dung các nhà văn bậc thầy của thế giới như Ban-dắc, Tôn-xtôi, Đô-xtôi-ép-xki, Xtãng-đan, Đích-ken, v.v…
Mỗi bức chân dung văn học của ông để lại óng ánh sắc màu với bao hoạ tiết mang vẻ đẹp nhân văn kì diệu. “Đô-xtôi-ép-xki” là một bức chân dung văn học mang vẻ đẹp nhân văn kì diệu đó, mà màu thời gian không thể phủ mờ.
Năm Đô-xtôi-ép-xki bước sang thế giới bcn kia (1821-1881) thì cũng là năm Xvai-gơ cất tiếng chào đời (1881-1942), thế nhưng khi đọc Xvai-gơ, ta cứ ngỡ hai nhà vãn này đang đồng hành, đang lầm lũi trên những neo đường từ Anh sang Pháp, từ Ý sang Đức, rồi trở về Pê-téc-bua nước Nga…. Cả hai đã và đang “sống giữa giống người chấy rận trước khi vươn lên ánh sáng rực rỡ của niềm vinh quang đời đời”.
Xvai-gơ đã dùng những lời tốt đẹp nhất, những gam màu đậm nhất, những đường nét sắc sảo nhất khi phác hoạ chân dung Đô-xtôi-ép-xki.
Như nhiều độc giả đã biết, Đô-xtôi-ép-xki đã cùng vợ trốn sang Đức, Pháp, Anh, Ý…, sống “leo lét” trong một thế giới xa lạ. Sống trong bần cùng cơ cực, lúc thì đứng chực, “đứng chờ” ở cửa tò vò ngân hàng, “ngày lại ngày và với một gióng nói cảm động ông hỏi xem từ nước Nga tờ séc của ông cuối cùng đã đến chưa”..một trăm rúp. cái món tiền nhỏ nhoi bán bản thảo, mà ông đã “bao nhiêu lần quỳ gối trước những người xa lạ và thấp hèn”. Nhiều nhà xuất bản vụ lợi đã lừa ông; các nhân viên ngân hàng thì chế nhạo ông là “lão điên nghèo”. Để có tiền đánh một cái điện về Xanh Pê-téc-bua, ông phải đến hiệu cầm đồ để cầm cố “cái quần đùi cuối cùng”. Còn trong thư từ của ông gửi đi, người ta tìm thấy “một tiếng kêu tuyệt vọng xé ruột”.
Sự khốn cùng và hoạn nạn có lúc đã dồn Đô-xtôi-ép-xki đến bên bờ vực thẳm của địa ngục. Ông trằn lưng ra, vắt óc ra làm việc suốt đêm khi vợ rên ri trong cơn đau đẻ, khi cơn động kinh “chộp họng ông”; chủ nhà không được trả tiền đe doạ gọi cảnh sát; bà đỡ đòi tiền nợ… “Hoạ vô đơn chí”, đứa con gái sinh ra chỉ được vài ngày thì qua đời, Đô-xtôi-ép-xki gần như phát điên lên.
Xvai-gơ chỉ chấm phá một vài nét mà làm nổi bật lên một màn đen u ám cứ cuộn tròn lấy, bám riết lấy chân dung ĐcVxtôi-ép-xki, làm cho người xem, người đọc cảm thấy tức thờ, nước mắt cứ trào ra. Xvai-gơ đã khéo léo chọn chi tiết điển hình để “điểm nhãn” bức chân dung nhà văn Nga mà ông đang phác hoạ.
Hô-ra-xơ xa xưa đã nói: “Sự khốn khó có tác dụng khơi năng mà trong hoàn cảnh giàu sang nó đã ngủ yên”. Đô-xtôi-ép-xki đã không gục ngã trước mọi éo le và sự khốn cùng; chính trong bóng đêm cuộc đời, tài năng ông đã thắp sáng, “đã tạo hình cho tất cả thế giới tinh thần của chúng ta” với bao kiệt tác văn chương tác phẩm đồ sộ của thế kỉ XIX”, chỉ nhắc lại tên, bao thế hệ độc giả gần xa trên trái đất đã cúi đầu ngưỡng mộ: Tội ác và trừng phạt, . Lũ người quỷ ám, Con bạc…. Văn nghiệp của Đô-xtôi-ép-xki gồm 30 tác phẩm “chồng cao quá đầu người”.
Xvai-gơ đã viết nên những dòng văn cô đọng, chất triết lí toả sáng một tâm hồn thơ: “Lao động là sự giải thoát và là nỗi thống khổ của ông; nhờ nó mà ông sống trong Tổ quốc mình”. Kẻ li hương nghèo khổ, nguồn vui duy nhất là sáng tạo, sáng tạo không ngừng, sáng tạo là hạnh phúc: “Đó là rượu ngọt làm ông ngây ngất; đó là niềm hoan lạc lớn nhất của ông” khi mỗi trang văn, mỗi tác phẩm ra đời.
Xvai-gơ đã thấu hiểu tâm trạng đầy bi kịch của Đô-xtôi-ép-xki.
Đô-xtôi-ép-xki yêu Tổ quốc, ông nhớ nước Nga, ông muốn trở về nhưng chưa thể trở về. “Cái cọc của trại giam” năm xưa vẫn ám ảnh ông: bị án tử hình, rồi hơn mười năm lưu đày khổ sai (1848 – 1959) trong đọa đày đói rét.
