Văn mẫu lớp 12 Tập 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề bài: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung thành.

Bài làm

I. Mở bài

– Nguyễn Trung thành là nhà văn có duyên với vùng đất Tây Nguyên, ông có nhiều tác phẩm viết về mảnh đất này (tiểu thuyết Đất nước đứng lên, truyện ngắn Rừng xà nu, …).

Rừng xà nu – thiên sử thi Tây Nguyên thời kì chống Mĩ, tái hiện con đường đấu tranh giành tự do của con người Tây Nguyên anh dũng.

II. Thân bài

1. Hình tượng cây xà nu

– Là loài cây có sự gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên: gắn với sinh hoạt hằng ngày, gắn với sự kiện trọng đại của dân làng: lửa xà nu cháy trong bếp, đuốc xà nu cháy sáng để mài vũ khí, lửa xà nu soi rõ xác 10 thằng giặc, ….

– Loài cây chịu sự tàn phá dữ dội của chiến tranh: đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà nu, cả rừng xà nu không cây nào không bị thương. Mượn nỗi đau của cây xà nu để nói về nỗi đau của dân làng Xô Man.

– Loài cây có sức sống mãnh liệt: sinh sôi nhanh chóng “bên cạnh một cây xà nu ngã gục đã có 4,5 cây con mọc lên” (đầu tác phẩm), “cây mẹ ngã đã có cây con mọc lên”. Đó là hình ảnh biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ và sự nối tiếp của các thế hệ co người Tây Nguyên.

– Loài cây ham ánh sáng, như những người dân Tây Nguyên yêu tự do, có khát vọng sống mãnh liệt.

2. Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên

a. Nhân vật cụ Mết

– Ngoại hình: quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm, khỏe mạnh với “đôi bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, …mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.

– Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”, mỗi câu nói như một chân lí “không có gì mạnh bằng cây xà nu…”, “cán bộ là Đảng, … nước này còn”, “chúng nó cầm súng … cầm giáo”.

– Tích cách, phẩm chất: quả quyết, gan dạ, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, luôn yêu thương, che chở cho dân làng. Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên.

b. Nhân vật Tnú

– Từ nhỏ đã mang những nét tính cách phi thường: xung phong đi nuôi giấu cán bộ, từ nhỏ đã giác ngộ lí tưởng cách mạng, đi rừng rất tháo vát, nhanh nhẹn, bị giặc bắt mà không run sợ, chỉ tay và bụng “cộng sản đây này”.

– Khi trưởng thành, Tnú trở thành cán bộ cách mạng:

    + Có trái tim tràn đầy tình yêu thương: không chịu đựng được cảnh vợ con bị bắt giết, Tnú lao ra cứu nhưng bị bọn giặc bắt.

    + Là người cộng sản kiên cường, dũng cảm: giặc đốt 10 đầu ngón tay anh không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục” dùng đôi bàn tay của mình để cầm súng giết giặc, …

– Nhận xét: Tnú là người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên, là nòng cốt của cuộc kháng chiến, biết nén đau thương cá nhân vì lợi ích của cộng đồng.

c. Nhân vật Dít

– Là người con gái gan dạ, dũng cảm, có sức chịu đựng phi thường, biết nén đau thương để nung nấu ý chí trả thù: đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc, …

d. Nhân vật bé Heng

– Bé Heng dù nhỏ tuổi nhưng đã làm nhiệm vụ: thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng.

– “là lứa xà nu mới mọc nhưng đã nhọ hoắt như lưỡi lê”, hứa hẹn một sự vươn lên vững chắc.

– Nhận xét chung: họ là một tập thể anh hùng luôn nối tiếp những truyền thống tốt đẹp: giàu tình yêu thương, căm thù giặc sâu sắc, trung thành với cách mạng. Qua ho có thể thấy được phẩm chất và con đường cách mạng của người dân Tây Nguyên.

III. Kết bài

– Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đạm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, …

Rừng xà nu là một khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

Bài làm

    Nguyễn Trung Thành, một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông sáng tác trên nhiều mảng, truyện ngắn, kí,… ở mảng nào cũng có những tác phẩm xuất sắc. Nhắc đến ông ta không thể không nhắc đến truyện Rừng xà nu, một tác phẩm mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, in đậm dấu ấn phong cách của ông.

    Mở đầu tác phẩm, cũng như xuyên suốt câu chuyện này là hình tượng câu xà nu. Nhưng đồi xà nu, nối tiếp nhau đến tận chân trời, mở ra một không gian mênh mông, vô tận đầy sức sống, bạt ngàn, mạnh mẽ. Bằng hình tượng cây xà nu, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp đặc trưng, kỳ thú của mảnh đất Tây Nguyên. Đồng thời cây xà nu cũng chính là biểu tượng cho dân làng Xô Man.

    Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng, trong đời sống hàng ngày cho đến cả những sự kiện trọng đại. Kẻ thù tra tấn dữ dội Tnú, bằng cách tẩm dầu xà nu đốt mười đầu ngón tay của anh, xà nu đã trở thành vật dụng bị kẻ thù lợi dụng để hủy hoại dân Xô Man. Nhưng cây xà nu còn cho thấy sự thay đổi của dân làng Xô Man, từ chỗ không dám cầm vũ khí đến dám cầm vũ khí đứng lên chống lại quân giặc. Và trong đêm Tnú về thăm làng: đuốc xà nu dẫn người dân làng Xô Man trên khắp nẻo đường dồn về tập trung tại nhà Ưng, họ cầm ngọn lửa của mình để ném vào đống lửa giữa nhà, mọi người quây quần quanh đống lửa lớn để nghe cụ Mết kể về cuộc đời của anh Tnú.

    Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận, phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cả cánh rừng xà nu đầy thương tích, mỗi ngày giặc bắn đại bác hai lần, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng, hàng ngàn cây xa nu không cây nào không bị thương. Có những cây chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương nhựa ứa ra… bầm lại đen , quện thành cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi,… Hình ảnh cây xà nu bị thương cũng chính là biểu tượng cho những đau thương mất mát mà dân làng Xô Man phải gánh chịu. Dân làng đem cả tính mạng mình nuôi giấu cán bộ, chịu bao hi sinh, những vẫn đồng lòng bảo vệ cách mạng.

    Và rừng xà nu chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất tốt đẹp của dân làng Xô Man. Không có loài cây nào khao khát ánh sáng như xà nu, chúng có sức vươn lên mạnh mẽ, giống như sức sống tiềm tàng của người dân Tây Nguyên. Không chỉ vậy, chúng còn có sức sống bất diệt, không gì cỏ thể tiêu diệt được. Xây dựng hình tượng cây xà nu tác giả đã gián tiếp nói lên những phẩm chất anh hùng, cốt cách đẹp đẽ của con người Tây Nguyên, đồng thời cũng hé mớ cảnh cửa bước vào thế giới và khám phá con người nơi đây.

    Nổi bật nhất trong tác phẩm là nhân vật Tnú hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của con người Tây Nguyên. Ngay từ bé, Tnú đã tỏ ra là một cậu bé hết sức dũng cảm, cậu nuôi giấu cán bộ, sẵn sàng cầm đá đập vào đầu khi không học được. Khi làm nhiệm vụ cậu không đi đường bằng phẳng mà tìm những con đường rừng, lội qua thác mạnh, để địch không bắt được. Khi trưởng thành, đã là một chiến sĩ cách mạng, sự gan góc, dũng cảm càng được bộc lộ rõ hơn. Bị bắt giam, Tnú vượt ngục trở về, khi vợ con bị đe dọa tính mạng, Tnú sẵn sàng xông vào cứu vợ con. Và dù bị giặc tra tấn, Tnú không hề van xin, mà chịu đựng đau đớn cho đến cùng.

    Không chỉ vậy, Tnú còn là một người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã có tình yêu và niềm tin với cách mạng, cậu nuôi giấu cán bộ và mang trong mình mong muốn được trở thành chiến sĩ cách mạng để giải phóng bản làng. Tính kỉ luật của Tnú còn được thể hiện rõ trong việc tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, được nghỉ phép cậu chỉ về thăm làng đúng một đêm, sau đó ra đi ngay, dù trong lòng còn biết bao lưu luyến, bịn rịn.

    Nhưng bên trong một con người có vẻ bề ngoài sắt đá, có tính kỉ luật cao như vậy là lại người có trái tim yêu thương nồng nàn. Tình yêu đó được thể hiện trước hết là với buôn làng, Tnú lớn lên trong sự săn sóc của dân làng, bởi vậy Tnú coi mọi người như người thân của mình. Cũng chính vì vậy, dù thời gian nghỉ phép vô cùng ngắn ngủi Tnú vẫn háo hức trở về, xúc động khi được gặp lại mọi người và được ở trong vòng tay thân thương của những người cùng bản làng. Trái tim yêu thương đó càng được thể hiện rõ hơn với vợ con của anh. Khi Mai sinh con, anh không thể đi mua vải được anh đã xé đôi tấm dồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Và trong khoảnh khắc, nhìn thấy vợ con bị tra tấn dã man, không thể xông vào cứu, Tnú đau đớn đến tột cùng. Nhưng cuối cùng tình yêu thương vợ con vượt lên trên tất cả, tình cảm đã lấn át lí trí, Tnú đã lao vào cứu vợ con dù biết chắc mình có thể sẽ phải hi sinh. Bởi anh hiểu rằng, khi ấy vợ con cần anh biết nhường nào.

    Tình yêu thương càng nồng nàn thì lòng căm thù giặc càng sục sôi, sâu sắc. Tnú mang trong mình ba mối thú lớn: mối thù đầu tiên là với bản thân, sau lần bị giặc tra tấn, mỗi ngón tay đều cụt một đốt, lòng căm thù giặc trong Tnú càng trở nên sâu sắc hơn. Nhưng mối thù của bản thân vẫn không bằng mối thù của gia đình, vợ con anh – những người mà anh yêu thương nhất đã bị giặc tra tấn dã man và chết, điều đó sẽ ám ánh trong tâm can anh đến hết cuộc đời, khiến cho lòng căm thù giặc càng sục sôi hơn. Và cuối cùng là mối thù chung với dân làng, dân làng bị tan sát dã màn. Từ khối thù chung và riêng ấy đã thức tỉnh tinh thần chiến đấu trong Tnú.

    Hình tượng nhân vật Tnú là điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lí thời đại: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” – chủ động đánh giặc, muốn dành được độc lập chỉ có con đường duy nhất là đấu tranh vũ trang. Không chỉ vậy Tnú còn tiêu biểu cho vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

    Ngoài hình tượng nhân vật Tnú, tác phẩm còn nổi bật với tập thể anh hùng làng Xô Man. Mỗi người là một chiến sĩ, mang trong mình niềm tin với Đảng, với cách mạng và lòng trung thành với cách mạng. Nhưng bên cạnh những đặc điểm chung đó, mỗi người lại có những nét đẹp riêng. Trước hết là nhân vật cụ Mết, cụ là hiện thân của vẻ đẹp núi rừng và con người Tây Nguyên. Cụ Mết là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man, cụ lãnh đạo nhân dân, xây dựng làng Xô Man thành làng kháng chiến để đấu tranh lâu dài với giặc Mĩ. Không chỉ vậy, cụ còn giáo dục lòng yêu nước ở thế hệ sau, truyền nhiết huyết và quyết tâm giết giặc cho thế hệ trẻ. Dít và Heng có thể coi là thế hệ trẻ tiêu biểu của làng Xô Man. Dít mang trong mình sự gai góc, quyết đoán, sẽ là thế hệ tiếp bước cha ông xuất sắc.

    Tác phẩm mang tính sử thi Tây Nguyên đậm nét. Nghệ thuật xây dựng hình tượng đặc sắc, mỗi nhân vật có số phận và tính cách riêng, nhưng ở họ đều ngời sáng lòng yêu nước và dũng cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn : tác giả sử dụng kết cấu chuyện lồng trong chuyện: câu chuyện cuộc đời anh Tnú và chuyện của dân làng Xô Man. Ngôn ngữ trần thuật đậm chất Tây Nguyên, đem lại dấu ấn riêng cho tác phẩm.

    Tác phẩm là bài ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ, anh hùng. Không chỉ vậy Rừng xà nu còn là khúc tráng ca ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất anh hùng, bất khuất của người dân Tây Nguyên. Kết hợp với ngôn ngữ và lối kể chuyện hấp dẫn đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Bài làm

   Có thể coi Rừng xà nu là kết tinh nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành khi tài năng của ông ở độ viên mãn, tròn đầy nhất. Bởi vậy, đây cũng có thể coi là một trong những tác phẩm thành công nhất trong sự nghiệp văn chương cả ông. Rừng xà nu là một bản anh hùng ca về con người và rừng núi Tây Nguyên – đó là tập thể anh hùng, tập thể đứng lên dành tự do, độc lập cho chính mình.

   Truyện được mở đầu bằng một khung cảnh hết sức khốc liệt, nhưng lại được tác giả trần thuật bằng giọng điệu rất đỗi bình thản: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn.” Chỉ bằng một câu văn hết sức ngắn gọn nhưng tác giả đã khái quát được không khí chiến tranh vô cùng khốc liệt, sự sống luôn bị đe dọa hủy diệt bởi bom đạn và khói lửa chiến tranh. Để làm rõ sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh đối với thiên nhiên, Nguyễn Trung Thành đã rất kì công, dùng từng con chữ đậm chất tạo hình để tạo lên những hình khối đầy sức ám ảnh: “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. “Rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lonsh lánh vô số hạnh bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng” “cả rừng xa nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” . Nhưng dù bị tàn phá, hủy diệt như vậy, nhưng làng cũng như những cây xà nu không bao giờ bị hủy diệt, dù chúng có bị cắt làm đôi đi chẳng nữa. Cạnh những cây bị đốn đổ là “đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Sự vươn lên mạnh mẽ đó không chỉ đơn thuần là bản năng sinh tồn mà còn là khao khát mãnh liệt vươn lên ánh sáng, mà không có bất cứ thế lực nào có thể ngăn cản được.

   Có thể thấy rằng trong đoạn văn miêu tả cây xà nu tác giả sử dụng chủ yếu biện pháp nhân hóa, để làm nổi bật vẻ đẹp và sức sống kiên cường của loài cây này. Nhưng đồng thời đằng sau hình ảnh những cây xa nu ta còn thấy được bóng dáng của những con người nơi đây, những con người đang ngày đêm sống dưới tầm đại bác của giặc, cũng mang trong mình đầy thương tích nhưng họ chưa bao giờ khuất phục hay chịu gục ngã.

   Sau những trang văn miêu tả về rừng xà nu, theo dòng kể của cụ Mết, một trang lịch sử vô cùng hào hùng của dân làng Xô Man dần dần hiện lên. Những trang sử đấu tranh hào hùng của nhân dân Xô Man cũng như những cây xà nu kia không thể nào dấp tắt. Trước có cụ Mết, anh Xút, bà Nham. Tiếp nối có thế hệ của Tnú, Mai… Cứ thế các thế hệ nối tiếp nhau, kế tục truyền thống vẻ vang của buôn làng. Trong số những nhân vật đó, nổi bật nhất là nhân vật chính – Tnú.

   Trước khi trở thành một chiến sĩ cách mạng, ngay từ nhỏ Tnú đã bộc lộ mình là một người kiên định, có lí tưởng cách mạng. Để trở thành một chiến sĩ cách mạng trung kiên, điềm tĩnh nào ai có biết rằng, Tnú đã phải trải qua biết bao thử thách. Trước khi trở thành một người đàn ông trưởng thành Tnu đã là một cậu bé hết sức nóng dận, không nhớ được mặt chữ cậu sẵn sàng đập vỡ bảng, lấy đá ghè đầu. Nhưng lại cũng rất cầu tiến, sáng hôm sau gọi Mai phía sau để hỏi về những bài đã học. Những hành động ấy cho thấy sự ngoan cường, bền bỉ ngay từ tấm bé của chàng trai này. Và giữa hai con người đó đã nảy sinh mối tình vô cùng đẹp đẽ, kết tinh tình yêu của họ chính là đứa bẻ bụ bẫm, khỏe mạnh. Những tưởng rằng cuộc sống của họ sẽ viên mãn hạnh phúc. Nhưng chính lúc ấy hàng loạt biến cố, khiến cuộc đời Tnú chuyển sang một hướng khác.