Năm mươi tuổi rồi, nơi xa xứ, Đô-xtôi-ép-xki “vẫn là người không tên, kẻ bị đọa đày”, vẫn phải “tiếp tục sống giữa giống người chấy rận trước khi vươn lên ánh sáng của niềm vinh quang đời đời”. Phải có một nghị lực phi thường, ông mới vượt qua được, dù có lúc “những thiếu thốn đã uốn còng lưng ông”, dù nhiều năm tháng “những quả chùy của bệnh tật càng giáng thường xuyên hơn xuống cân não ông”. Đúng Đô-xtôi-ép-xki là một người khổng lồ trong bể khổ: “Năm mươi tuổi, nhưng ông đã chịu hàng thế kỉ dằn vặt”.
Phần tiếp theo, bức chân dung của Đô-xtôi-ép-xki được Xvai-gơvex bằng gam màu sáng trong. Năm mươi hai tuổi, Đô-xtôi-ép-xki “được quyền trở về Tổ quốc”. Cũng như Giốp, con người đức hạnh trong Kinh thánh, Chúa Trời đã “ban phước lành” cho ông, “sứ mệnh phán bảo thế là kết thúc”. Trở về Xanh Pê-téc-bua, ông trở thành “sứ giả của xứ sở mình”. Và khi “Nhật kí của một nhà văn”, tiểu thuyết “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp”, kiệt tác văn chương của ông chào đời, thì Tuốc-ghê-nhép, Tôn-xtoi “bị lu mờ”, cả nước Nga “đổ dồn mắt vào ông”.
Qua cơn bĩ cực tất sẽ đến ngày thái lai, Đô-xtôi-ép-xki cũng vậy, “sau tất cả những thử thách ông đã chịu, một giây hạnh phúc tuyệt đỉnh đã được ban cho ông”; đúng như vậy, ông càng thấm thía cái lẽ đời “hạt đã gieo xuống, mùa gặt sẽ vô tận”. Xvai-gơ đã dùng hình ảnh “Đức Chúa Trời ném cho ông một tia chớp” đưa Đô-xtôi-ép-xki “vào cõi vĩnh hằng”. Thật không có cách nói nào hay hơn, ý vị hơn.
Tác giả nhắc lại cái giây phủt hạnh phúc nhất, vinh quang nhất trong lễ kỉ niệm ngày sinh của Pu-skin, Đô-xtôi-ép-xki “trong niềm ngây ngất của quỷ dữ, ông vung lời như sấm sét”, ông báo trước “sứ mệnh thiêng liêng”của sự tổng hoà giải của nước Nga. Lời phát biểu của ông đã làm cho căn phòng “rung lên trong bùng nổ của hoan hỉ” đám đông cử toạ “quỳ xuống”, các bà “hôn bàn tay ông” một sinh viên “ngất xỉu dưới chân ông”,… Đó là giây phút hạnh phúc nhất của Đô-xtôi-ép-xki: “một vòng hào quang chói lọi bao quanh cái đầu của người bị hành khổ này.
Phần cuối bài viết, Xvai-gơ đã nói về đám tang của tác giả “Tội ác và trừng phạt”, đó là ngày 10 tháng 2 năm 1881, “khi quả đã được cứu thoát, vỏ khô rụng xuống”. Cả nước Nga “run rẩy lay động”, “đau đớn câm lặng tiếc thương”; “một làn sóng yêu thương cuồng nhiệt dâng lên từ mọi nơi của thành phố ngàn tháp chuông”. Phố Thợ Rèn nơi quàn linh cữu Đô-xtôi-ép-xki “đen nghịt người” cái giường ông nằm nghỉ “đầy hoa”, đám đông người “siết chặt” quan tài ông. “Giấc mơ thiêng liêng” của Đô-xtôi-ép-xki được thực hiện. Qua đám tang ông, những người Nga đã biểu thị sự đoàn kết, và họ đã “truyền sinh khí vào tác phẩm ông”. Cả một rừng cò? và đông đảo các tầng lớp nhân dân Nga, các vị vương tôn trẻ, các giáp trưởng, công nhân, sinh viên, sĩ quan, người hầu và người hành khất “đi bên nhau khóc người quá cố rất thân thiết đối với họ”, tất cả đều “đoàn kết lại trong một lời nguyền yêu thương và cảm phục”.
Cũng như Bét-thô-ven, Đô-xtôi-ép-xki qua đời “giữa dông bão”, làm dấy lên “tiếng sấm của sự nổi dậy rền vang”, toàn nước Nga “bị kích động dữ dội”, và khắp đất nước “những tia chớp báo thù rạch dọc ngang”… báo hiệu một thời kì bão táp sôi sục diễn ra.
Với một lối viết trang trọng và sắc sảo, ngưỡng mộ và tiếc thương, Xvai-gơ đã phác hoạ chân dung Đô-xtôi-ép-xki tuyệt đẹp, tưởng như ông đã dựng lên một bức tượng đồng kì vĩ, đã đưa nhà văn Nga lỗi lạc này vào cõi vĩnh hằng vinh quang.
Nghị lực phi thường, tài năng lỗi lạc đã tạo nên tầm vóc vĩ đại của văn hào Đô-xtôi-ép-xki. Con người của ông, văn chương của ông mãi mãi là nguồn sáng nhân văn vô tận. Ngôi sao của Thành phố ngàn tháp chuông ngày càng lung linh toả sáng.
Đề bài: Phân tích tác phẩm Đô-Xtôi-Ép-Xki của Xvai-Go.
Bài làm
Xtê-phan Xvai-gơ là một nhà văn người Áo, ngoài tác phẩm văn học, ông còn viết những phác thảo chân dung các nhà văn bậc thầy của thế giới. Nhờ sự giới thiệu của ông mà những chân dung và phong cách của các nhà văn này đến với người đọc một cách rõ ràng, gần gũi và thấu đáo. Bức chân dung Đô-xtôi-ép-xki được ông phác thảo, đã cho chúng ta hiểu rõ thêm số phận một nhà văn khốn khổ nhưng cũng đầy vinh quang của nước Nga.
Đô-xtôi-ép-xki là một nghệ sĩ lớn, một nhà tâm lí thiên tài, một nhà nhân văn sâu sắc. Đô-xtôi-ép-xki đã để lại những tác phẩm được coi là di sản văn hoá nhân loại. Câu nói nổi tiếng của ông: “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”, đã khẳng định giá trị của nghệ thuật trên con đường nhân đạo hoá đời sống con người.
Bài viết của Xvai-gơ đã phác hoạ khá rõ nét chân dung Đô-xtôi-ép-xki và những chấn động lớn lao mà ông đã đem đến cho thời đại mình: Tiếng sấm của sự nổi dậy rền vang.
Cuộc sống vật chất cùng quẫn
Phần mở đầu bài viết, Xvai-gơ đã miêu tả cuộc sống cùng quẫn vì đói nghèo của Đô-xtôi-ép-xki ở nước ngoài. Đô-xtôi-ép-xki từng bị Nga hoàng kết án tử hình vì những tư tưởng tự do, dân chủ và sau đó buộc phải sống lưu vong. Đó là một cuộc sống leo lét, cô đơn, đầy tủi nhục. Một cuộc sống vô danh, không ai biết, không ai trò chuyện: “Không một nhà văn Đức, Pháp hoặc I-ta-li-a nào nhớ lại là đã gặp ông, đã nói với ông”. Một cuộc sống tuyột vọng vì thiếu thốn: Ngày lại ngày chờ đợi ở ngân hàng cái tờ séc một trăm rúp; ông đã là người khách chuyên cần của hiệu cầm đồ. Một cuộc sống luôn bị chế nhạo, giễu cợt: Các nhân viên ngân hàng ra mặt chế nhạo lão điên nghèo và sự chờ đợi vĩnh viễn của lão. Một cuộc sống đầy tủi nhục vì phải cúi mình, nhịn nhục, xin xỏ, kêu van, than thở: tiếng kêu tuyệt vọng xé ruột. Một cuộc sống luôn trong tình thế bất trắc : ốm đau, vợ con nheo nhóc, hết tiền,… Những thiếu thốn đã uốn còng lưng ông ; những quá chuỳ của bệnh tật càng giáng thường xuyên hơn xuống não cân ông : nhiều ngày dài ông nằm trong một sự đờ đẫn hoàn toàn…
Đúng là kiếp sống của kẻ bị đoạ đày ở những xứ sở xa lạ, giữa giống người chấy rận. Chỉ bằng một vài nét phác hoạ, kvai-gơ đã diễn tả được cuộc sống cùng quẫn của Đô-xtôi-ép-xki giữa một thế giới châu Âu xa lạ, ngạt thở như trong một nhà ngục.
Những thành công đầy vinh quang
Sau tất cả những đớn đau, khốn khổ và tuyệt vọng, Đô-xtôi-ép-xki đã đạt được tột đỉnh của vinh quang.
Cội nguồn của sự vinh quang ấy, đầu tiên là vì tình yêu Tổ quốc. Như Xvai-gơ khẳng định: trái tim ông chỉ đập vì nước Nga, nhờ có lao động mà ông sống trong Tổ quốc mình. Ông luôn mong mỏi cố ngày trở về. Nước Nga, đó là tiếng gọi vĩnh cửu của niềm tuyệt vọng của ông.
Tiếp đến là một nỗ lực lao động không cùng trong nỗi thống khổ: Suốt đêm ông làm việc trong khi ở phòng bên vợ ông rên rỉ trong những cơn đau đẻ. Cơn động kinh chộp họng ông; chủ nhà không được trả tiền để doạ gọi canh sát,… Nhưng lao động đối với ông là sự giải thoát, giải thoát khỏi những dằn vặt về vật chất, giải thoát khỏi số phận lưu đày, là con đường quay về Tổ quốc, dù trước đây chính vì tác phẩm và những tư tưởng tự do của mình mà ông bị kết án và doạ đày ở nơi xa lạ như thế này. Lao động đã đem lại cho ông niềm vui sướng, mê say: Đó là rượu ngọt làm ông ngây nẹất, là niềm hoan lạc lớn lao nhất của ông
Kết quả của sức lao động kiên trì và mãnh liệt ấy, là một khối lượng tác phẩm văn học lớn, mà theo đánh giá của Xvai-gơ, là những tấc phẩm đồ sộ của thế kỉ XIX. Đó là những tác phẩm như: Tội ác và trừng phạt, Thằng ngốc, Lũ người quỷ ám, Con bạc, Nhật kí của một nhà văn, Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp,… mà trong đó Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp là cuốn sách nghệ thuật hoàn hảo nhất.
Đô-xtôi-ép-xki đã được trở về nước Nga năm ông năm mươi hai tuổi. Cuối cùng, sự nghiệp và giá trị của các tác phẩm Đô-xtôi-ép-xki đã được toàn nước Nga công nhận: các sách của ông đã biện hộ cho sự nghiệp của ông ; Tuốc-ghê-nhép, Tôn-xtôi (những nhà văn lớn của nước Nga) bị lu mờ. Nước Nga chỉ còn đổ dồn mắt vào ông. Ông đã vươn lên ánh sáng rực rỡ của niềm vinh quang đời dời.