   Trong một trận càn của giặc Tnú đã không bảo vệ được mẹ con Mai, tình yêu, tình mẫu tử chi trong một đêm đã hoàn toàn biến mất. Biến Tnú từ kẻ có tất cả trở thành trắng tay. Không chỉ vậy, chính bản thân Tnú cũng bị thương. Mười đầu ngón tay anh trở thành một ngọn đuốc lớn, rừng rực cháy sáng. Mai chết đi, đứa con dù được Mai cố gắng bảo vệ nhưng cuối cùng vẫn không thoát khỏi cái chết. Lòng căm phẫn trào dâng, đến lúc này Tnú không thể cứ mãi nấp trong bóng tối, “hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn” anh xông vào kẻ thù bằng sức mạnh vô cùng lớn. “Anh không biết đã làm gì. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng giặc tháo chạy vào nhà ưng”. Nhưng kết cục cũng vẫn không cứu được Mai. Giọng cụ Mết đến đây trầm xuống, như càng khắc sâu thêm vào tâm khảm Tnú nỗi đau bị mất gia đình, để anh không bao giờ quên mối thù với lũ người tàn ác. Sau khi gia đình mất, Tnú tiếp tục đi lực lượng, trở thành một chiến sĩ cách mạng kiên trinh và chính anh đã sử dụng bàn tay bị thương của mình để giết kẻ thù. Bởi vậy hình ảnh bàn tay là hình ảnh nghệ thuật đầy sức ám ảnh trong tác phẩm. Bàn tay ấy là biểu hiện rõ ràng nhất cho tội ác của kẻ thù. Đôi bàn tay ấy còn thể hiện sự kiên định trách nhiệm của một người chiến sĩ cách mạng. Đôi bàn tay yêu thương, dựng xây gia đình cùng Mai, vì gia đình sẵn sàng xông vào chỗ chết. Hơn cả đôi bàn tay ấy còn tượng trưng cho ý chí nghị lực kiên cường, dù bị khuyết thiếu vẫn có thể tiêu diệt kẻ thù.

   Tnú có thể coi là kết tinh sức mạnh và số phận của dân làng Xô Man cũng như của nhân dân Việt Nam. Anh vừa mang nỗi đau, mất mát , cũng như sự anh dũng chung của dân tộc. Nhưng đồng thời lại cũng có những nét hết sức khu biệt ở sự hôn hậu nồng thắm đậm chất Tây Nguyên. Những nét chung và riêng đó khiến cho tính chất biểu tượng của nhân vật càng được thể hiện rõ nét hơn.

   Ngoài nhân vật Tnú, ta cũng không thể không nhắc đến tập thể anh hùng – dân làng Xô Man. Cụ Mết là người trực tiếp chỉ huy mọi người đấu tranh. Cụ là con chim đầu đàn là người giữ lửa và truyền lửa cho thế hệ tương lai. Cụ chính là kho sử thi sống động, bồi đắp long yêu nước và long căm thù giặc cho những thế hệ tiếp bước. Hai nhân vật Dít và Heng tuy chỉ xuất hiện rất ít, những đó chính là những cây xà nu non, sinh sôi mạnh mẽ , tiếp bước thế truyền thống vẻ vang của cha anh.

   Bằng nghệ thuật xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc sắc, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên bức tranh người cảnh đẹp đẽ, anh dũng về nhân nhân Xô Man và núi rừng Tây Nguyên. Đây có thể coi là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đpẹ thiên nhiên và con người nơi đây.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung thành.

I. Mở bài

– Nguyễn Trung thành là nhà văn có duyên với vùng đất Tây Nguyên, ông có nhiều tác phẩm viết về mảnh đất này (tiểu thuyết Đất nước đứng lên, truyện ngắn Rừng xà nu, …).

– Rừng xà nu – thiên sử thi Tây Nguyên thời kì chống Mĩ, tái hiện con đường đấu tranh giành tự do của con người Tây Nguyên anh dũng.

II. Thân bài

1. Hình tượng cây xà nu

– Là loài cây có sự gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên: gắn với sinh hoạt hằng ngày, gắn với sự kiện trọng đại của dân làng: lửa xà nu cháy trong bếp, đuốc xà nu cháy sáng để mài vũ khí, lửa xà nu soi rõ xác 10 thằng giặc, ….

– Loài cây chịu sự tàn phá dữ dội của chiến tranh: đạn đại bác rơi vào ngọn đồi xà nu, cả rừng xà nu không cây nào không bị thương. Mượn nỗi đau của cây xà nu để nói về nỗi đau của dân làng Xô Man.

– Loài cây có sức sống mãnh liệt: sinh sôi nhanh chóng “bên cạnh một cây xà nu ngã gục đã có 4,5 cây con mọc lên” (đầu tác phẩm), “cây mẹ ngã đã có cây con mọc lên”. Đó là hình ảnh biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ và sự nối tiếp của các thế hệ co người Tây Nguyên.

– Loài cây ham ánh sáng, như những người dân Tây Nguyên yêu tự do, có khát vọng sống mãnh liệt.

2. Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên

   a. Nhân vật cụ Mết

– Ngoại hình: quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm, khỏe mạnh với “đôi bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, …mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.

– Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”, mỗi câu nói như một chân lí “không có gì mạnh bằng cây xà nu…”, “cán bộ là Đảng, … nước này còn”, “chúng nó cầm súng … cầm giáo”.

– Tích cách, phẩm chất: quả quyết, gan dạ, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, luôn yêu thương, che chở cho dân làng. Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên.

   b. Nhân vật Tnú

– Từ nhỏ đã mang những nét tính cách phi thường: xung phong đi nuôi giấu cán bộ, từ nhỏ đã giác ngộ lí tưởng cách mạng, đi rừng rất tháo vát, nhanh nhẹn, bị giặc bắt mà không run sợ, chỉ tay và bụng “cộng sản đây này”.

– Khi trưởng thành, Tnú trở thành cán bộ cách mạng:

    + Có trái tim tràn đầy tình yêu thương: không chịu đựng được cảnh vợ con bị bắt giết, Tnú lao ra cứu nhưng bị bọn giặc bắt.

    + Là người cộng sản kiên cường, dũng cảm: giặc đốt 10 đầu ngón tay anh không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục” dùng đôi bàn tay của mình để cầm súng giết giặc, …

– Nhận xét: Tnú là người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên, là nòng cốt của cuộc kháng chiến, biết nén đau thương cá nhân vì lợi ích của cộng đồng.

   c. Nhân vật Dít

– Là người con gái gan dạ, dũng cảm, có sức chịu đựng phi thường, biết nén đau thương để nung nấu ý chí trả thù: đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc, …

   d. Nhân vật bé Heng

– Bé Heng dù nhỏ tuổi nhưng đã làm nhiệm vụ: thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng.

– “là lứa xà nu mới mọc nhưng đã nhọ hoắt như lưỡi lê”, hứa hẹn một sự vươn lên vững chắc.

– Nhận xét chung: họ là một tập thể anh hùng luôn nối tiếp những truyền thống tốt đẹp: giàu tình yêu thương, căm thù giặc sâu sắc, trung thành với cách mạng. Qua ho có thể thấy được phẩm chất và con đường cách mạng của người dân Tây Nguyên.

III. Kết bài

– Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đạm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, …

– Rừng xà nu là một khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

   Nguyễn Trung Thành, một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông sáng tác trên nhiều mảng, truyện ngắn, kí,… ở mảng nào cũng có những tác phẩm xuất sắc. Nhắc đến ông ta không thể không nhắc đến truyện Rừng xà nu, một tác phẩm mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, in đậm dấu ấn phong cách của ông.

    Mở đầu tác phẩm, cũng như xuyên suốt câu chuyện này là hình tượng câu xà nu. Nhưng đồi xà nu, nối tiếp nhau đến tận chân trời, mở ra một không gian mênh mông, vô tận đầy sức sống, bạt ngàn, mạnh mẽ. Bằng hình tượng cây xà nu, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp đặc trưng, kỳ thú của mảnh đất Tây Nguyên. Đồng thời cây xà nu cũng chính là biểu tượng cho dân làng Xô Man.

    Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng, trong đời sống hàng ngày cho đến cả những sự kiện trọng đại. Kẻ thù tra tấn dữ dội Tnú, bằng cách tẩm dầu xà nu đốt mười đầu ngón tay của anh, xà nu đã trở thành vật dụng bị kẻ thù lợi dụng để hủy hoại dân Xô Man. Nhưng cây xà nu còn cho thấy sự thay đổi của dân làng Xô Man, từ chỗ không dám cầm vũ khí đến dám cầm vũ khí đứng lên chống lại quân giặc. Và trong đêm Tnú về thăm làng: đuốc xà nu dẫn người dân làng Xô Man trên khắp nẻo đường dồn về tập trung tại nhà Ưng, họ cầm ngọn lửa của mình để ném vào đống lửa giữa nhà, mọi người quây quần quanh đống lửa lớn để nghe cụ Mết kể về cuộc đời của anh Tnú.

    Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận, phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cả cánh rừng xà nu đầy thương tích, mỗi ngày giặc bắn đại bác hai lần, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng, hàng ngàn cây xa nu không cây nào không bị thương. Có những cây chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương nhựa ứa ra… bầm lại đen , quện thành cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi,… Hình ảnh cây xà nu bị thương cũng chính là biểu tượng cho những đau thương mất mát mà dân làng Xô Man phải gánh chịu. Dân làng đem cả tính mạng mình nuôi giấu cán bộ, chịu bao hi sinh, những vẫn đồng lòng bảo vệ cách mạng.

    Và rừng xà nu chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất tốt đẹp của dân làng Xô Man. Không có loài cây nào khao khát ánh sáng như xà nu, chúng có sức vươn lên mạnh mẽ, giống như sức sống tiềm tàng của người dân Tây Nguyên. Không chỉ vậy, chúng còn có sức sống bất diệt, không gì cỏ thể tiêu diệt được. Xây dựng hình tượng cây xà nu tác giả đã gián tiếp nói lên những phẩm chất anh hùng, cốt cách đẹp đẽ của con người Tây Nguyên, đồng thời cũng hé mớ cảnh cửa bước vào thế giới và khám phá con người nơi đây.

    Nổi bật nhất trong tác phẩm là nhân vật Tnú hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của con người Tây Nguyên. Ngay từ bé, Tnú đã tỏ ra là một cậu bé hết sức dũng cảm, cậu nuôi giấu cán bộ, sẵn sàng cầm đá đập vào đầu khi không học được. Khi làm nhiệm vụ cậu không đi đường bằng phẳng mà tìm những con đường rừng, lội qua thác mạnh, để địch không bắt được. Khi trưởng thành, đã là một chiến sĩ cách mạng, sự gan góc, dũng cảm càng được bộc lộ rõ hơn. Bị bắt giam, Tnú vượt ngục trở về, khi vợ con bị đe dọa tính mạng, Tnú sẵn sàng xông vào cứu vợ con. Và dù bị giặc tra tấn, Tnú không hề van xin, mà chịu đựng đau đớn cho đến cùng.

    Không chỉ vậy, Tnú còn là một người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã có tình yêu và niềm tin với cách mạng, cậu nuôi giấu cán bộ và mang trong mình mong muốn được trở thành chiến sĩ cách mạng để giải phóng bản làng. Tính kỉ luật của Tnú còn được thể hiện rõ trong việc tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, được nghỉ phép cậu chỉ về thăm làng đúng một đêm, sau đó ra đi ngay, dù trong lòng còn biết bao lưu luyến, bịn rịn.

    Nhưng bên trong một con người có vẻ bề ngoài sắt đá, có tính kỉ luật cao như vậy là lại người có trái tim yêu thương nồng nàn. Tình yêu đó được thể hiện trước hết là với buôn làng, Tnú lớn lên trong sự săn sóc của dân làng, bởi vậy Tnú coi mọi người như người thân của mình. Cũng chính vì vậy, dù thời gian nghỉ phép vô cùng ngắn ngủi Tnú vẫn háo hức trở về, xúc động khi được gặp lại mọi người và được ở trong vòng tay thân thương của những người cùng bản làng. Trái tim yêu thương đó càng được thể hiện rõ hơn với vợ con của anh. Khi Mai sinh con, anh không thể đi mua vải được anh đã xé đôi tấm dồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Và trong khoảnh khắc, nhìn thấy vợ con bị tra tấn dã man, không thể xông vào cứu, Tnú đau đớn đến tột cùng. Nhưng cuối cùng tình yêu thương vợ con vượt lên trên tất cả, tình cảm đã lấn át lí trí, Tnú đã lao vào cứu vợ con dù biết chắc mình có thể sẽ phải hi sinh. Bởi anh hiểu rằng, khi ấy vợ con cần anh biết nhường nào.

    Tình yêu thương càng nồng nàn thì lòng căm thù giặc càng sục sôi, sâu sắc. Tnú mang trong mình ba mối thú lớn: mối thù đầu tiên là với bản thân, sau lần bị giặc tra tấn, mỗi ngón tay đều cụt một đốt, lòng căm thù giặc trong Tnú càng trở nên sâu sắc hơn. Nhưng mối thù của bản thân vẫn không bằng mối thù của gia đình, vợ con anh – những người mà anh yêu thương nhất đã bị giặc tra tấn dã man và chết, điều đó sẽ ám ánh trong tâm can anh đến hết cuộc đời, khiến cho lòng căm thù giặc càng sục sôi hơn. Và cuối cùng là mối thù chung với dân làng, dân làng bị tan sát dã màn. Từ khối thù chung và riêng ấy đã thức tỉnh tinh thần chiến đấu trong Tnú.

    Hình tượng nhân vật Tnú là điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lí thời đại: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” – chủ động đánh giặc, muốn dành được độc lập chỉ có con đường duy nhất là đấu tranh vũ trang. Không chỉ vậy Tnú còn tiêu biểu cho vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

    Ngoài hình tượng nhân vật Tnú, tác phẩm còn nổi bật với tập thể anh hùng làng Xô Man. Mỗi người là một chiến sĩ, mang trong mình niềm tin với Đảng, với cách mạng và lòng trung thành với cách mạng. Nhưng bên cạnh những đặc điểm chung đó, mỗi người lại có những nét đẹp riêng. Trước hết là nhân vật cụ Mết, cụ là hiện thân của vẻ đẹp núi rừng và con người Tây Nguyên. Cụ Mết là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man, cụ lãnh đạo nhân dân, xây dựng làng Xô Man thành làng kháng chiến để đấu tranh lâu dài với giặc Mĩ. Không chỉ vậy, cụ còn giáo dục lòng yêu nước ở thế hệ sau, truyền nhiết huyết và quyết tâm giết giặc cho thế hệ trẻ. Dít và Heng có thể coi là thế hệ trẻ tiêu biểu của làng Xô Man. Dít mang trong mình sự gai góc, quyết đoán, sẽ là thế hệ tiếp bước cha ông xuất sắc.

    Tác phẩm mang tính sử thi Tây Nguyên đậm nét. Nghệ thuật xây dựng hình tượng đặc sắc, mỗi nhân vật có số phận và tính cách riêng, nhưng ở họ đều ngời sáng lòng yêu nước và dũng cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn : tác giả sử dụng kết cấu chuyện lồng trong chuyện: câu chuyện cuộc đời anh Tnú và chuyện của dân làng Xô Man. Ngôn ngữ trần thuật đậm chất Tây Nguyên, đem lại dấu ấn riêng cho tác phẩm.

    Tác phẩm là bài ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ, anh hùng. Không chỉ vậy Rừng xà nu còn là khúc tráng ca ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất anh hùng, bất khuất của người dân Tây Nguyên. Kết hợp với ngôn ngữ và lối kể chuyện hấp dẫn đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.

   Có thể coi Rừng xà nu là kết tinh nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành khi tài năng của ông ở độ viên mãn, tròn đầy nhất. Bởi vậy, đây cũng có thể coi là một trong những tác phẩm thành công nhất trong sự nghiệp văn chương cả ông. Rừng xà nu là một bản anh hùng ca về con người và rừng núi Tây Nguyên – đó là tập thể anh hùng, tập thể đứng lên dành tự do, độc lập cho chính mình.

    Truyện được mở đầu bằng một khung cảnh hết sức khốc liệt, nhưng lại được tác giả trần thuật bằng giọng điệu rất đỗi bình thản: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn.” Chỉ bằng một câu văn hết sức ngắn gọn nhưng tác giả đã khái quát được không khí chiến tranh vô cùng khốc liệt, sự sống luôn bị đe dọa hủy diệt bởi bom đạn và khói lửa chiến tranh. Để làm rõ sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh đối với thiên nhiên, Nguyễn Trung Thành đã rất kì công, dùng từng con chữ đậm chất tạo hình để tạo lên những hình khối đầy sức ám ảnh: “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. “Rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lonsh lánh vô số hạnh bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng” “cả rừng xa nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” . Nhưng dù bị tàn phá, hủy diệt như vậy, nhưng làng cũng như những cây xà nu không bao giờ bị hủy diệt, dù chúng có bị cắt làm đôi đi chẳng nữa. Cạnh những cây bị đốn đổ là “đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Sự vươn lên mạnh mẽ đó không chỉ đơn thuần là bản năng sinh tồn mà còn là khao khát mãnh liệt vươn lên ánh sáng, mà không có bất cứ thế lực nào có thể ngăn cản được.

    Có thể thấy rằng trong đoạn văn miêu tả cây xà nu tác giả sử dụng chủ yếu biện pháp nhân hóa, để làm nổi bật vẻ đẹp và sức sống kiên cường của loài cây này. Nhưng đồng thời đằng sau hình ảnh những cây xa nu ta còn thấy được bóng dáng của những con người nơi đây, những con người đang ngày đêm sống dưới tầm đại bác của giặc, cũng mang trong mình đầy thương tích nhưng họ chưa bao giờ khuất phục hay chịu gục ngã.

    Sau những trang văn miêu tả về rừng xà nu, theo dòng kể của cụ Mết, một trang lịch sử vô cùng hào hùng của dân làng Xô Man dần dần hiện lên. Những trang sử đấu tranh hào hùng của nhân dân Xô Man cũng như những cây xà nu kia không thể nào dấp tắt. Trước có cụ Mết, anh Xút, bà Nham. Tiếp nối có thế hệ của Tnú, Mai… Cứ thế các thế hệ nối tiếp nhau, kế tục truyền thống vẻ vang của buôn làng. Trong số những nhân vật đó, nổi bật nhất là nhân vật chính – Tnú.

    Trước khi trở thành một chiến sĩ cách mạng, ngay từ nhỏ Tnú đã bộc lộ mình là một người kiên định, có lí tưởng cách mạng. Để trở thành một chiến sĩ cách mạng trung kiên, điềm tĩnh nào ai có biết rằng, Tnú đã phải trải qua biết bao thử thách. Trước khi trở thành một người đàn ông trưởng thành Tnu đã là một cậu bé hết sức nóng dận, không nhớ được mặt chữ cậu sẵn sàng đập vỡ bảng, lấy đá ghè đầu. Nhưng lại cũng rất cầu tiến, sáng hôm sau gọi Mai phía sau để hỏi về những bài đã học. Những hành động ấy cho thấy sự ngoan cường, bền bỉ ngay từ tấm bé của chàng trai này. Và giữa hai con người đó đã nảy sinh mối tình vô cùng đẹp đẽ, kết tinh tình yêu của họ chính là đứa bẻ bụ bẫm, khỏe mạnh. Những tưởng rằng cuộc sống của họ sẽ viên mãn hạnh phúc. Nhưng chính lúc ấy hàng loạt biến cố, khiến cuộc đời Tnú chuyển sang một hướng khác.

    Trong một trận càn của giặc Tnú đã không bảo vệ được mẹ con Mai, tình yêu, tình mẫu tử chi trong một đêm đã hoàn toàn biến mất. Biến Tnú từ kẻ có tất cả trở thành trắng tay. Không chỉ vậy, chính bản thân Tnú cũng bị thương. Mười đầu ngón tay anh trở thành một ngọn đuốc lớn, rừng rực cháy sáng. Mai chết đi, đứa con dù được Mai cố gắng bảo vệ nhưng cuối cùng vẫn không thoát khỏi cái chết. Lòng căm phẫn trào dâng, đến lúc này Tnú không thể cứ mãi nấp trong bóng tối, “hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn” anh xông vào kẻ thù bằng sức mạnh vô cùng lớn. “Anh không biết đã làm gì. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng giặc tháo chạy vào nhà ưng”. Nhưng kết cục cũng vẫn không cứu được Mai. Giọng cụ Mết đến đây trầm xuống, như càng khắc sâu thêm vào tâm khảm Tnú nỗi đau bị mất gia đình, để anh không bao giờ quên mối thù với lũ người tàn ác. Sau khi gia đình mất, Tnú tiếp tục đi lực lượng, trở thành một chiến sĩ cách mạng kiên trinh và chính anh đã sử dụng bàn tay bị thương của mình để giết kẻ thù. Bởi vậy hình ảnh bàn tay là hình ảnh nghệ thuật đầy sức ám ảnh trong tác phẩm. Bàn tay ấy là biểu hiện rõ ràng nhất cho tội ác của kẻ thù. Đôi bàn tay ấy còn thể hiện sự kiên định trách nhiệm của một người chiến sĩ cách mạng. Đôi bàn tay yêu thương, dựng xây gia đình cùng Mai, vì gia đình sẵn sàng xông vào chỗ chết. Hơn cả đôi bàn tay ấy còn tượng trưng cho ý chí nghị lực kiên cường, dù bị khuyết thiếu vẫn có thể tiêu diệt kẻ thù.

    Tnú có thể coi là kết tinh sức mạnh và số phận của dân làng Xô Man cũng như của nhân dân Việt Nam. Anh vừa mang nỗi đau, mất mát , cũng như sự anh dũng chung của dân tộc. Nhưng đồng thời lại cũng có những nét hết sức khu biệt ở sự hôn hậu nồng thắm đậm chất Tây Nguyên. Những nét chung và riêng đó khiến cho tính chất biểu tượng của nhân vật càng được thể hiện rõ nét hơn.

    Ngoài nhân vật Tnú, ta cũng không thể không nhắc đến tập thể anh hùng – dân làng Xô Man. Cụ Mết là người trực tiếp chỉ huy mọi người đấu tranh. Cụ là con chim đầu đàn là người giữ lửa và truyền lửa cho thế hệ tương lai. Cụ chính là kho sử thi sống động, bồi đắp long yêu nước và long căm thù giặc cho những thế hệ tiếp bước. Hai nhân vật Dít và Heng tuy chỉ xuất hiện rất ít, những đó chính là những cây xà nu non, sinh sôi mạnh mẽ , tiếp bước thế truyền thống vẻ vang của cha anh.

    Bằng nghệ thuật xây dựng hình tượng nghệ thuật đặc sắc, Nguyễn Trung Thành đã dựng lên bức tranh người cảnh đẹp đẽ, anh dũng về nhân nhân Xô Man và núi rừng Tây Nguyên. Đây có thể coi là khúc tráng ca ca ngợi vẻ đpẹ thiên nhiên và con người nơi đây.

Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu

Bài làm

I. Mở bài

– Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với Tây Nguyên, một trong những tác phẩm thành công viết về mảnh đất này là Rừng xà nu.

– Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm: là người anh hùng kết tinh vẻ đẹp của cộng đồng.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh: Tnú vốn là đứa trẻ mồ côi, cha mẹ chết sớm, lớn lên trong sự đùm bọc, yêu thương của dân làng Xô Man, là đứa con chung của cộng đồng nên hội tụ vẻ đẹp cộng đồng.

2. Phẩm chất

a. Dũng cảm, gan dạ, kiên cường

– Lúc còn nhỏ:

    + Xung phong đi nuôi giấu cán bộ, từ nhỏ đã giác ngộ lí tưởng cách mạng (trước đó những người bị làm nhiệm vụ này đã bị sát hại dã man: anh Sút, bà Nhan), giác ngộ lí tưởng Đảng.

    + Tnú học chữ thua Mai, nhưng khi anh Quyết nói, Tnú cầm đá đập vào đàu mình để nêu cao quyết tâm, Tnú ý thức sâu sắc về nhiệm vụ của mình mà cố gắng học.

– Đi rừng rất tháo vát, nhanh nhẹn, bị giặc bắt mà không run sợ, chỉ tay và bụng “cộng sản đây này”, khi bị tra tấn Tnú vẫn kiên cường, vẫn trung thành với Đảng.

– Khi trưởng thành:

    + Sau khi Tnú vượt ngục trở về, anh Quyết đã hi sinh, Tnú đã thay anh lãnh đạo dân làng Xô Man chuẩn bị vũ khí đánh giặc.

    + Khi chứng kiến vợ con bị tra tấn, anh đã xông vào cứu vợ con.

    + Tnú bị bắt, bị đốt 10 đầu ngón tay, Tnú không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục”, …

b. Sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, tính kỉ luật cao,

– Còn nhỏ đã tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng “Cán bộ là Đảng, Đảng … này còn”.

– Sau đêm kinh hoàng (vợ con bị giết), anh không bi quan mà gia nhập lực lượng giải phóng quân trả thù cho dân làng, gia đình.

– Khi lập được chiến công, được nghỉ 1 ngày phép về thăm làng, anh đã chấp hành đúng quy định.

c. Có trái tim yêu, sục sôi căm giận

– Khi tham gia lực lượng giải phóng quân, anh rất nhớ nhà, nhớ quê hương, chỉ được về một đêm anh vẫn trở về.

– Là người chồng người cha hết lòng yêu thương vợ con: không chịu đựng được cảnh vợ con bị bắt giết, Tnú lao ra cứu, dang hai cánh tay ôm lấy vợ con, nhưng anh vẫn bị bọn giặc bắt.

– Yêu thường nồng nàn thì căm thù càng sâu sắc: ở Tnú có 3 mối thù lớn là mối tù của bản thân (2 lần bị giặc tra tấn, lưng còn nhiều vết sẹo, bàn tay cụt đốt), mối thù gia đình (vợ con bị giết), mối thù của buôn làng.

d. Hình ảnh đôi bàn tay:

    + Bàn tay yêu thương: anh Quyết nắm lấy tay Tnú, Mai nắm lấy tay Tnú khi anh trở về, …

    + Bàn tay đau thương (chứng kiến cảnh vợ con chết, chịu sự tra tấn của kẻ thù)

    + Bàn tay căm thù: chứng tích của lòng hận thù

    + Bàn thay báo thù: giết giặc trả thù cho Mai, cho con, cho dân làng Xô Man

    + Là nhân chứng cho con đường của dân làng Xô Man: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”

– Nhận xét: câu chuyện bi tráng của cuộc đời Tnú là sự thể hiện đầy đủ nhất cho chân lí lịch sử “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”, phải vùng lên đấu tranh vũ trang mới có thể chiến thắng.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về nhân vật: Tnú có số phận đau thương nhưng anh đã vượt qua nỗi đau để chiến đấu, bảo vệ hạnh phúc cộng đồng.

– Nghệ thuật: xây dựng hình tượng nhân vật bằng bút pháp lí tưởng hóa, đậm chất sử thi, với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, …

– Tác phẩm là một khúc sử thi bi tráng, ngợi cả vẻ đẹp của những con người núi rừng Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ.

Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu

Bài làm

    Tnú là nhân vật trung tâm trong phẩm Rừng xà nu, đây là hình tượng nổi bật nhất, làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tnú vừa là đại diện số phận, vừa là kết tinh của lòng yêu nước và những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Tây Nguyên. Dù chỉ trong dung lượng ngắn ngủi, nhưng bằng nội lực dồi dào, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng Tnú.

    Tnú sớm mồ côi cha mẹ và lớn lên nhờ sự cưu mang của dân làng, bởi vậy Tnú là con của buôn làng, của núi rừng. Bởi vậy, tất cả những hành động anh hùng, dũng cảm của Tnú sau này đều là tình yêu thương và sự tri ân mà anh cho nguồn cội đã nuôi dưỡng, che chở cho mình.

    Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng Tnú sớm bộc lộ những phẩm chất đẹp đẽ. Tnú giác ngộ cách mạng từ sớm, cậu sớm nuôi giấu cách mạng từ khi còn nhỏ. Không chỉ vậy Tnú còn hết sức dũng cảm, gan dạ, điều này được thể hiện trong cả cuộc sống cũng như khi hoạt động cách mạng. Trong cuộc sống, Tnú không bao giờ chọn chỗ bằng phẳng, dễ dàng để đi, mà lựa những chỗ thác mạnh bơi ngang, vượt lên mặt nước… Đặc biệt lòng dũng cảm được thể hiện rất rõ trong cách mà anh đối diện với kẻ thù. Khi bị giặc bắt trên đường liên lạc, Tnú lập tức nuốt thư vào bụng, thách thức sự đánh đập, tra tấn dã man của địch. Mặc dù tỏ ra lì lợm, ít nói, nhưng Tnú lại là một người giàu tình cảm và lòng yêu thương. Trong đêm anh Quyết ôm Tnú vào lòng, dù giả vờ ngủ nhưng những dòng nước mắt đã đong đầy nơi mắt. Những giọt nước mắt đó cho thấy sự nhận thức cũng như sự trào dâng lòng yêu nước mãnh liệt.

    Khi đi lực lượng trở về lòng yêu nước, cũng như sự dũng cảm của Tnú càng được bộ lộ rõ hơn nữa. Ba năm rèn rũa, hoạt động cách mạng, đã tôi luyện và làm cho Tnú thực sự trưởng thành. Kết duyên với Mai, Tnú là trụ cột của gia đình đồng thời sau khi đi lực lượng về Tnú còn là trụ cột của dân làng Xô Man. Chính Tnú là người đã đi gùi đa về cho dân làng mài vũ khí. Tnú đã thổi bùng và mài sắc tinh thần đấu tranh, ý thức phản kháng để chống lại đế quốc Mĩ. Từ sự dũng cảm trong cá nhân mà Tnú đã khơi dậy và biến Tây Nguyên thành mảnh đất anh hùng.

    Việc dân làng Xô Man mài vũ khí đã trở thành mối đe dọa với kẻ thù, bởi vậy chúng đã kéo đến làng hòng đàn áp. Và nhằm bắt được Tnú chúng đã bắt Mai và đứa con mới sinh của Tnú để uy hiếp anh. Chứng kiến vợ và con oằn mình chống lại những cơn mưa roi của kẻ thù, Tnú không thể kiềm chế đã xông ra để cứu vợ con dù biết chắc mình sẽ rơi vào cái bẫy của kẻ thù. Nỗi đau của những người thân, đã thổi bùng trong Tnú ngọn lửa căm thù: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn” đó là ngọn lửa lòng căm hận sâu sắc, đó cũng là khơi nguồn sức mạnh trong Tnú.