Thắng lợi của ông rực sáng như những tia chớp. Sự đón nhận ông ở nước Nga mới nồng nhiệt làm sao. Trong buổi lễ nhân dịp một trăm năm ngày sinh Pu-skin, Đô-xtôi-ép-xki đã phát biểu những lời như sấm sét, báo trước sứ mệnh thiêng liêng của sự tổng hoà giải của nước Nga. Những lời tiên đoán ấy được đám đông đón nhận nồng nhiệt, hứng khởi và kích động: đám đông quỳ xuống; căn phòng rung lên sự bùng nổ hoan hỉ; các bà hôn bàn tay ông, một sinh viên ngất xỉu dưới chân ông; tất cả những diễn giả khác từ chối không nói nữa.
Để nói về niềm vinh quang của Đô-xtôi-ép-xki khi được nước Nga đón nhận, Xvai-gơ sử dụng một loạt các điển tích tôn giáo, nhằm thiêng liêng hoá sứ mệnh và niềm vinh quang của Đô-xtôi-ép-xki: Đức Chúa Trời quay nhìn về phía Giốp (một người chịu nhiều bất hạnh nhưng cuối cùng đã được Chúa ban phúc lành); Đức Chúa Trời ném cho ông một tia chớp, soi sáng một cỗ xe rực lửa để đưa các tông đồ (người giúp việc của Chúa) vào cõi vĩnh hằng ; vòng hào quang chói lọi bao quanh cái đầu của người bị hành khổ này. Hình ảnh hạt đã gieo xuống, mùa gặt là vô tận. Thậm chí, buổi nói chuyện của Đô-xtôi-ép-xki cũng hột như buổi thuyết giáo của một nhà truyền giáo vĩ đại: Trong niềm ngất ngây của quỷ dữ, ông vung lời như sấm sét; Như bị hạ gục, đám dông quỳ xuống,…
Niềm vinh quang mà Đô-xtôi-ép-xki được đón nhận chính là vì các tác phẩm của ông đã tạo hình được thế giới tinh thần của chúng ta – con người.
Đám tang Đô-xtôi-ép-xki và sự đoàn kết dân tộc
Giây phút Đô-xtôi-ép-xki được chào đón và ngưỡng mộ cũng qua đi rất nhanh bởi ông đã nhanh chóng đi về nơi vĩnh hằng. Điểu đó đã được Xvai-gơ gọi một cách trang trọng, đầy hình ảnh: một phút ánh sáng rực rỡ để chứng tỏ rằng sứ mệnh đã hoàn thành, tác phẩm đã thắng lợi; rồi khi quả dã được cứu thoát, vỏ khô rụng xuống.
Khắp nước Nga, người người đều tiếc thương ông: Một cơn run rẩy lay dộng toàn nước Nga ; một phút đau đớn câm lặng, từ các thành phố xa xôi nhất, các đoàn đại biểu kéo đến để viếng ông; một làn sóng yêu thương cuồng nhiệt dâng lên từ mọi nơi của thành phố ngàn tháp chuông. Mọi người lấy đi hết các bông hoa trong tang lễ ông để làm kỉ niệm.
Đám tang của Đô-xtôi-ép-xki được tiến hành trọng thể. Chính tại đám tang, trong một tiếng đồng hổ, giấc mơ thiêng liêng của Đô-xtôi-ép-xki đã được thực hiện: sự đoàn kết của tất cả những người Nga. Đi sau quan tài ông là đủ mọi tầng lớp: các vương tôn trẻ, các giáp trưởng, công nhân, sinh viên, sĩ quan, người hầu và người hành khất. Dù theo đảng phái, tôn giáo, chính kiến gì đi nữa, nhưng họ đều gắn kết với nhau trong sự yêu thương và cảm phục con người đã suốt đời vì nước Nga, đã vẽ nên bộ mặt tinh thần Nga, đã đề cao tư tưởng tự do, dân chủ và đoàn kết, với mong muốn nước Nga của thế kỉ XIX thoát khỏi đói nghèo, bần cùng và lạc hậu. Đây chính là sự hoà giải của cả đất nước, dù trong chốc lát.
Chính vì vậy mà sau đám tang Đô-xtôi-ép-xki, cách mạng đã nổ ra: chế độ phong kiến đến lúc phải xoá bỏ. Tiếng sấm của sự nổi dậy rền vang: Nga hoàng bị ám sát. Cơn dông bão của cách mạng Nga đang đến. Phải chăng, tư tướng tự do, dân chủ và đoàn kết của Đô-xtôi-ép-xki cũng góp phần vào cuộc cách mạng ấy?
Một loạt hình ảnh: tiếng sấm rền vang, những tia chớp báo thù rạch dọc ngang khắp đất nước, cơn dông bão dữ dội,… đã khắc hoạ một cách trọn vẹn và ấn tượng những chấn động lớn lao mà Đô-xtôi-ép-xki đã đem lại cho thời đại mình.
Qua bài viết của Xvai-gơ, chúng ta hiểu được thế nào là một nhà văn vĩ đại. Đó là con người mà cuộc sống có thể khổ đau đến cùng cực, nhưng trái tim vẫn luôn đập vì Tổ quốc mình, vì số phận con người, và có những tác phẩm nghệ thuật có khả năng đoàn kết, tập hợp được mọi người dù chính kiến và tư tưởng có khác nhau, thậm chí mâu thuẫn. Có nghĩa là, tác phẩm và tư tưởng của nhà văn đó phải đụng chạm được đến những vấn để của con người, của nhân loại, những vấn đề chung mà ai cũng có thể đồng cảm và chia sẻ.