    Nhưng dù mang trong mình sức mạnh Tnú cũng không thể cứu được vợ con, dưới con mưa roi tàn ác của kẻ thù, hai mẹ con Mai đã chết, đây là bi kịch, nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời Tnú. Không bảo vệ được gia đình, mà chính Tnú cũng phải chịu sự tra tấn, hành hạ dã man. Kẻ thù thâm độc, đã sử dụng nhựa cây xà nu để đốt cháy những ngón tay anh. Hình thức tra tấn dã man, không để Tnú chết một cách nhanh chóng mà bắt anh chịu đựng nỗi đau về thể xác. Mười đầu ngón tay của Tnú trở thành ngon đuối rực sáng. Nhưng khi nỗi đau đã vượt ngoài giới hạn chịu đựng, anh không còn cảm thấy đau nữa: “Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón nay nữa … Nhưng trời ơi! Cháy, chết cả ruột gan đây rồi”. Sử dụng câu cảm thán với điệp từ đã diễn tả chân thực nỗi đau của Tnú phải chịu đựng. Nhưng đối lập với nỗi đau này là khả năng chịu đựng phi thường. Nếu ở trên tội ác của kẻ thù được tô đậm bao nhiêu thì ở dưới sự kiên trung bất khuất của Tnú được nhấn mạnh bấy nhiêu. Chính lúc tưởng như không thể chịu đựng được Tnú nghĩ đến đảng, cách mạng, lời hứa của mình với kháng chiến. Đó chính động lực tiếp thêm sức mạnh để Tnú vượt qua thử thách này.

    Chính nỗi đau đó là chất xúc tác mạnh mẽ làm bật lên quyết tâm và sức mạnh của Tnú. Ngọn tử lan dần ra mười đót cả mười ngón tay, rồi thấu tận tâm can Tnú. Chính lúc này ngọn lửa đã gặp lòng yêu nước, lòng căm thù giặc làm bật lên ý chí chiến đấu và tinh thần quật khởi ở Tnú thong qua tiếng thét dữ dội: “Giết”. Tiếng thét của Tnú là mệnh lệnh tiến công, là kết tinh từ ý chí, nguyện vọng chung của cộng đồng.

    Sau khi bị tra tấn dã man, Tnú tiếp tục đi lực lượng, trở lại hoạt động cách mạng, dù mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt, anh vẫn hoạt động bên bỉ, anh dũng. Đến cuối tác phẩm, tác giả đã ghi lại chiến công hiển hách của Tnú khi chỉ bằng đôi tay ấy anh đã giết chết tên chỉ huy địch. Đôi bàn tay Tnú là một hình tượng nghệ thuật ám ảnh, giàu sức biểu tượng. Đó là đôi bàn tay tín nghĩa, trách nghiệm khi bỏ thư vào miệng, bảo đảm bí mật cách mạng. Là đôi bàn tay tình nghĩa khi cầm lấy tay Mai để tạo dựng hạnh phúc gia đình, để yêu thương, bao bọc mẹ con Mai khi bị giặc tra tấn. Đôi bàn tay còn là biểu tượng của những chiến công, khi Tnú giết chết tên chỉ huy giặc. Để Tnú giết chết tên giặc bằng đôi bàn tay đã bị hủy hoại, tác giả đã cho thấy kẻ thù có thể hủy hoại thể xác nhưng không thể hủy hoại lòng căm thù giặc, cũng nhưng quyết tâm đánh giặc của nhân dân ta. Qua hình ảnh đôi bàn tay Nguyễn Trung Thành viết lên số phận, tâm hồn, con đường đi của cả cộng đồng Tây Nguyên.

    Nhân vật Tnú kết tinh đầy đủ số phận đau thương, tinh thần quật khởi và những phẩm chất tốt đẹp của người dân Tây Nguyên. Ở anh vừa có vẻ đẹp và những đặc điểm chung của người chiến sĩ cộng sáng lại vừa có điểm riêng khỏe khoắn, hồn hậu và có phần hoang dã, do mảnh đất Tây Nguyên hun đúc mà thành. Bước ra từ câu chuyện của cụ Mết, Tnú như một người anh hùng trong sử thi, được người dân yêu quý. Nhưng người anh hùng đó không xa xôi mà hòa nhập, gần gũi, bắt nhịp vào thời đại mới, mang sức mạnh của dân tộc.

    Bằng ngòi bút miêu tả tinh tế, ngôn ngữ chân thực Nguyễn Trung Thành đã tái tạo thành công hình tượng người anh hùng Tnú. Nhân vật vừa thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, tinh thần cách mạng sục sôi, vừa giúp tác giả truyền tải những chân lí của người đại: trong thời đại bão táp cách mạng, cần dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự giác. Đó là những chân lí đúng đắn ta đã ra rút trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.

Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu

Bài làm

   Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành chấp bút vào năm 1965 khi đế quốc Mĩ xâm lược miền Nam nước ta. Tác phẩm là câu chuyện về mảnh đất anh hùng, con người Tây Nguyên anh hùng. Vả nổi bật nhất trong tập thể anh hùng đó ta không thể không nhắc đến nhân vật Tnú.

   Tnú là nhân vật hội tụ đầy đủ nhất những vẻ đẹp phẩm chất và tính cách của con người Tây Nguyên. Ở nhân vật này vừa có những nét chung nhưng đồng thời lại có những đường nét hết sức khu biệt, tạo nên một chân dung anh hùng hoàn hảo. Nhân vật Tnú được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những nét độc đáo, giàu tình chất sử thi. Tính sử thi đó được biểu hiện rõ nhất trong cuộc đời anh. Cuộc đời anh nhìn qua tưởng đó là cuộc đời riêng nhưng kì thực lại là đại diện cho số phận của cộng đồng. Cuộc đời Tnú gắn với những sự kiện lớn của cộng đời, từ đó là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất và số phận nhân dân Tây Nguyên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

   Vẻ đẹp đầu tiên có thể nhận thấy ở nhân vật này chính là sự kiên cường, gan góc, dũng cảm. Điều này là bản chất, ăn sâu trong cốt cách của Tnú. Ngay từ tấm bé bản chất này của anh đã dần dần được bộc lộ. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Tnu đã dũng cảm nuôi giấu bộ đội trong rừng. Hàng ngày chuyển thư liên lạc. Trong quá trình đi liên lạc, Tnú thường “xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt” bởi những con đường đó mới an toàn, tin tức mới không bị kẻ thù bắt được. Tnú và Mai cùng học với nhau, nhưng Tnú học chữ chậm, cảm thấy vô cùng tức giận với bản thân, đã lấy đá đập vào đầu đến nỗi chảy mà ròng ròng. Ngay cả khi bị giặc bắt, giặc tra tấn, sự kiên cường đó vẫn không hề thuyên giảm, anh quyết không khai, mà chỉ vào bụng mình mà nói “cộng sản ở đây”. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng khí chất kiên trung, dũng cảm của con người ấy đã được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ.

   Những biến cố trong cuộc sống, dần dà lớn lớn, sự dũng cảm trong Tnú cũng ngày càng được biểu lộ rõ hơn. Khi vợ con bị tra tấn, hành hạ, lòng Tnú đau như cắt, và đến giây phút cuối cùng không thể nhẫn nhịn được nữa, Tnú đã đi ra để cứu hai mẹ con. Tay của Tnú bị đốt cháy bùng bùng, nhưng anh không hề cảm thấy đau đớn, không hề kêu than. Ấy chính là sự gan dạ, dũng cảm và kiên cường của Tnú.

   Không chỉ vậy, anh cũng là người hết sức kỉ luật. Thời gian nghỉ phép ít ỏi, chỉ có một ngày, nhưng anh vẫn hết sức thu xếp công việc trở về thăm bản làng, thăm mọi người. Và sáng sớm ngày hôm sau Tnú từ biệt mọi người lên đường. Anh là người tôn trọng kỉ luật của đơn vị, chấp hành kỉ luật của buôn làng. Ý chí kiên cường, hết lòng hi sinh vì sự nghiệp lớn đã giúp anh chiến thắng sự mềm yếu trong lòng, để hướng đến một sự nghiệp lớn hơn.

   Ngoài ra, Tnú còn là người biết vượt lên những đau khổ, bi kịch của cá nhân để sống một cuộc đời tốt đẹp, có ý nghĩa hơn. Trong cuộc đời Tnú đau đớn nhất không phải là giây phút không học được chữ, đập đầu vào đá, cũng không phải là giây phút bị giặc bắt và truy hỏi. Mà đau đớn nhất là khi thấy vợ con mình bị hành hạ mà bất lực không thể làm gì khác. Nhìn cảnh Mai vì che chắn cho đứa con mà không biết bao lần phải chịu đòi roi của kẻ thù, có lẽ long Tnú đau thắt lại và nhất là khi đứa con bé bỏng, vô tội của anh bị đánh, chết ngất đi. Đến lúc này nỗi đau đớn, sự căm thù đã dồn nén bấy lâu bùng phát dữ dội. Không chỉ vợ con, mà chính anh cũng là nạn nhân của những đòn tra tấn dã man đó. Chúng quấn dẻ và nhựa vào mười đầu ngón tay anh, đốt cháy như một ngọn đuốc. Nhưng dù bị đốt cháy, dù gia đình li tán nhưng Tnú vẫn kiên cường vượt qua mọi mất mát, thương tổn. Dùng khả năng của bản thân đi bộ đội, để giết giặc trả thù cho bản thân, cho gia đình, lớn hơn là cho những người bỏ mạng dưới sự độc ác của kẻ thù. Nếu không phải là người có nghị lực, bản lĩnh thì có lẽ đã suy sụp mà không sống nổi.

   Ngoài ra anh còn là một con người giàu tình nghĩa. Những ngày còn nhỏ, anh hết long với cách mạng, gắn bó và nghe lời anh Quyết. Anh chăm chỉ học hành cũng chỉ bởi một câu anh Quyết nói “không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi”. Chỉ với câu nói đó thôi nhưng đã truyền bao sức mạnh cho anh. Khi nhìn vợ con bị ành hạ, dù không cứu được nhưng Tnú vẫn anh dũng xông ra, để đánh giặc, đây chính là biểu hiện của tình yêu thương sâu sắc. Không chỉ vậy, anh là một đứa trẻ mồ côi, được dân làng nuôi lớn, bởi vậy ngày nghỉ phép tuy ngắn ngủi nhưng Tnú vẫn tranh thủ về thăm buôn làng, thăm mọi người.

   Tnú là kết tinh nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nhân vật được xây dựng trên khung nền sử thi kì vĩ. Bởi vậy nhân vật cũng chình là đại diện cho số phận của cộng đồng. Tuy mang nhưng bản thân Tnú vẫn có những nét khu biệt, chính điều đó đã đem lại sự mới mẻ cho hình tượng và sự thành công cho tác phẩm.

Đề bài: Phân tích nhân vật Tnú – một dũng sĩ phi thường của làng Xô Man thời kháng chiến chống Mĩ (Truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành)

Bài làm

    “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một kiệt tác văn chương thời chống Mĩ in đậm khuynh hướng sử thi hào hùng.

    Trong thế trận chiến tranh nhân dân thần kì của làng Xô Man, nhân vật Tnu mang tầm vóc một dũng sĩ phi thường đã để lại trong lòng ta nhiều rung cảm và ngưỡng mộ.

    Có thể nói, nhân vật trung tâm của truyện “Rừng xà nu” là Tnú. Trong nhà ưng, xung quanh bếp lửa hồng, một đêm mưa có mặt đông đủ lũ làng, cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú giới thiệu: “… nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm… Nó là ngời Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng “bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Tnú vốn là một chú bé giàu cá tính. Ở trong rừng học chữ với anh Quyết, nó học không bằng Mai…, nó nổi nóng “đập bể cái bảng nứa…”, bỏ ra ngồi ngoài suối suốt ngày, rồi nó cầm một hòn đá “tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Chữ thì Tnú hay quên, nhưng đi rừng, đi đường núi thì “đầu nó sáng lạ lùng”. Giặc vây ráp, phục kích, Tnú trèo lên cây cao nhìn khắp mọi phía, “xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”. Vượt sông vượt suối, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, nó “cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”, và Tnú biết, “qua chỗ nước êm thằng Mĩ-Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Khi chẳng may sa vào tay giặc, họng súng của thằng giặc phục kích “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú đã nhanh trí “nuốt luôn cái thư” của anh Quyết gửi về huyện trong một ngọn lá dong. Lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của bọn giặc, nhưng Tnú vẫn bất khuất hiên ngang. Ba năm bị tù trong ngục Kông Turn, Tnú đâ vượt ngục trở về. Tnú đã đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh tử thương. Anh Quyết đã dặn? “Tnú phải học chữ giỏi, thay tui làm cán bộ”. Lần thứ hai, Tnú lại lên núi Ngọc Linh, không phải đi lấy đá trắng về làm phấn như ba năm trước, mà là đi lấy một gùi đá mài. Làng Xô Man đã chuẩn bị khởi nghĩa: phát rẫy trồng pom-chu xanh cả núi rừng, đêm đêm cả làng thức, mài giáo mác. Tnú đã trở thành chỉ huy đội du kích, làm cho thằng Dục ác ôn lồng lên, gầm lên. “Con cọp đó mà không giết sớm, nó làm loạn rừng núi này rồi!”. Vợ con anh đã bị giặc bắt, tra tấn dã man cho đến chết. Tnú cùng đội du kích rút vào trong rừng, anh đã nghiến răng “bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”. Đôi mắt của anh trở thành “hai cục máu lớn”. Thương xót và căm thù tột độ, Tnú không kìm nổi lòng mình nữa, với hai bàn tay không, anh đã nhảy xổ vào lũ giặc mong cứu được vợ con. Tnú là một con người gang thép. Lũ giặc đã trói anh bằng dây rừng, dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay Tnú. Ngọn lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu mặn chát ở đầu lưỡi “cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi? Cháy, không, Tnú sẽ không kêu? Không?” Ngọn lửa xà nu và độ nóng của nó đã soi sáng lòng trung thành vô hạn, đã tôi luyện khí phách lẫm liệt của Tnú lên tầm vóc phi thường vĩ đại? Khi Tnú thét lên một tiếng dữ dội cũng là lúc tiếng chân “rầm rập” quanh nhà ưng, nhiều tiếng thét dữ dội hơn… Nhà ưng ào ào chuyển động. Tiếng hô của cụ Mết vang lên: “Chém! Chém hết!”. Và lửa đã cháy khắp rừng…

    Mẹ con Mai đã bị giặc giết. Lưng Tnú đầy vết dao của giặc chém. Mười ngón tay của anh, ngón nào cũng bị thằng Dục đốt cháy mất một đốt. Bà Nhan, anh Xút, anh Quyết,… những người thân yêu của anh đã bị giặc giết. Vết thương lành, Tnú đi tìm cách mạng, đi Giải phóng quân để tìm diệt những thằng Dục ác ôn, đứa thì ở trong đốn, đứa thì ngoan cố chui xuống hầm ngầm…

    Tnú còn có một tâm hồn đẹp, chất phác, trong sáng. Tâm hồn anh vẫn ôm ấp hình bóng quê hương. Sau ba năm đi Giải phóng quân đánh giặc về thăm làng một đêm, cái gốc cây bên đường gợi lên trong lòng anh một kỉ niệm về Mai, “kỉ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nứa”. Tnú yêu làng, yêu những hố chông, những giàn thò sắc lạnh của làng anh, yêu con nước mát lạnh,… Anh nhớ nhất làng, nhớ day dứt lòng anh suốt ba năm chính là “tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi…”.

    Tnú mang tẩm vóc như một dũng sĩ trong sử thi. Lòng trung thành, khí phách anh hùng, tinh thần lẫm liệt bất khuất của Tnú làm chúng ta ngưỡng mộ; tâm hồn chất phác, trong sáng, thủy chung của anh đã làm cho chúng ta xúc động, yêu thương. Nguyễn Trung Thành xây dựng nhân vật Tnú bằng tất cả sự chắt lọc tâm hồn, tưởng như ông không viết, ông không tả… mà hình như, ông là một nghệ sì đúc tượng Tnú, một anh hùng thời đại bằng một chất liệu siêu kim loại!

    “Rừng xà nu” là một truyện ngắn thấm đẫm màu sắc sử thi, huyền thoại. Hình thức kể chuyện qua nhân vật cụ Mết già làng gợi lên không khí thiêng liêng cổ truyền. Mái nhà ưng là nơi tụ hội của dân làng Xô Man, cũng là nơi để họ trừng trị lũ ác ôn khát máu, lũ tay sai Mĩ-Diộm. Rừng động, lửa cháy, tiếng cồng âm vang, đại bác giặc, cây xà nu đổ ào ào như một trận bão, tiếng mài giáo mác… Tất cả thật hào hùng, bi tráng. “Rừng xà nu”đã nêu cao một chân lí cách mạng: “rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy. Sau này tao chết rồi,bay còn sống phải cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Qua chủ đề ấy, cây xà nu, Tnú và những người dân làng Xô Man hiện lên mang tầm vóc dũng sĩ, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh.

Đề bài: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu

I. Mở bài

– Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với Tây Nguyên, một trong những tác phẩm thành công viết về mảnh đất này là Rừng xà nu.

– Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm: là người anh hùng kết tinh vẻ đẹp của cộng đồng.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh: Tnú vốn là đứa trẻ mồ côi, cha mẹ chết sớm, lớn lên trong sự đùm bọc, yêu thương của dân làng Xô Man, là đứa con chung của cộng đồng nên hội tụ vẻ đẹp cộng đồng.

2. Phẩm chất

   a. Dũng cảm, gan dạ, kiên cường

– Lúc còn nhỏ:

    + Xung phong đi nuôi giấu cán bộ, từ nhỏ đã giác ngộ lí tưởng cách mạng (trước đó những người bị làm nhiệm vụ này đã bị sát hại dã man: anh Sút, bà Nhan), giác ngộ lí tưởng Đảng.

    + Tnú học chữ thua Mai, nhưng khi anh Quyết nói, Tnú cầm đá đập vào đàu mình để nêu cao quyết tâm, Tnú ý thức sâu sắc về nhiệm vụ của mình mà cố gắng học.

– Đi rừng rất tháo vát, nhanh nhẹn, bị giặc bắt mà không run sợ, chỉ tay và bụng “cộng sản đây này”, khi bị tra tấn Tnú vẫn kiên cường, vẫn trung thành với Đảng.

– Khi trưởng thành:

    + Sau khi Tnú vượt ngục trở về, anh Quyết đã hi sinh, Tnú đã thay anh lãnh đạo dân làng Xô Man chuẩn bị vũ khí đánh giặc.

    + Khi chứng kiến vợ con bị tra tấn, anh đã xông vào cứu vợ con.

    + Tnú bị bắt, bị đốt 10 đầu ngón tay, Tnú không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục”, …

   b. Sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, tính kỉ luật cao,

– Còn nhỏ đã tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng “Cán bộ là Đảng, Đảng … này còn”.

– Sau đêm kinh hoàng (vợ con bị giết), anh không bi quan mà gia nhập lực lượng giải phóng quân trả thù cho dân làng, gia đình.

– Khi lập được chiến công, được nghỉ 1 ngày phép về thăm làng, anh đã chấp hành đúng quy định.

   c. Có trái tim yêu, sục sôi căm giận

– Khi tham gia lực lượng giải phóng quân, anh rất nhớ nhà, nhớ quê hương, chỉ được về một đêm anh vẫn trở về.

– Là người chồng người cha hết lòng yêu thương vợ con: không chịu đựng được cảnh vợ con bị bắt giết, Tnú lao ra cứu, dang hai cánh tay ôm lấy vợ con, nhưng anh vẫn bị bọn giặc bắt.

– Yêu thường nồng nàn thì căm thù càng sâu sắc: ở Tnú có 3 mối thù lớn là mối tù của bản thân (2 lần bị giặc tra tấn, lưng còn nhiều vết sẹo, bàn tay cụt đốt), mối thù gia đình (vợ con bị giết), mối thù của buôn làng.

   d. Hình ảnh đôi bàn tay:

    + Bàn tay yêu thương: anh Quyết nắm lấy tay Tnú, Mai nắm lấy tay Tnú khi anh trở về, …

    + Bàn tay đau thương (chứng kiến cảnh vợ con chết, chịu sự tra tấn của kẻ thù)

    + Bàn tay căm thù: chứng tích của lòng hận thù

    + Bàn thay báo thù: giết giặc trả thù cho Mai, cho con, cho dân làng Xô Man

    + Là nhân chứng cho con đường của dân làng Xô Man: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”

– Nhận xét: câu chuyện bi tráng của cuộc đời Tnú là sự thể hiện đầy đủ nhất cho chân lí lịch sử “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”, phải vùng lên đấu tranh vũ trang mới có thể chiến thắng.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận về nhân vật: Tnú có số phận đau thương nhưng anh đã vượt qua nỗi đau để chiến đấu, bảo vệ hạnh phúc cộng đồng.

– Nghệ thuật: xây dựng hình tượng nhân vật bằng bút pháp lí tưởng hóa, đậm chất sử thi, với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, …

– Tác phẩm là một khúc sử thi bi tráng, ngợi cả vẻ đẹp của những con người núi rừng Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ.

   Tnú là nhân vật trung tâm trong phẩm Rừng xà nu, đây là hình tượng nổi bật nhất, làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Tnú vừa là đại diện số phận, vừa là kết tinh của lòng yêu nước và những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Tây Nguyên. Dù chỉ trong dung lượng ngắn ngủi, nhưng bằng nội lực dồi dào, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng Tnú.

    Tnú sớm mồ côi cha mẹ và lớn lên nhờ sự cưu mang của dân làng, bởi vậy Tnú là con của buôn làng, của núi rừng. Bởi vậy, tất cả những hành động anh hùng, dũng cảm của Tnú sau này đều là tình yêu thương và sự tri ân mà anh cho nguồn cội đã nuôi dưỡng, che chở cho mình.

    Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng Tnú sớm bộc lộ những phẩm chất đẹp đẽ. Tnú giác ngộ cách mạng từ sớm, cậu sớm nuôi giấu cách mạng từ khi còn nhỏ. Không chỉ vậy Tnú còn hết sức dũng cảm, gan dạ, điều này được thể hiện trong cả cuộc sống cũng như khi hoạt động cách mạng. Trong cuộc sống, Tnú không bao giờ chọn chỗ bằng phẳng, dễ dàng để đi, mà lựa những chỗ thác mạnh bơi ngang, vượt lên mặt nước… Đặc biệt lòng dũng cảm được thể hiện rất rõ trong cách mà anh đối diện với kẻ thù. Khi bị giặc bắt trên đường liên lạc, Tnú lập tức nuốt thư vào bụng, thách thức sự đánh đập, tra tấn dã man của địch. Mặc dù tỏ ra lì lợm, ít nói, nhưng Tnú lại là một người giàu tình cảm và lòng yêu thương. Trong đêm anh Quyết ôm Tnú vào lòng, dù giả vờ ngủ nhưng những dòng nước mắt đã đong đầy nơi mắt. Những giọt nước mắt đó cho thấy sự nhận thức cũng như sự trào dâng lòng yêu nước mãnh liệt.

    Khi đi lực lượng trở về lòng yêu nước, cũng như sự dũng cảm của Tnú càng được bộ lộ rõ hơn nữa. Ba năm rèn rũa, hoạt động cách mạng, đã tôi luyện và làm cho Tnú thực sự trưởng thành. Kết duyên với Mai, Tnú là trụ cột của gia đình đồng thời sau khi đi lực lượng về Tnú còn là trụ cột của dân làng Xô Man. Chính Tnú là người đã đi gùi đa về cho dân làng mài vũ khí. Tnú đã thổi bùng và mài sắc tinh thần đấu tranh, ý thức phản kháng để chống lại đế quốc Mĩ. Từ sự dũng cảm trong cá nhân mà Tnú đã khơi dậy và biến Tây Nguyên thành mảnh đất anh hùng.

    Việc dân làng Xô Man mài vũ khí đã trở thành mối đe dọa với kẻ thù, bởi vậy chúng đã kéo đến làng hòng đàn áp. Và nhằm bắt được Tnú chúng đã bắt Mai và đứa con mới sinh của Tnú để uy hiếp anh. Chứng kiến vợ và con oằn mình chống lại những cơn mưa roi của kẻ thù, Tnú không thể kiềm chế đã xông ra để cứu vợ con dù biết chắc mình sẽ rơi vào cái bẫy của kẻ thù. Nỗi đau của những người thân, đã thổi bùng trong Tnú ngọn lửa căm thù: “Ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn” đó là ngọn lửa lòng căm hận sâu sắc, đó cũng là khơi nguồn sức mạnh trong Tnú.

    Nhưng dù mang trong mình sức mạnh Tnú cũng không thể cứu được vợ con, dưới con mưa roi tàn ác của kẻ thù, hai mẹ con Mai đã chết, đây là bi kịch, nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời Tnú. Không bảo vệ được gia đình, mà chính Tnú cũng phải chịu sự tra tấn, hành hạ dã man. Kẻ thù thâm độc, đã sử dụng nhựa cây xà nu để đốt cháy những ngón tay anh. Hình thức tra tấn dã man, không để Tnú chết một cách nhanh chóng mà bắt anh chịu đựng nỗi đau về thể xác. Mười đầu ngón tay của Tnú trở thành ngon đuối rực sáng. Nhưng khi nỗi đau đã vượt ngoài giới hạn chịu đựng, anh không còn cảm thấy đau nữa: “Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón nay nữa … Nhưng trời ơi! Cháy, chết cả ruột gan đây rồi”. Sử dụng câu cảm thán với điệp từ đã diễn tả chân thực nỗi đau của Tnú phải chịu đựng. Nhưng đối lập với nỗi đau này là khả năng chịu đựng phi thường. Nếu ở trên tội ác của kẻ thù được tô đậm bao nhiêu thì ở dưới sự kiên trung bất khuất của Tnú được nhấn mạnh bấy nhiêu. Chính lúc tưởng như không thể chịu đựng được Tnú nghĩ đến đảng, cách mạng, lời hứa của mình với kháng chiến. Đó chính động lực tiếp thêm sức mạnh để Tnú vượt qua thử thách này.

    Chính nỗi đau đó là chất xúc tác mạnh mẽ làm bật lên quyết tâm và sức mạnh của Tnú. Ngọn tử lan dần ra mười đót cả mười ngón tay, rồi thấu tận tâm can Tnú. Chính lúc này ngọn lửa đã gặp lòng yêu nước, lòng căm thù giặc làm bật lên ý chí chiến đấu và tinh thần quật khởi ở Tnú thong qua tiếng thét dữ dội: “Giết”. Tiếng thét của Tnú là mệnh lệnh tiến công, là kết tinh từ ý chí, nguyện vọng chung của cộng đồng.

    Sau khi bị tra tấn dã man, Tnú tiếp tục đi lực lượng, trở lại hoạt động cách mạng, dù mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt, anh vẫn hoạt động bên bỉ, anh dũng. Đến cuối tác phẩm, tác giả đã ghi lại chiến công hiển hách của Tnú khi chỉ bằng đôi tay ấy anh đã giết chết tên chỉ huy địch. Đôi bàn tay Tnú là một hình tượng nghệ thuật ám ảnh, giàu sức biểu tượng. Đó là đôi bàn tay tín nghĩa, trách nghiệm khi bỏ thư vào miệng, bảo đảm bí mật cách mạng. Là đôi bàn tay tình nghĩa khi cầm lấy tay Mai để tạo dựng hạnh phúc gia đình, để yêu thương, bao bọc mẹ con Mai khi bị giặc tra tấn. Đôi bàn tay còn là biểu tượng của những chiến công, khi Tnú giết chết tên chỉ huy giặc. Để Tnú giết chết tên giặc bằng đôi bàn tay đã bị hủy hoại, tác giả đã cho thấy kẻ thù có thể hủy hoại thể xác nhưng không thể hủy hoại lòng căm thù giặc, cũng nhưng quyết tâm đánh giặc của nhân dân ta. Qua hình ảnh đôi bàn tay Nguyễn Trung Thành viết lên số phận, tâm hồn, con đường đi của cả cộng đồng Tây Nguyên.

    Nhân vật Tnú kết tinh đầy đủ số phận đau thương, tinh thần quật khởi và những phẩm chất tốt đẹp của người dân Tây Nguyên. Ở anh vừa có vẻ đẹp và những đặc điểm chung của người chiến sĩ cộng sáng lại vừa có điểm riêng khỏe khoắn, hồn hậu và có phần hoang dã, do mảnh đất Tây Nguyên hun đúc mà thành. Bước ra từ câu chuyện của cụ Mết, Tnú như một người anh hùng trong sử thi, được người dân yêu quý. Nhưng người anh hùng đó không xa xôi mà hòa nhập, gần gũi, bắt nhịp vào thời đại mới, mang sức mạnh của dân tộc.

    Bằng ngòi bút miêu tả tinh tế, ngôn ngữ chân thực Nguyễn Trung Thành đã tái tạo thành công hình tượng người anh hùng Tnú. Nhân vật vừa thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, tinh thần cách mạng sục sôi, vừa giúp tác giả truyền tải những chân lí của người đại: trong thời đại bão táp cách mạng, cần dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự giác. Đó là những chân lí đúng đắn ta đã ra rút trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.

   Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành chấp bút vào năm 1965 khi đế quốc Mĩ xâm lược miền Nam nước ta. Tác phẩm là câu chuyện về mảnh đất anh hùng, con người Tây Nguyên anh hùng. Vả nổi bật nhất trong tập thể anh hùng đó ta không thể không nhắc đến nhân vật Tnú.

    Tnú là nhân vật hội tụ đầy đủ nhất những vẻ đẹp phẩm chất và tính cách của con người Tây Nguyên. Ở nhân vật này vừa có những nét chung nhưng đồng thời lại có những đường nét hết sức khu biệt, tạo nên một chân dung anh hùng hoàn hảo. Nhân vật Tnú được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những nét độc đáo, giàu tình chất sử thi. Tính sử thi đó được biểu hiện rõ nhất trong cuộc đời anh. Cuộc đời anh nhìn qua tưởng đó là cuộc đời riêng nhưng kì thực lại là đại diện cho số phận của cộng đồng. Cuộc đời Tnú gắn với những sự kiện lớn của cộng đời, từ đó là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất và số phận nhân dân Tây Nguyên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

    Vẻ đẹp đầu tiên có thể nhận thấy ở nhân vật này chính là sự kiên cường, gan góc, dũng cảm. Điều này là bản chất, ăn sâu trong cốt cách của Tnú. Ngay từ tấm bé bản chất này của anh đã dần dần được bộc lộ. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Tnu đã dũng cảm nuôi giấu bộ đội trong rừng. Hàng ngày chuyển thư liên lạc. Trong quá trình đi liên lạc, Tnú thường “xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt” bởi những con đường đó mới an toàn, tin tức mới không bị kẻ thù bắt được. Tnú và Mai cùng học với nhau, nhưng Tnú học chữ chậm, cảm thấy vô cùng tức giận với bản thân, đã lấy đá đập vào đầu đến nỗi chảy mà ròng ròng. Ngay cả khi bị giặc bắt, giặc tra tấn, sự kiên cường đó vẫn không hề thuyên giảm, anh quyết không khai, mà chỉ vào bụng mình mà nói “cộng sản ở đây”. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng khí chất kiên trung, dũng cảm của con người ấy đã được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ.

    Những biến cố trong cuộc sống, dần dà lớn lớn, sự dũng cảm trong Tnú cũng ngày càng được biểu lộ rõ hơn. Khi vợ con bị tra tấn, hành hạ, lòng Tnú đau như cắt, và đến giây phút cuối cùng không thể nhẫn nhịn được nữa, Tnú đã đi ra để cứu hai mẹ con. Tay của Tnú bị đốt cháy bùng bùng, nhưng anh không hề cảm thấy đau đớn, không hề kêu than. Ấy chính là sự gan dạ, dũng cảm và kiên cường của Tnú.

    Không chỉ vậy, anh cũng là người hết sức kỉ luật. Thời gian nghỉ phép ít ỏi, chỉ có một ngày, nhưng anh vẫn hết sức thu xếp công việc trở về thăm bản làng, thăm mọi người. Và sáng sớm ngày hôm sau Tnú từ biệt mọi người lên đường. Anh là người tôn trọng kỉ luật của đơn vị, chấp hành kỉ luật của buôn làng. Ý chí kiên cường, hết lòng hi sinh vì sự nghiệp lớn đã giúp anh chiến thắng sự mềm yếu trong lòng, để hướng đến một sự nghiệp lớn hơn.