Đề bài: Phân tích và nêu cảm nhận về phác thảo chân dung Đô-xtôi-ép-ki
Xvai-gơ (1881-1942) là nhà văn Áo, rất nổi tiếng với những phác thảo chân dung các nhà văn bậc thầy của thế giới như Ban-dắc, Tôn-xtôi, Đô-xtôi-ép-xki, Xtãng-đan, Đích-ken, v.v…
Mỗi bức chân dung văn học của ông để lại óng ánh sắc màu với bao hoạ tiết mang vẻ đẹp nhân văn kì diệu. “Đô-xtôi-ép-xki” là một bức chân dung văn học mang vẻ đẹp nhân văn kì diệu đó, mà màu thời gian không thể phủ mờ.
Năm Đô-xtôi-ép-xki bước sang thế giới bcn kia (1821-1881) thì cũng là năm Xvai-gơ cất tiếng chào đời (1881-1942), thế nhưng khi đọc Xvai-gơ, ta cứ ngỡ hai nhà vãn này đang đồng hành, đang lầm lũi trên những neo đường từ Anh sang Pháp, từ Ý sang Đức, rồi trở về Pê-téc-bua nước Nga…. Cả hai đã và đang “sống giữa giống người chấy rận trước khi vươn lên ánh sáng rực rỡ của niềm vinh quang đời đời”.
Xvai-gơ đã dùng những lời tốt đẹp nhất, những gam màu đậm nhất, những đường nét sắc sảo nhất khi phác hoạ chân dung Đô-xtôi-ép-xki.
Như nhiều độc giả đã biết, Đô-xtôi-ép-xki đã cùng vợ trốn sang Đức, Pháp, Anh, Ý…, sống “leo lét” trong một thế giới xa lạ. Sống trong bần cùng cơ cực, lúc thì đứng chực, “đứng chờ” ở cửa tò vò ngân hàng, “ngày lại ngày và với một gióng nói cảm động ông hỏi xem từ nước Nga tờ séc của ông cuối cùng đã đến chưa”..một trăm rúp. cái món tiền nhỏ nhoi bán bản thảo, mà ông đã “bao nhiêu lần quỳ gối trước những người xa lạ và thấp hèn”. Nhiều nhà xuất bản vụ lợi đã lừa ông; các nhân viên ngân hàng thì chế nhạo ông là “lão điên nghèo”. Để có tiền đánh một cái điện về Xanh Pê-téc-bua, ông phải đến hiệu cầm đồ để cầm cố “cái quần đùi cuối cùng”. Còn trong thư từ của ông gửi đi, người ta tìm thấy “một tiếng kêu tuyệt vọng xé ruột”.
Sự khốn cùng và hoạn nạn có lúc đã dồn Đô-xtôi-ép-xki đến bên bờ vực thẳm của địa ngục. Ông trằn lưng ra, vắt óc ra làm việc suốt đêm khi vợ rên ri trong cơn đau đẻ, khi cơn động kinh “chộp họng ông”; chủ nhà không được trả tiền đe doạ gọi cảnh sát; bà đỡ đòi tiền nợ… “Hoạ vô đơn chí”, đứa con gái sinh ra chỉ được vài ngày thì qua đời, Đô-xtôi-ép-xki gần như phát điên lên.
Xvai-gơ chỉ chấm phá một vài nét mà làm nổi bật lên một màn đen u ám cứ cuộn tròn lấy, bám riết lấy chân dung ĐcVxtôi-ép-xki, làm cho người xem, người đọc cảm thấy tức thờ, nước mắt cứ trào ra. Xvai-gơ đã khéo léo chọn chi tiết điển hình để “điểm nhãn” bức chân dung nhà văn Nga mà ông đang phác hoạ.
Hô-ra-xơ xa xưa đã nói: “Sự khốn khó có tác dụng khơi năng mà trong hoàn cảnh giàu sang nó đã ngủ yên”. Đô-xtôi-ép-xki đã không gục ngã trước mọi éo le và sự khốn cùng; chính trong bóng đêm cuộc đời, tài năng ông đã thắp sáng, “đã tạo hình cho tất cả thế giới tinh thần của chúng ta” với bao kiệt tác văn chương tác phẩm đồ sộ của thế kỉ XIX”, chỉ nhắc lại tên, bao thế hệ độc giả gần xa trên trái đất đã cúi đầu ngưỡng mộ: Tội ác và trừng phạt, . Lũ người quỷ ám, Con bạc…. Văn nghiệp của Đô-xtôi-ép-xki gồm 30 tác phẩm “chồng cao quá đầu người”.
Xvai-gơ đã viết nên những dòng văn cô đọng, chất triết lí toả sáng một tâm hồn thơ: “Lao động là sự giải thoát và là nỗi thống khổ của ông; nhờ nó mà ông sống trong Tổ quốc mình”. Kẻ li hương nghèo khổ, nguồn vui duy nhất là sáng tạo, sáng tạo không ngừng, sáng tạo là hạnh phúc: “Đó là rượu ngọt làm ông ngây ngất; đó là niềm hoan lạc lớn nhất của ông” khi mỗi trang văn, mỗi tác phẩm ra đời.
Xvai-gơ đã thấu hiểu tâm trạng đầy bi kịch của Đô-xtôi-ép-xki.
Đô-xtôi-ép-xki yêu Tổ quốc, ông nhớ nước Nga, ông muốn trở về nhưng chưa thể trở về. “Cái cọc của trại giam” năm xưa vẫn ám ảnh ông: bị án tử hình, rồi hơn mười năm lưu đày khổ sai (1848 – 1959) trong đọa đày đói rét.
Năm mươi tuổi rồi, nơi xa xứ, Đô-xtôi-ép-xki “vẫn là người không tên, kẻ bị đọa đày”, vẫn phải “tiếp tục sống giữa giống người chấy rận trước khi vươn lên ánh sáng của niềm vinh quang đời đời”. Phải có một nghị lực phi thường, ông mới vượt qua được, dù có lúc “những thiếu thốn đã uốn còng lưng ông”, dù nhiều năm tháng “những quả chùy của bệnh tật càng giáng thường xuyên hơn xuống cân não ông”. Đúng Đô-xtôi-ép-xki là một người khổng lồ trong bể khổ: “Năm mươi tuổi, nhưng ông đã chịu hàng thế kỉ dằn vặt”.
Phần tiếp theo, bức chân dung của Đô-xtôi-ép-xki được Xvai-gơvex bằng gam màu sáng trong. Năm mươi hai tuổi, Đô-xtôi-ép-xki “được quyền trở về Tổ quốc”. Cũng như Giốp, con người đức hạnh trong Kinh thánh, Chúa Trời đã “ban phước lành” cho ông, “sứ mệnh phán bảo thế là kết thúc”. Trở về Xanh Pê-téc-bua, ông trở thành “sứ giả của xứ sở mình”. Và khi “Nhật kí của một nhà văn”, tiểu thuyết “Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp”, kiệt tác văn chương của ông chào đời, thì Tuốc-ghê-nhép, Tôn-xtoi “bị lu mờ”, cả nước Nga “đổ dồn mắt vào ông”.
Qua cơn bĩ cực tất sẽ đến ngày thái lai, Đô-xtôi-ép-xki cũng vậy, “sau tất cả những thử thách ông đã chịu, một giây hạnh phúc tuyệt đỉnh đã được ban cho ông”; đúng như vậy, ông càng thấm thía cái lẽ đời “hạt đã gieo xuống, mùa gặt sẽ vô tận”. Xvai-gơ đã dùng hình ảnh “Đức Chúa Trời ném cho ông một tia chớp” đưa Đô-xtôi-ép-xki “vào cõi vĩnh hằng”. Thật không có cách nói nào hay hơn, ý vị hơn.
Tác giả nhắc lại cái giây phủt hạnh phúc nhất, vinh quang nhất trong lễ kỉ niệm ngày sinh của Pu-skin, Đô-xtôi-ép-xki “trong niềm ngây ngất của quỷ dữ, ông vung lời như sấm sét”, ông báo trước “sứ mệnh thiêng liêng”của sự tổng hoà giải của nước Nga. Lời phát biểu của ông đã làm cho căn phòng “rung lên trong bùng nổ của hoan hỉ” đám đông cử toạ “quỳ xuống”, các bà “hôn bàn tay ông” một sinh viên “ngất xỉu dưới chân ông”,… Đó là giây phút hạnh phúc nhất của Đô-xtôi-ép-xki: “một vòng hào quang chói lọi bao quanh cái đầu của người bị hành khổ này.
Phần cuối bài viết, Xvai-gơ đã nói về đám tang của tác giả “Tội ác và trừng phạt”, đó là ngày 10 tháng 2 năm 1881, “khi quả đã được cứu thoát, vỏ khô rụng xuống”. Cả nước Nga “run rẩy lay động”, “đau đớn câm lặng tiếc thương”; “một làn sóng yêu thương cuồng nhiệt dâng lên từ mọi nơi của thành phố ngàn tháp chuông”. Phố Thợ Rèn nơi quàn linh cữu Đô-xtôi-ép-xki “đen nghịt người” cái giường ông nằm nghỉ “đầy hoa”, đám đông người “siết chặt” quan tài ông. “Giấc mơ thiêng liêng” của Đô-xtôi-ép-xki được thực hiện. Qua đám tang ông, những người Nga đã biểu thị sự đoàn kết, và họ đã “truyền sinh khí vào tác phẩm ông”. Cả một rừng cò? và đông đảo các tầng lớp nhân dân Nga, các vị vương tôn trẻ, các giáp trưởng, công nhân, sinh viên, sĩ quan, người hầu và người hành khất “đi bên nhau khóc người quá cố rất thân thiết đối với họ”, tất cả đều “đoàn kết lại trong một lời nguyền yêu thương và cảm phục”.
Cũng như Bét-thô-ven, Đô-xtôi-ép-xki qua đời “giữa dông bão”, làm dấy lên “tiếng sấm của sự nổi dậy rền vang”, toàn nước Nga “bị kích động dữ dội”, và khắp đất nước “những tia chớp báo thù rạch dọc ngang”… báo hiệu một thời kì bão táp sôi sục diễn ra.
Với một lối viết trang trọng và sắc sảo, ngưỡng mộ và tiếc thương, Xvai-gơ đã phác hoạ chân dung Đô-xtôi-ép-xki tuyệt đẹp, tưởng như ông đã dựng lên một bức tượng đồng kì vĩ, đã đưa nhà văn Nga lỗi lạc này vào cõi vĩnh hằng vinh quang.
Nghị lực phi thường, tài năng lỗi lạc đã tạo nên tầm vóc vĩ đại của văn hào Đô-xtôi-ép-xki. Con người của ông, văn chương của ông mãi mãi là nguồn sáng nhân văn vô tận. Ngôi sao của Thành phố ngàn tháp chuông ngày càng lung linh toả sáng.