    Ngoài ra, Tnú còn là người biết vượt lên những đau khổ, bi kịch của cá nhân để sống một cuộc đời tốt đẹp, có ý nghĩa hơn. Trong cuộc đời Tnú đau đớn nhất không phải là giây phút không học được chữ, đập đầu vào đá, cũng không phải là giây phút bị giặc bắt và truy hỏi. Mà đau đớn nhất là khi thấy vợ con mình bị hành hạ mà bất lực không thể làm gì khác. Nhìn cảnh Mai vì che chắn cho đứa con mà không biết bao lần phải chịu đòi roi của kẻ thù, có lẽ long Tnú đau thắt lại và nhất là khi đứa con bé bỏng, vô tội của anh bị đánh, chết ngất đi. Đến lúc này nỗi đau đớn, sự căm thù đã dồn nén bấy lâu bùng phát dữ dội. Không chỉ vợ con, mà chính anh cũng là nạn nhân của những đòn tra tấn dã man đó. Chúng quấn dẻ và nhựa vào mười đầu ngón tay anh, đốt cháy như một ngọn đuốc. Nhưng dù bị đốt cháy, dù gia đình li tán nhưng Tnú vẫn kiên cường vượt qua mọi mất mát, thương tổn. Dùng khả năng của bản thân đi bộ đội, để giết giặc trả thù cho bản thân, cho gia đình, lớn hơn là cho những người bỏ mạng dưới sự độc ác của kẻ thù. Nếu không phải là người có nghị lực, bản lĩnh thì có lẽ đã suy sụp mà không sống nổi.

    Ngoài ra anh còn là một con người giàu tình nghĩa. Những ngày còn nhỏ, anh hết long với cách mạng, gắn bó và nghe lời anh Quyết. Anh chăm chỉ học hành cũng chỉ bởi một câu anh Quyết nói “không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi”. Chỉ với câu nói đó thôi nhưng đã truyền bao sức mạnh cho anh. Khi nhìn vợ con bị ành hạ, dù không cứu được nhưng Tnú vẫn anh dũng xông ra, để đánh giặc, đây chính là biểu hiện của tình yêu thương sâu sắc. Không chỉ vậy, anh là một đứa trẻ mồ côi, được dân làng nuôi lớn, bởi vậy ngày nghỉ phép tuy ngắn ngủi nhưng Tnú vẫn tranh thủ về thăm buôn làng, thăm mọi người.

    Tnú là kết tinh nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nhân vật được xây dựng trên khung nền sử thi kì vĩ. Bởi vậy nhân vật cũng chình là đại diện cho số phận của cộng đồng. Tuy mang nhưng bản thân Tnú vẫn có những nét khu biệt, chính điều đó đã đem lại sự mới mẻ cho hình tượng và sự thành công cho tác phẩm.

   “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một kiệt tác văn chương thời chống Mĩ in đậm khuynh hướng sử thi hào hùng.

    Trong thế trận chiến tranh nhân dân thần kì của làng Xô Man, nhân vật Tnu mang tầm vóc một dũng sĩ phi thường đã để lại trong lòng ta nhiều rung cảm và ngưỡng mộ.

    Có thể nói, nhân vật trung tâm của truyện “Rừng xà nu” là Tnú. Trong nhà ưng, xung quanh bếp lửa hồng, một đêm mưa có mặt đông đủ lũ làng, cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú giới thiệu: “… nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm… Nó là ngời Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng “bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Tnú vốn là một chú bé giàu cá tính. Ở trong rừng học chữ với anh Quyết, nó học không bằng Mai…, nó nổi nóng “đập bể cái bảng nứa…”, bỏ ra ngồi ngoài suối suốt ngày, rồi nó cầm một hòn đá “tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Chữ thì Tnú hay quên, nhưng đi rừng, đi đường núi thì “đầu nó sáng lạ lùng”. Giặc vây ráp, phục kích, Tnú trèo lên cây cao nhìn khắp mọi phía, “xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”. Vượt sông vượt suối, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, nó “cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”, và Tnú biết, “qua chỗ nước êm thằng Mĩ-Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Khi chẳng may sa vào tay giặc, họng súng của thằng giặc phục kích “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú đã nhanh trí “nuốt luôn cái thư” của anh Quyết gửi về huyện trong một ngọn lá dong. Lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của bọn giặc, nhưng Tnú vẫn bất khuất hiên ngang. Ba năm bị tù trong ngục Kông Turn, Tnú đâ vượt ngục trở về. Tnú đã đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh tử thương. Anh Quyết đã dặn? “Tnú phải học chữ giỏi, thay tui làm cán bộ”. Lần thứ hai, Tnú lại lên núi Ngọc Linh, không phải đi lấy đá trắng về làm phấn như ba năm trước, mà là đi lấy một gùi đá mài. Làng Xô Man đã chuẩn bị khởi nghĩa: phát rẫy trồng pom-chu xanh cả núi rừng, đêm đêm cả làng thức, mài giáo mác. Tnú đã trở thành chỉ huy đội du kích, làm cho thằng Dục ác ôn lồng lên, gầm lên. “Con cọp đó mà không giết sớm, nó làm loạn rừng núi này rồi!”. Vợ con anh đã bị giặc bắt, tra tấn dã man cho đến chết. Tnú cùng đội du kích rút vào trong rừng, anh đã nghiến răng “bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”. Đôi mắt của anh trở thành “hai cục máu lớn”. Thương xót và căm thù tột độ, Tnú không kìm nổi lòng mình nữa, với hai bàn tay không, anh đã nhảy xổ vào lũ giặc mong cứu được vợ con. Tnú là một con người gang thép. Lũ giặc đã trói anh bằng dây rừng, dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay Tnú. Ngọn lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu mặn chát ở đầu lưỡi “cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi? Cháy, không, Tnú sẽ không kêu? Không?” Ngọn lửa xà nu và độ nóng của nó đã soi sáng lòng trung thành vô hạn, đã tôi luyện khí phách lẫm liệt của Tnú lên tầm vóc phi thường vĩ đại? Khi Tnú thét lên một tiếng dữ dội cũng là lúc tiếng chân “rầm rập” quanh nhà ưng, nhiều tiếng thét dữ dội hơn… Nhà ưng ào ào chuyển động. Tiếng hô của cụ Mết vang lên: “Chém! Chém hết!”. Và lửa đã cháy khắp rừng…

    Mẹ con Mai đã bị giặc giết. Lưng Tnú đầy vết dao của giặc chém. Mười ngón tay của anh, ngón nào cũng bị thằng Dục đốt cháy mất một đốt. Bà Nhan, anh Xút, anh Quyết,… những người thân yêu của anh đã bị giặc giết. Vết thương lành, Tnú đi tìm cách mạng, đi Giải phóng quân để tìm diệt những thằng Dục ác ôn, đứa thì ở trong đốn, đứa thì ngoan cố chui xuống hầm ngầm…

    Tnú còn có một tâm hồn đẹp, chất phác, trong sáng. Tâm hồn anh vẫn ôm ấp hình bóng quê hương. Sau ba năm đi Giải phóng quân đánh giặc về thăm làng một đêm, cái gốc cây bên đường gợi lên trong lòng anh một kỉ niệm về Mai, “kỉ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nứa”. Tnú yêu làng, yêu những hố chông, những giàn thò sắc lạnh của làng anh, yêu con nước mát lạnh,… Anh nhớ nhất làng, nhớ day dứt lòng anh suốt ba năm chính là “tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi…”.

    Tnú mang tẩm vóc như một dũng sĩ trong sử thi. Lòng trung thành, khí phách anh hùng, tinh thần lẫm liệt bất khuất của Tnú làm chúng ta ngưỡng mộ; tâm hồn chất phác, trong sáng, thủy chung của anh đã làm cho chúng ta xúc động, yêu thương. Nguyễn Trung Thành xây dựng nhân vật Tnú bằng tất cả sự chắt lọc tâm hồn, tưởng như ông không viết, ông không tả… mà hình như, ông là một nghệ sì đúc tượng Tnú, một anh hùng thời đại bằng một chất liệu siêu kim loại!

    “Rừng xà nu” là một truyện ngắn thấm đẫm màu sắc sử thi, huyền thoại. Hình thức kể chuyện qua nhân vật cụ Mết già làng gợi lên không khí thiêng liêng cổ truyền. Mái nhà ưng là nơi tụ hội của dân làng Xô Man, cũng là nơi để họ trừng trị lũ ác ôn khát máu, lũ tay sai Mĩ-Diộm. Rừng động, lửa cháy, tiếng cồng âm vang, đại bác giặc, cây xà nu đổ ào ào như một trận bão, tiếng mài giáo mác… Tất cả thật hào hùng, bi tráng. “Rừng xà nu”đã nêu cao một chân lí cách mạng: “rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy. Sau này tao chết rồi,bay còn sống phải cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Qua chủ đề ấy, cây xà nu, Tnú và những người dân làng Xô Man hiện lên mang tầm vóc dũng sĩ, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh.

Đề bài: Phân tích nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Bài làm

I. Mở bài

– Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, với nhiều tác phẩm đặc sắc.

Rừng xà nu là khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

– Một trong những nhân vật mang đậm chất sử thi là cụ Mết.

II. Thân bài

– Ngoại hình:

    + Quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải láng bóng”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm

    + “bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, …mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.

– Cụ là người quắc thước và nghiêm nghị:

    + Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”: vừa thể hiện sức mạnh thể chất vừa thể hiện sức mạnh quyền uy của người chỉ huy.

    + Mỗi câu nói như một chân lí “không có gì mạnh bằng cây xà nu trên đất ta”, “cán bộ là Đảng, Đản còn, núi nước này còn”, “chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”.

– Cụ Mết có tình yêu quê hương sâu sắc

    + Dẫn Tnú ra máng nước đầu làng gội rửa, để nhắc nhở những ai đi xa nhớ về ngườn cội, quê hương.

    + Tự hào về tất cả mọi thứ trên quê hương: “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”.

    + Vì muốn bảo vệ quê hương nên luôn tìm hướng đi đúng đắn cho buôn làng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”.

– Là người giàu tình yêu tình yêu thương:

    + Hết lòng thương yêu và tin tưởng Tnú – chàng trai trẻ có số phận bi tráng: nồng hậu đón Tnú trở về, xót thương khi nhìn những ngón tay còn hai đốt của Tnú, luôn động viên anh: “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”

    + Xúc động khi kể lại cho dân làng nghe câu chuyện của Tnú, cụ “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt”

    + Nhận được muối, dù ít ỏi cụ vẫn chia đều cho mọi người trong buôn làng.

– Cụ Mết là người biết nhìn xa trông rộng: dự trữ lương thực đủ ăn để đánh giặc, biết rõ được sức mạnh chưa đủ khi chưa có vũ khí nên không liều mạng xông ra cứu Tnú,…

– Cụ chính là người chỉ đường dẫn lối. Là chỗ dựa tinh thần cho dân làng.

– Nhận xét: Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên, mang dáng vẻ của người anh hùng với sức mạnh phi thường trong sử thi.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận của bản thân về hình ảnh cụ Mết.

– Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, …

– Thông qua câu chuyện của dân làng Xô Man, tác giả đã đặt ra vấn đề có ý nghĩ lớn lao với dân tộc: Để cho sự sống của đất nước và nhân mãi trường tồn thì không có cách nào hơn là đoàn kết đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

Đề bài: Phân tích nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Thành Trung

Bài làm

    Trong thời đại chống Mĩ, chủ nghĩa yêu nước là nội dung xuyên suốt trong văn học Việt Nam. Nó bùng cháy mạnh mẽ và phát triển lên một bước mới thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bởi vậy, trong các tác phẩm không chỉ xuất hiện của những cá nhân anh hùng, xuất chúng mà còn xuất hiện cả tập thể anh hùng. Trong tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành bên cạnh nhân vật Tnú còn nổi bật lên tập thể anh hùng làng Xô Man, trong đó nổi bật hơn cả là nhân vật cụ Mết.

    Với nhân dân làng Xô Man, cụ Mết chính là già làng, người cao tuổi nhất đồng thời là người đại diện cho nguyện vọng của cộng đồng, là người kết tinh sức mạnh, ý chí của công đồng. Đồng thời cụ Mết cũng chính là người trực tiếp kể cho dân làng Xô Man về Tnú. Là một người già làng, có tiếng nói đầy quyền úy khiến cho những chi tiết lien quan đến cuộc đời Tnú trở nên chân thực, khách quan. Hơn nữa lối kể và giọng điệu mang đậm chất sử thi của cụ, khiến cho câu chuyện về người anh hùng Tnú càng trở nên lôi cuốn, hấp dẫn hơn.

    Cụ mết chính là con người thuộc thời đại “Đất nước đứng lên”, cụ đã trải qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ để tiếp tục cùng con cháu và thế hệ trẻ vùng lên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng. Cụ vừa là biểu tượng cho quá khứ vẻ vang, rực rỡ, vừa là người giữ và truyền lửa cho thế hệ sau.

    Dù đã cao tuổi những cụ Mết vẫn giữ được vẻ quắc thước như xưa, cụ vẫn là cây xù lớn của buôn làng, bàn tay cụ trắc nịch, khỏe khoắn,… Dù chỉ là một vài chi tiết, những tác giả đã cho thấy, dù cụ mất đã già nhưng vẫn có thể lực vô cùng dẻo dai, cường tráng, diện mạo của cụ dường như vượt qua được sức tàn phá mạnh mẽ của thời gian; diện mạo này cũng phần nào chứng tỏ vai trò trụ cột, chống đỡ như cây xà nu lớn của cụ Mết với dân làng Xô Man.

    Ẩn đằng sau vẻ đẹp khỏe khoắn, dẻo dai là vẻ đẹp phẩm chất ngời sáng của cụ. Trước hết cụ là người có tình yêu Đảng, yêu cách mạng sâu sắc, điều này được thể hiện trong cả cuộc đời đấu tranh bên bỉ, kiền cương của cụ Mệt, mà chứng tích để lại chính là vết sẹo hằn in trên má. Cụ Mết đã một lòng theo Đảng, cách mạng để đi từ kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ trong vai trò trụ cột, chỉ huy, lãnh đạo dân làng Xô Man. Tình yêu với Đảng, cách mạng còn được thể hiện qua những lời nói giản dị mà đầy ý nghĩa: “Đảng còn. Núi nước này còn”. Không khoa trương ồn ào, nhưng bằng chính lối tư duy mộc mạc, ngôn ngữ tự nhiên, đã thể hiện tình yêu Đảng sâu sắc của cụ, đồng thời khơi dậy tình yêu đó trong lòng mỗi người dân làng Xô Man.

    Không chỉ vậy cụ còn là người có kinh nghiệm sống, bản lĩnh và từng trải. Chính những điều đấy khiến cho cụ luôn đưa ra những quyết định đứng đắn, sáng suốt trong những thời điểm quan trọng nhất. Cụ cũng là người đã nhận ra: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, cũng chính cụ đã vượt qua được sự nôn nóng của Tnú để quay vào rừng, sau đó cùng thanh niên, trai tráng quay trở lại cứu Tnú. Kinh nghiêm bản lĩnh sống của cụ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của dân làng Xô Man.