Xtê-phan Xvai-gơ là một nhà văn người Áo, ngoài tác phẩm văn học, ông còn viết những phác thảo chân dung các nhà văn bậc thầy của thế giới. Nhờ sự giới thiệu của ông mà những chân dung và phong cách của các nhà văn này đến với người đọc một cách rõ ràng, gần gũi và thấu đáo. Bức chân dung Đô-xtôi-ép-xki được ông phác thảo, đã cho chúng ta hiểu rõ thêm số phận một nhà văn khốn khổ nhưng cũng đầy vinh quang của nước Nga.
Đô-xtôi-ép-xki là một nghệ sĩ lớn, một nhà tâm lí thiên tài, một nhà nhân văn sâu sắc. Đô-xtôi-ép-xki đã để lại những tác phẩm được coi là di sản văn hoá nhân loại. Câu nói nổi tiếng của ông: “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”, đã khẳng định giá trị của nghệ thuật trên con đường nhân đạo hoá đời sống con người.
Bài viết của Xvai-gơ đã phác hoạ khá rõ nét chân dung Đô-xtôi-ép-xki và những chấn động lớn lao mà ông đã đem đến cho thời đại mình: Tiếng sấm của sự nổi dậy rền vang.
Cuộc sống vật chất cùng quẫn
Phần mở đầu bài viết, Xvai-gơ đã miêu tả cuộc sống cùng quẫn vì đói nghèo của Đô-xtôi-ép-xki ở nước ngoài. Đô-xtôi-ép-xki từng bị Nga hoàng kết án tử hình vì những tư tưởng tự do, dân chủ và sau đó buộc phải sống lưu vong. Đó là một cuộc sống leo lét, cô đơn, đầy tủi nhục. Một cuộc sống vô danh, không ai biết, không ai trò chuyện: “Không một nhà văn Đức, Pháp hoặc I-ta-li-a nào nhớ lại là đã gặp ông, đã nói với ông”. Một cuộc sống tuyột vọng vì thiếu thốn: Ngày lại ngày chờ đợi ở ngân hàng cái tờ séc một trăm rúp; ông đã là người khách chuyên cần của hiệu cầm đồ. Một cuộc sống luôn bị chế nhạo, giễu cợt: Các nhân viên ngân hàng ra mặt chế nhạo lão điên nghèo và sự chờ đợi vĩnh viễn của lão. Một cuộc sống đầy tủi nhục vì phải cúi mình, nhịn nhục, xin xỏ, kêu van, than thở: tiếng kêu tuyệt vọng xé ruột. Một cuộc sống luôn trong tình thế bất trắc : ốm đau, vợ con nheo nhóc, hết tiền,… Những thiếu thốn đã uốn còng lưng ông ; những quá chuỳ của bệnh tật càng giáng thường xuyên hơn xuống não cân ông : nhiều ngày dài ông nằm trong một sự đờ đẫn hoàn toàn…
Đúng là kiếp sống của kẻ bị đoạ đày ở những xứ sở xa lạ, giữa giống người chấy rận. Chỉ bằng một vài nét phác hoạ, kvai-gơ đã diễn tả được cuộc sống cùng quẫn của Đô-xtôi-ép-xki giữa một thế giới châu Âu xa lạ, ngạt thở như trong một nhà ngục.
Những thành công đầy vinh quang
Sau tất cả những đớn đau, khốn khổ và tuyệt vọng, Đô-xtôi-ép-xki đã đạt được tột đỉnh của vinh quang.
Cội nguồn của sự vinh quang ấy, đầu tiên là vì tình yêu Tổ quốc. Như Xvai-gơ khẳng định: trái tim ông chỉ đập vì nước Nga, nhờ có lao động mà ông sống trong Tổ quốc mình. Ông luôn mong mỏi cố ngày trở về. Nước Nga, đó là tiếng gọi vĩnh cửu của niềm tuyệt vọng của ông.
Tiếp đến là một nỗ lực lao động không cùng trong nỗi thống khổ: Suốt đêm ông làm việc trong khi ở phòng bên vợ ông rên rỉ trong những cơn đau đẻ. Cơn động kinh chộp họng ông; chủ nhà không được trả tiền để doạ gọi canh sát,… Nhưng lao động đối với ông là sự giải thoát, giải thoát khỏi những dằn vặt về vật chất, giải thoát khỏi số phận lưu đày, là con đường quay về Tổ quốc, dù trước đây chính vì tác phẩm và những tư tưởng tự do của mình mà ông bị kết án và doạ đày ở nơi xa lạ như thế này. Lao động đã đem lại cho ông niềm vui sướng, mê say: Đó là rượu ngọt làm ông ngây nẹất, là niềm hoan lạc lớn lao nhất của ông
Kết quả của sức lao động kiên trì và mãnh liệt ấy, là một khối lượng tác phẩm văn học lớn, mà theo đánh giá của Xvai-gơ, là những tấc phẩm đồ sộ của thế kỉ XIX. Đó là những tác phẩm như: Tội ác và trừng phạt, Thằng ngốc, Lũ người quỷ ám, Con bạc, Nhật kí của một nhà văn, Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp,… mà trong đó Anh em nhà Ka-ra-ma-dốp là cuốn sách nghệ thuật hoàn hảo nhất.
Đô-xtôi-ép-xki đã được trở về nước Nga năm ông năm mươi hai tuổi. Cuối cùng, sự nghiệp và giá trị của các tác phẩm Đô-xtôi-ép-xki đã được toàn nước Nga công nhận: các sách của ông đã biện hộ cho sự nghiệp của ông ; Tuốc-ghê-nhép, Tôn-xtôi (những nhà văn lớn của nước Nga) bị lu mờ. Nước Nga chỉ còn đổ dồn mắt vào ông. Ông đã vươn lên ánh sáng rực rỡ của niềm vinh quang đời dời.