    Cụ cũng là người luôn tìm cách giữ lửa, truyền lửa và động viên thế hệ mai sau tiếp bước con đường của thế hệ cha anh. Và vai trò quan trọng nhất của cụ Mết cũng là phẩm chất nổi bật nhất chính là việc cụ đưa ra những đúc kết và thay tác giả phát ngôn cho những chân lí của thời đại, cộng đồng. Từng lời chậm chãi, nhưng dõng dạc, chắc nịch: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, thể hiện sự nhạy bén của cụ trước sự đổi thay của thời đại. Bởi chỉ với bàn tay không Tnú đã không cứu được vợ con, bản thân cũng bị giặc hành hạ tàn bạo; bởi chỉ có bàn tay không nên rất nhiều người dân đã ngã xuống. Cụ đã nhận thức được rằng, thời đại đã thay đổi, quân xâm lược ngày càng sử dụng những vũ khí tối tân với cách đánh tinh vi hơn, bởi vậy chỉ với bàn tay không thì ta chắc chắn sẽ thất bại. Câu nói của cụ đã đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phải chuyển từ đấu tranh tự phát, sang đấu tranh tự giác, đấu tranh vũ trang với sự chuẩn bị kĩ lưỡng, chu đáo. Điều đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng với cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên mà nó còn là chân lí của thời đại, kết tinh từ trí tuệ của cộng đồng. Cụ Mết đã thay tác giả phát gôn chân lí đó. Bằng sự trải nghiệm và kinh nghiệm sống dày dặn, cụ làm cho nhận thức đó trở nên sâu sắc và có giá trị hơn.

    Với dân làng Xô Man, cụ Mết chính là linh hồn, chỗ dựa vững chắc cả về sức mạnh lẫn tư tưởng, nhận thức. Cụ vừa là hiện thân của quá khứ hào hùng để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ sau, vừa là một người dìu dắt, giúp đỡ, thúc đẩy lịch sử đấu tranh của làng Xô Man và nhân dân Tây Nguyễn mỗi lúc một hào hùng hơn.

Đề bài: Phân tích nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu

Bài làm

   Đọc Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành ta không chỉ ấn tượng với một Tnú kiên gan, dũng cảm nhưng cũng rất giàu tình yêu thương. Mà ta còn ấn tượng một già làng hết sức kiên cường, bất khuất, là sợi dây là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là người tiếp lửa và truyền lửa cho thế hệ mai sau.

   Dù chỉ là một nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng cụ Mết có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vậy nên ngoại hình cũng như tính cách nhân vật luôn được nhà văn hết sức chú trọng.

   Đọc nhưng đoạn văn nói về cụ Mết, ta ấn tượng về một người già làng mạnh mẽ, quyết đoán, tuy lớn tuổi nhưng còn mạnh khỏe và hết sức minh mẫn: “một bàn tay trắc nịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt” những từ nhữ miêu tả khác như “quắc thước” “mắt sáng và xếch ngước” “vết thẹo ở má bên phải vẫn láng bóng” “ngưng căng như một cây xà nu lớn” đã cho thấy sức vóc, cũng như thần trí tinh thông của cụ. Qua sự miêu tả của tác giả ta có thể thấy cụ Mết là người đàn ông từng trải, sắc sảo, kiên cường, có uy lực mạnh mẽ đối với cộng đồng. Những lời nói, lời chỉ huy của cụ hết sức mạnh mẽ, quyết đoán khi thì “vang” để kêu gọi đồng bào đứng lên khi lại “trầm và nặng” để kể về quá khứ lịch sử, để khắc sâu vào tâm khảm thế hệ trẻ về truyền thống dân tộc, khơi dây lòng căm thù giặc. Lời khen đối với cụ là điều vô cùng hiếm hoi, ai làm tốt lắm, cụ cũng chỉ khen một chữ “được”. Yêu cầu cao đôi với người khác như vậy, chứng tỏ bản thân cụ cũng rất khe khắt với chính mình.

   Sâu thẳm trong tâm hồn người có vẻ ngoài kiên cường, cứng rắn ấy lại là con người có tình yêu quê hương sâu sắc, sự gắn bó sâu nặng với quê hương. Tình yêu quê hương được thể hiện qua những câu nói hết sức chân thành “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta” “gạo người Stra mình làm ra là ngon nhất núi rừng này”. Đối với cụ Mết bất cứ sơn hào hải vị nào cũng không thể sánh được với sản vật quê hương.

   Trong những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng, ác liệt, cụ Mết chính là cây xà nu lớn, là chỗ dựa tinh thần cho bản làng, để đưa đường chỉ lối cho nhân dân. Cụ là người đem Đảng đến với mọi người, cụ trung thành tuyệt đối với cách mạng. Đối với cụ “cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ gắn sinh mệnh của nhân làng với sinh mện của Đảng, từ đó nêu cao trách nhiệm, nghĩ vụ của mỗi người phải hết mình cống hiến cho đảng, tiêu diệt giặc Mĩ. Trong năm tháng kháng chiến gian khổ với Mĩ, cụ cũng là người có tầm nhìn xa trông rộng, cụ luôn động viện, dặn dò mọi người dự trữ lương thực, bởi cuộc chiến với giặc Mĩ là cuộc chiến trường kì.

   Nếu như Tnú có đôi lúc vì tình thân mà có những hành động cảm tính thì cụ Mết lại là người hết sức tỉnh táo, sáng suốt trong việc nhận định tình hình. Cụ có thể khống chế cảm xúc của bản thân trong những lúc gay go, quyết liệt nhất để đưa ra những hành động chính xác, đứng đắn lãnh đạo nhân dân nổi dạy đấu tranh. Trước trận đòn roi mà Mai phải chịu đựng, cụ đã có quyết định hết sức sáng suốt “Tao cũng chỉ có hai bàn tay không. Tào quay vào rừng … tìm bọn thanh niên …tìm giáo mác”. Ý chí sáng suốt đó của người đứng đầu đã giúp dân làng chiến thắng lại kẻ thù tàn bạo.

   Trong quá trình đấu tranh sẽ xảy ra biết bao đau thương mất mát. Kể lại với con cháu, cụ Mết không chỉ nhắc lại những đau thương, những chiến thắng ta đạt được, mà còn khái quát quy luật trong chiến đấu, trong cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Sự khái quát đó là vô cùng chính xác và đúng đắn với lịch sử cách mạng nước nhà. Khi quân thù xâm lược, ta không thể nhún nhường, nhượng bộ mà phải sử dụng bạo lực cách mạng để giành lại tự do, độc lập cho muôn dân.

   Cụ Mết là một hình tượng đẹp đẽ, là người đứng đầu, người dẫn dắt chỉ lối cho thế hệ mai sau. Với ngòi bút miêu tả đặc sắc, chân thật tác giả đã tạc lại cho bạn độc một chân dung thật sống động về người già làng của người Tây Nguyên. Qua nhân vật này, Nguyễn Trung Thành thể hiện tấm lòng ca ngợi chân thành với những con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất trong cuộc kháng chiến trường kì với đế quốc Mĩ.

Đề bài: Phân tích nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Thành Trung

I. Mở bài

– Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, với nhiều tác phẩm đặc sắc.

– Rừng xà nu là khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

– Một trong những nhân vật mang đậm chất sử thi là cụ Mết.

II. Thân bài

– Ngoại hình:

    + Quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải láng bóng”, cụ là người đã trải qua nhiều thăng trầm

    + “bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu lớn”, …mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.

– Cụ là người quắc thước và nghiêm nghị:

    + Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”: vừa thể hiện sức mạnh thể chất vừa thể hiện sức mạnh quyền uy của người chỉ huy.

    + Mỗi câu nói như một chân lí “không có gì mạnh bằng cây xà nu trên đất ta”, “cán bộ là Đảng, Đản còn, núi nước này còn”, “chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”.

– Cụ Mết có tình yêu quê hương sâu sắc

    + Dẫn Tnú ra máng nước đầu làng gội rửa, để nhắc nhở những ai đi xa nhớ về ngườn cội, quê hương.

    + Tự hào về tất cả mọi thứ trên quê hương: “Không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”.

    + Vì muốn bảo vệ quê hương nên luôn tìm hướng đi đúng đắn cho buôn làng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”.

– Là người giàu tình yêu tình yêu thương:

    + Hết lòng thương yêu và tin tưởng Tnú – chàng trai trẻ có số phận bi tráng: nồng hậu đón Tnú trở về, xót thương khi nhìn những ngón tay còn hai đốt của Tnú, luôn động viên anh: “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được”

    + Xúc động khi kể lại cho dân làng nghe câu chuyện của Tnú, cụ “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt”

    + Nhận được muối, dù ít ỏi cụ vẫn chia đều cho mọi người trong buôn làng.

– Cụ Mết là người biết nhìn xa trông rộng: dự trữ lương thực đủ ăn để đánh giặc, biết rõ được sức mạnh chưa đủ khi chưa có vũ khí nên không liều mạng xông ra cứu Tnú,…

– Cụ chính là người chỉ đường dẫn lối. Là chỗ dựa tinh thần cho dân làng.

– Nhận xét: Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên, mang dáng vẻ của người anh hùng với sức mạnh phi thường trong sử thi.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận của bản thân về hình ảnh cụ Mết.

– Khái quát nghệ thuật: với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, …

– Thông qua câu chuyện của dân làng Xô Man, tác giả đã đặt ra vấn đề có ý nghĩ lớn lao với dân tộc: Để cho sự sống của đất nước và nhân mãi trường tồn thì không có cách nào hơn là đoàn kết đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

   Trong thời đại chống Mĩ, chủ nghĩa yêu nước là nội dung xuyên suốt trong văn học Việt Nam. Nó bùng cháy mạnh mẽ và phát triển lên một bước mới thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bởi vậy, trong các tác phẩm không chỉ xuất hiện của những cá nhân anh hùng, xuất chúng mà còn xuất hiện cả tập thể anh hùng. Trong tác phẩm Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành bên cạnh nhân vật Tnú còn nổi bật lên tập thể anh hùng làng Xô Man, trong đó nổi bật hơn cả là nhân vật cụ Mết.

    Với nhân dân làng Xô Man, cụ Mết chính là già làng, người cao tuổi nhất đồng thời là người đại diện cho nguyện vọng của cộng đồng, là người kết tinh sức mạnh, ý chí của công đồng. Đồng thời cụ Mết cũng chính là người trực tiếp kể cho dân làng Xô Man về Tnú. Là một người già làng, có tiếng nói đầy quyền úy khiến cho những chi tiết lien quan đến cuộc đời Tnú trở nên chân thực, khách quan. Hơn nữa lối kể và giọng điệu mang đậm chất sử thi của cụ, khiến cho câu chuyện về người anh hùng Tnú càng trở nên lôi cuốn, hấp dẫn hơn.

    Cụ mết chính là con người thuộc thời đại “Đất nước đứng lên”, cụ đã trải qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ để tiếp tục cùng con cháu và thế hệ trẻ vùng lên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng. Cụ vừa là biểu tượng cho quá khứ vẻ vang, rực rỡ, vừa là người giữ và truyền lửa cho thế hệ sau.

    Dù đã cao tuổi những cụ Mết vẫn giữ được vẻ quắc thước như xưa, cụ vẫn là cây xù lớn của buôn làng, bàn tay cụ trắc nịch, khỏe khoắn,… Dù chỉ là một vài chi tiết, những tác giả đã cho thấy, dù cụ mất đã già nhưng vẫn có thể lực vô cùng dẻo dai, cường tráng, diện mạo của cụ dường như vượt qua được sức tàn phá mạnh mẽ của thời gian; diện mạo này cũng phần nào chứng tỏ vai trò trụ cột, chống đỡ như cây xà nu lớn của cụ Mết với dân làng Xô Man.

    Ẩn đằng sau vẻ đẹp khỏe khoắn, dẻo dai là vẻ đẹp phẩm chất ngời sáng của cụ. Trước hết cụ là người có tình yêu Đảng, yêu cách mạng sâu sắc, điều này được thể hiện trong cả cuộc đời đấu tranh bên bỉ, kiền cương của cụ Mệt, mà chứng tích để lại chính là vết sẹo hằn in trên má. Cụ Mết đã một lòng theo Đảng, cách mạng để đi từ kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ trong vai trò trụ cột, chỉ huy, lãnh đạo dân làng Xô Man. Tình yêu với Đảng, cách mạng còn được thể hiện qua những lời nói giản dị mà đầy ý nghĩa: “Đảng còn. Núi nước này còn”. Không khoa trương ồn ào, nhưng bằng chính lối tư duy mộc mạc, ngôn ngữ tự nhiên, đã thể hiện tình yêu Đảng sâu sắc của cụ, đồng thời khơi dậy tình yêu đó trong lòng mỗi người dân làng Xô Man.

    Không chỉ vậy cụ còn là người có kinh nghiệm sống, bản lĩnh và từng trải. Chính những điều đấy khiến cho cụ luôn đưa ra những quyết định đứng đắn, sáng suốt trong những thời điểm quan trọng nhất. Cụ cũng là người đã nhận ra: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, cũng chính cụ đã vượt qua được sự nôn nóng của Tnú để quay vào rừng, sau đó cùng thanh niên, trai tráng quay trở lại cứu Tnú. Kinh nghiêm bản lĩnh sống của cụ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của dân làng Xô Man.

    Cụ cũng là người luôn tìm cách giữ lửa, truyền lửa và động viên thế hệ mai sau tiếp bước con đường của thế hệ cha anh. Và vai trò quan trọng nhất của cụ Mết cũng là phẩm chất nổi bật nhất chính là việc cụ đưa ra những đúc kết và thay tác giả phát ngôn cho những chân lí của thời đại, cộng đồng. Từng lời chậm chãi, nhưng dõng dạc, chắc nịch: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, thể hiện sự nhạy bén của cụ trước sự đổi thay của thời đại. Bởi chỉ với bàn tay không Tnú đã không cứu được vợ con, bản thân cũng bị giặc hành hạ tàn bạo; bởi chỉ có bàn tay không nên rất nhiều người dân đã ngã xuống. Cụ đã nhận thức được rằng, thời đại đã thay đổi, quân xâm lược ngày càng sử dụng những vũ khí tối tân với cách đánh tinh vi hơn, bởi vậy chỉ với bàn tay không thì ta chắc chắn sẽ thất bại. Câu nói của cụ đã đặt ra nhiệm vụ cấp thiết là phải chuyển từ đấu tranh tự phát, sang đấu tranh tự giác, đấu tranh vũ trang với sự chuẩn bị kĩ lưỡng, chu đáo. Điều đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng với cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên mà nó còn là chân lí của thời đại, kết tinh từ trí tuệ của cộng đồng. Cụ Mết đã thay tác giả phát gôn chân lí đó. Bằng sự trải nghiệm và kinh nghiệm sống dày dặn, cụ làm cho nhận thức đó trở nên sâu sắc và có giá trị hơn.

    Với dân làng Xô Man, cụ Mết chính là linh hồn, chỗ dựa vững chắc cả về sức mạnh lẫn tư tưởng, nhận thức. Cụ vừa là hiện thân của quá khứ hào hùng để trở thành tấm gương sáng cho thế hệ sau, vừa là một người dìu dắt, giúp đỡ, thúc đẩy lịch sử đấu tranh của làng Xô Man và nhân dân Tây Nguyễn mỗi lúc một hào hùng hơn.

   Đọc Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành ta không chỉ ấn tượng với một Tnú kiên gan, dũng cảm nhưng cũng rất giàu tình yêu thương. Mà ta còn ấn tượng một già làng hết sức kiên cường, bất khuất, là sợi dây là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là người tiếp lửa và truyền lửa cho thế hệ mai sau.

    Dù chỉ là một nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng cụ Mết có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vậy nên ngoại hình cũng như tính cách nhân vật luôn được nhà văn hết sức chú trọng.