Thắng lợi của ông rực sáng như những tia chớp. Sự đón nhận ông ở nước Nga mới nồng nhiệt làm sao. Trong buổi lễ nhân dịp một trăm năm ngày sinh Pu-skin, Đô-xtôi-ép-xki đã phát biểu những lời như sấm sét, báo trước sứ mệnh thiêng liêng của sự tổng hoà giải của nước Nga. Những lời tiên đoán ấy được đám đông đón nhận nồng nhiệt, hứng khởi và kích động: đám đông quỳ xuống; căn phòng rung lên sự bùng nổ hoan hỉ; các bà hôn bàn tay ông, một sinh viên ngất xỉu dưới chân ông; tất cả những diễn giả khác từ chối không nói nữa.
Để nói về niềm vinh quang của Đô-xtôi-ép-xki khi được nước Nga đón nhận, Xvai-gơ sử dụng một loạt các điển tích tôn giáo, nhằm thiêng liêng hoá sứ mệnh và niềm vinh quang của Đô-xtôi-ép-xki: Đức Chúa Trời quay nhìn về phía Giốp (một người chịu nhiều bất hạnh nhưng cuối cùng đã được Chúa ban phúc lành); Đức Chúa Trời ném cho ông một tia chớp, soi sáng một cỗ xe rực lửa để đưa các tông đồ (người giúp việc của Chúa) vào cõi vĩnh hằng ; vòng hào quang chói lọi bao quanh cái đầu của người bị hành khổ này. Hình ảnh hạt đã gieo xuống, mùa gặt là vô tận. Thậm chí, buổi nói chuyện của Đô-xtôi-ép-xki cũng hột như buổi thuyết giáo của một nhà truyền giáo vĩ đại: Trong niềm ngất ngây của quỷ dữ, ông vung lời như sấm sét; Như bị hạ gục, đám dông quỳ xuống,…
Niềm vinh quang mà Đô-xtôi-ép-xki được đón nhận chính là vì các tác phẩm của ông đã tạo hình được thế giới tinh thần của chúng ta – con người.
Đám tang Đô-xtôi-ép-xki và sự đoàn kết dân tộc
Giây phút Đô-xtôi-ép-xki được chào đón và ngưỡng mộ cũng qua đi rất nhanh bởi ông đã nhanh chóng đi về nơi vĩnh hằng. Điểu đó đã được Xvai-gơ gọi một cách trang trọng, đầy hình ảnh: một phút ánh sáng rực rỡ để chứng tỏ rằng sứ mệnh đã hoàn thành, tác phẩm đã thắng lợi; rồi khi quả dã được cứu thoát, vỏ khô rụng xuống.
Khắp nước Nga, người người đều tiếc thương ông: Một cơn run rẩy lay dộng toàn nước Nga ; một phút đau đớn câm lặng, từ các thành phố xa xôi nhất, các đoàn đại biểu kéo đến để viếng ông; một làn sóng yêu thương cuồng nhiệt dâng lên từ mọi nơi của thành phố ngàn tháp chuông. Mọi người lấy đi hết các bông hoa trong tang lễ ông để làm kỉ niệm.
Đám tang của Đô-xtôi-ép-xki được tiến hành trọng thể. Chính tại đám tang, trong một tiếng đồng hổ, giấc mơ thiêng liêng của Đô-xtôi-ép-xki đã được thực hiện: sự đoàn kết của tất cả những người Nga. Đi sau quan tài ông là đủ mọi tầng lớp: các vương tôn trẻ, các giáp trưởng, công nhân, sinh viên, sĩ quan, người hầu và người hành khất. Dù theo đảng phái, tôn giáo, chính kiến gì đi nữa, nhưng họ đều gắn kết với nhau trong sự yêu thương và cảm phục con người đã suốt đời vì nước Nga, đã vẽ nên bộ mặt tinh thần Nga, đã đề cao tư tưởng tự do, dân chủ và đoàn kết, với mong muốn nước Nga của thế kỉ XIX thoát khỏi đói nghèo, bần cùng và lạc hậu. Đây chính là sự hoà giải của cả đất nước, dù trong chốc lát.
Chính vì vậy mà sau đám tang Đô-xtôi-ép-xki, cách mạng đã nổ ra: chế độ phong kiến đến lúc phải xoá bỏ. Tiếng sấm của sự nổi dậy rền vang: Nga hoàng bị ám sát. Cơn dông bão của cách mạng Nga đang đến. Phải chăng, tư tướng tự do, dân chủ và đoàn kết của Đô-xtôi-ép-xki cũng góp phần vào cuộc cách mạng ấy?
Một loạt hình ảnh: tiếng sấm rền vang, những tia chớp báo thù rạch dọc ngang khắp đất nước, cơn dông bão dữ dội,… đã khắc hoạ một cách trọn vẹn và ấn tượng những chấn động lớn lao mà Đô-xtôi-ép-xki đã đem lại cho thời đại mình.
Qua bài viết của Xvai-gơ, chúng ta hiểu được thế nào là một nhà văn vĩ đại. Đó là con người mà cuộc sống có thể khổ đau đến cùng cực, nhưng trái tim vẫn luôn đập vì Tổ quốc mình, vì số phận con người, và có những tác phẩm nghệ thuật có khả năng đoàn kết, tập hợp được mọi người dù chính kiến và tư tưởng có khác nhau, thậm chí mâu thuẫn. Có nghĩa là, tác phẩm và tư tưởng của nhà văn đó phải đụng chạm được đến những vấn để của con người, của nhân loại, những vấn đề chung mà ai cũng có thể đồng cảm và chia sẻ.