    Đọc nhưng đoạn văn nói về cụ Mết, ta ấn tượng về một người già làng mạnh mẽ, quyết đoán, tuy lớn tuổi nhưng còn mạnh khỏe và hết sức minh mẫn: “một bàn tay trắc nịch nắm chặt lấy Tnú như một cái kìm sắt” những từ nhữ miêu tả khác như “quắc thước” “mắt sáng và xếch ngước” “vết thẹo ở má bên phải vẫn láng bóng” “ngưng căng như một cây xà nu lớn” đã cho thấy sức vóc, cũng như thần trí tinh thông của cụ. Qua sự miêu tả của tác giả ta có thể thấy cụ Mết là người đàn ông từng trải, sắc sảo, kiên cường, có uy lực mạnh mẽ đối với cộng đồng. Những lời nói, lời chỉ huy của cụ hết sức mạnh mẽ, quyết đoán khi thì “vang” để kêu gọi đồng bào đứng lên khi lại “trầm và nặng” để kể về quá khứ lịch sử, để khắc sâu vào tâm khảm thế hệ trẻ về truyền thống dân tộc, khơi dây lòng căm thù giặc. Lời khen đối với cụ là điều vô cùng hiếm hoi, ai làm tốt lắm, cụ cũng chỉ khen một chữ “được”. Yêu cầu cao đôi với người khác như vậy, chứng tỏ bản thân cụ cũng rất khe khắt với chính mình.

    Sâu thẳm trong tâm hồn người có vẻ ngoài kiên cường, cứng rắn ấy lại là con người có tình yêu quê hương sâu sắc, sự gắn bó sâu nặng với quê hương. Tình yêu quê hương được thể hiện qua những câu nói hết sức chân thành “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta” “gạo người Stra mình làm ra là ngon nhất núi rừng này”. Đối với cụ Mết bất cứ sơn hào hải vị nào cũng không thể sánh được với sản vật quê hương.

    Trong những năm kháng chiến chống Mĩ hào hùng, ác liệt, cụ Mết chính là cây xà nu lớn, là chỗ dựa tinh thần cho bản làng, để đưa đường chỉ lối cho nhân dân. Cụ là người đem Đảng đến với mọi người, cụ trung thành tuyệt đối với cách mạng. Đối với cụ “cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ gắn sinh mệnh của nhân làng với sinh mện của Đảng, từ đó nêu cao trách nhiệm, nghĩ vụ của mỗi người phải hết mình cống hiến cho đảng, tiêu diệt giặc Mĩ. Trong năm tháng kháng chiến gian khổ với Mĩ, cụ cũng là người có tầm nhìn xa trông rộng, cụ luôn động viện, dặn dò mọi người dự trữ lương thực, bởi cuộc chiến với giặc Mĩ là cuộc chiến trường kì.

    Nếu như Tnú có đôi lúc vì tình thân mà có những hành động cảm tính thì cụ Mết lại là người hết sức tỉnh táo, sáng suốt trong việc nhận định tình hình. Cụ có thể khống chế cảm xúc của bản thân trong những lúc gay go, quyết liệt nhất để đưa ra những hành động chính xác, đứng đắn lãnh đạo nhân dân nổi dạy đấu tranh. Trước trận đòn roi mà Mai phải chịu đựng, cụ đã có quyết định hết sức sáng suốt “Tao cũng chỉ có hai bàn tay không. Tào quay vào rừng … tìm bọn thanh niên …tìm giáo mác”. Ý chí sáng suốt đó của người đứng đầu đã giúp dân làng chiến thắng lại kẻ thù tàn bạo.

    Trong quá trình đấu tranh sẽ xảy ra biết bao đau thương mất mát. Kể lại với con cháu, cụ Mết không chỉ nhắc lại những đau thương, những chiến thắng ta đạt được, mà còn khái quát quy luật trong chiến đấu, trong cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Sự khái quát đó là vô cùng chính xác và đúng đắn với lịch sử cách mạng nước nhà. Khi quân thù xâm lược, ta không thể nhún nhường, nhượng bộ mà phải sử dụng bạo lực cách mạng để giành lại tự do, độc lập cho muôn dân.

    Cụ Mết là một hình tượng đẹp đẽ, là người đứng đầu, người dẫn dắt chỉ lối cho thế hệ mai sau. Với ngòi bút miêu tả đặc sắc, chân thật tác giả đã tạc lại cho bạn độc một chân dung thật sống động về người già làng của người Tây Nguyên. Qua nhân vật này, Nguyễn Trung Thành thể hiện tấm lòng ca ngợi chân thành với những con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất trong cuộc kháng chiến trường kì với đế quốc Mĩ.

Đề bài: Phân tích hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu

Bài làm

I. Mở bài

– Giới thiệu một số nét về tác giả: Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này.

– Rừng xà nu được đánh giá là khúc sử thi của Tây Nguyên thời kì chống Mĩ, tái hiện con đường đấu tranh của dân làng Xô Man.

– Bên cạnh hình tượng con người anh dũng, nổi bật là hình tượng cây xà nu.

II. Thân bài

– Đây là hình ảnh trung tâm xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

– Gợi màu sắc, không gian núi rừng Tây Nguyên, gắn với cuộc sống sinh hoạt và những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man:

    + Dân làng Xô Man lấy gỗ xà nu, khói xà nu nhuộm đen bảng để học chữ, lửa xà nu chiếu sáng mỗi gian nhà.

    + Đuốc xà nu chiếu sáng cho nhân dân chuẩn bị vũ khí để đòng khởi.

    + Cả rừng xà nu ưỡn thân mình để bao bọc, bảo vệ buôn làng khỏi những trận bom của địch, hàng vạn cây, không có cây nào là không thương tích.

– Hình tượng cây xà nu mang vẻ đẹp tương ứng, song hành với các thế hệ cách mạng tiếp nối của dân làng Xô Man.

    + Những cây cổ thụ đại diện cho lớp người già như cụ Mết: chúng không thể bị quật ngã bởi gió bão, như cụ Mết chính là chỗ dựa tinh thần cho cả buôn làng.

    + Những cây xà nu trưởng thành như Tnú, Mai, Dít: vết thương bom đạn mau lành như trên thân thể cường tráng (hình ảnh lưng Tnú bị chém ngang dọc nhưng cũng lành lại thành sẹo rất nhanh).

    + Những cây xà nu mới mọc tượng trưng cho hình ảnh thiếu niên như bé Heng: “cây xà nu mới mọc lên khỏi mặt đất đã nhọn như mũi tên, mũi lê”, như bé Heng tuy còn nhỏ đã dũng cảm bước tiếp cha anh.

– Nhận xét: thế hệ này ngã xuống đã có thế hệ khác đứng lên đấu tranh giành tự do “bên cạnh một cây xà nu ngã gục đã có 4,5 cây con mọc lên”.

– Những nỗi đau cây xà nu phải chịu cũng mà con người nơi đây phải trải qua: “có những cây bị chặt ngang mình … ở chỗ vết thương nhựa ứa ra rồi dần bầm lại rồi đặc quyện thành từng cục máu lớn …”:

    + Như hình ảnh anh Xút, bà Nhan bị chặt đầu treo lên cây vả

    + Mai và đứa con bị tra tấn bằng gậy sắt đến chết

    + Hình ảnh 10 đầu ngón tay Tnú bị đốt bằng nhựa xà nu đến mức chỉ còn 2 đốt.

– Là kiểu ẩn dụ độc đáo về sức sống bất diệt, tinh thần bất khuất, sức mạnh vùng dậy của dân làng Xô Man trong phong trào đấu tranh vũ trang.

    + Cả ngọn đồi xà nu hàng trăm cây gắn bó với nhau như cộng đồng người Tây Nguyên đoàn kết đánh giặc.

    + Cả cánh rừng bạt ngàn không bao giờ sẽ bị khuất phục: “cây mẹ ngã xuống, cây con mọc lên, đố nó giết hết cánh rừng này”.

    + Cây xà nu sinh sôi nảy nở, ham ánh sáng mặt trời như người Tây Nguyên chân chất khao khát tự do.

– Kết cấu đầu cuối tương ứng: ở đầu và kết thúc câu chuyện đều là hình ảnh rừng xà nu bạt ngàn, tạo ra không gian sử thi cho tác phẩm.

III. Kết bài

– Cảm nhận hình tượng cây xà nu.

– Khái quát giá trị nghệ thuật: ngòi bút giàu chất sử thi, ngôn ngữ giarn dị, đậm chất Tây Nguyên, âm hưởng trang trọng, …

– Khái quát giá trị nội dung: Rừng xà nu là một khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

Đề bài: Phân tích hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu

Bài làm

    Theo tâm sự của nhà văn Nguyễn Trung Thành, điều để lại cho ông ấn tượng sâu đậm nhất đi đặt chân đến mảnh đất Tây Nguyên chính là hình ảnh những rừng xà nu bạt ngàn. Với tình yêu đặc biệt với loài cây này, ông đã lấy nó đặt nhan đề cho tác phẩm nổi tiếng của mình “Rừng xà nu”. Và vượt lên trên ý nghĩa về vẻ đẹp tự nhiên, thì rừng xà nu đã trở thành hình tượng trung tâm, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.

    Ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng, tác phẩm mở đầu và kết thúc đều bằng hình ảnh của những rừng xà nu bạt ngàn. Với kết cấu đầu cuối tương ứng đã tạo nên tính logic cho tác phẩm. Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, với những biến thể khác nhau: gỗ, nhựa,… tạo nên bộ khung vững chắc để liên kết toàn bộ tác phẩm thành một thể thống nhất. Như vậy, rừng xà nu có vai trò chủ đạo trong việc tạo nên tính logic, mạch lạc cho tác phẩm.

    Hình tượng cây xà nu vừa là chứng nhân, nạn nhân của chiến tranh, vừa là biểu tượng cho những đau thương mà người dân Tây Nguyên phải gánh chịu. Trước hết, rừng xà nu là chứng nhân, nạn nhân của chiến tranh. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã mở ra khung cảnh bất bình thường “làng trong tầm đại bác của đồn giặc” tức làng liên tục bị giặc ném bom phá hoại. Nhưng điều không bình thường ấy đã trở thành bình thường quen thuộc với con người nơi đây: “Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và buổi xế chiều hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy”. Đặt trong hoàn cảnh bất thường ấy tác giả đã ghi lại hình ảnh đầy sức ám ảnh về những đau thương mà rừng xà nu phải gánh chịu: “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Với con mắt quan sát tinh tường, Nguyễn Trung Thanh đã bao quát được những đau thương, mất mát mà rừng xà nu phải oằn mình gánh chịu. Đó không chỉ dừng lại ở nỗi đau riêng lẻ, cá thể mà đó là nỗi đau của cả tập thể, cộng đồng. Sau khi đã quan sát toàn cảnh ông dung cái nhìn cận cảnh để ghi lại những hình ảnh đau xót, kinh hoàng nhất: “Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão” hình ảnh vô cùng đau đớn, xót xa. Cây xà nu đang sinh sôi, phát triển mạnh mẽ bỗng bị bom đạn chiến tranh chặn đứng lại. Đặc biệt ông nhấn mạnh vào hình ảnh: “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, trần trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Bằng hình ảnh hết sức chân thực, cụ thể, tác giả đã biến rừng xà nu thành những sinh thể sống. Chúng phải gánh chịu nỗi đau đớn như con người. Chỉ bằng những chi tiết ít ỏi mà đắt giá tác giả đã làm cho nỗi đau, những mất mát mà rừng xà nu phải gánh chịu được thể hiện rõ ràng cả trên bề mặt và bề sâu. Dường như không chỉ con người mà thiên nhiên Tây Nguyên của phải gồng mình để chống trọi lại bom đạn chiến tranh.

    Không chỉ vậy rừng xà nu còn là biểu tượng cho những đau thương mà người dân Tây Nguyên phải gánh chịu. Tất cả những đau đớn mà rừng xà nu phải gánh chịu, hoàn toàn đồng điệu với những đau thương, mất mát mà dân làng Xô Man phải trải qua. Đó là bà Nhan bị chặt đầu treo lên cây xà nu, Mai và đứa con chết dưới sự tra tấn của kẻ thù, là mười đầu ngón tay Tnú bị đốt bằng nhựa cây xà nu,… Chiến tranh đã tàn phá tất cả, không trừ một ai, từ người già đến trẻ nhỏ, chồi non bé nhỏ, chưa kịp được sống đã phải chết dưới sự tra tấn của kẻ xâm lăng.

    Rừng xà nu vừa là chứng nhân vừa là nạn nhân trực tiếp của chiến tranh, đồng thời cũng là biểu tượng cho những đau thương mà tội ác kẻ thù gây ra. Tác giả đã khắc họa đau thương này ngay từ đầu tác phẩm tạo nên sự đồng điệu và chuẩn bị cho sự xuất hiện, làm nổi bật những đau thương của dân làng Xô man được tác giả khác họa sau đó. Việc đi sâu miêu tả cây xà nu, là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác của kẻ thù.

    Nhấn mạnh vào nỗi đau của rừng xà nu, tác giả không chỉ dừng lại ở phê phán, tố cáo tội ác của chúng mà mục đích là dùng những đau thương đó để làm nổi bật vẻ đẹp sức mạnh của thiên nhiên, con người Tây Nguyên. Rừng xà nu đã trở thành biểu tượng đầy đủ, toàn vẹn nhất cho vẻ đẹp của con người nơi đây.

    Dựa vào khả năng sinh sôi, nảy nở mạnh mẽ của cây xà nu, “trong rừng ít có loài cây sinh sôi, nảy nở khỏe như vậy, cảnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình mũi tên, lao thẳng lên bầu trời”. Tác giả đã vẽ được cả chiều dài đấu tranh bền bỉ, hào hùng và vô cùng kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây Nguyên, người này ngã xuống đã có thể hệ sau tiếp bước đứng lên ngăn bước chân kẻ thù. Có sự tương ứng kì lạ giữa thế hệ các cây xà nu với thế hẹ dân làng Xô Man: Bà Nham như một cây xà nu lớn bị bị giết hại đã có Dít, Heng tiếp bướcc. Bởi vậy, đồi xà nu nối nhau chạy tới tận chân trời không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên bạt ngàn mà còn là biểu tượng của truyền thống anh hùng của người dân Tây Nguyên.

    Đặc biệt tác giả còn sử dụng hình ảnh cây xà nu với tất cả đặc điểm của nó để biểu tượng cho sức mạnh, khả năng chịu đựng phi thường, sự kiên cường của người dân Tây Nguyên. Bởi vậy, bên cạnh những cây ngã xuống, có những cây khác trỗi dậy mạnh mẽ, vượt cao hơn đầu người, cành lá sum sêu mà đạn đại bác cũng không giết nổi chúng. Hình ảnh cây xà nu trưởng thành với sức sống dẻo dai, mãnh liệt như thách thức của bom đạn kẻ thù cũng như hình ảnh Tnú, mặc dù bàn tay đã bị nhựa xà nu đốt cháy, nhưng anh vẫn tiếp tục tham gia cách mạng, dùng chính bàn tay đó giết chết kẻ thù. Cây xà nu đã viết lên bản anh hùng ca về sức sống cũng như sự kiên cường, bất khuất của con người Tây Nguyên

    Đặc điểm, dáng vẻ, tính chất của cây xà nu đã thể hiện đầy đủ cuộc đời cũng như phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Đó là vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường, bền bỉ, chống lại bom đạn kẻ thù. Có thể nói cây xà nu là hình tượng quan trọng, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất trong tác phẩm này.

Đề bài: Phân tích hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành

Bài làm

   Viết về mảnh đất gắn bó với một phần cuộc sống của mình không phải là đề tài hiếm gặp trong các tác phẩm văn học.Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một tác phẩm như vậy. Đây có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về thiên nhiên Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trở thành biểu tượng của mảnh đất và con người tây Nguyên.

   Trong tác phẩm này, những cây xà nu đóng một vai trò vô cùng quan trọng, bản thân cây xà nu và những biến thể của nó đã lặp lại hai mươi lần trong tác phẩm. Bởi vậy nó trở thành một hình tượng quan trọng trong câu chuyện.

   Cây xà nu hiện lên qua lời văn của tác giả hiện lên thật hùng vĩ, tràn đầy nhựa sống, chúng có sức sống vô cùng kiên cường, dẻo dai, mãnh liệt, không gì có thể hạ gục chúng. Cây này ngã xuống đã có cây khác lớn lên, không ngừng sinh trưởng, phát triển. Những cây xà nu sống trong tầm đại bác của giặc, thường phải chịu sư công kích dữ dội của bom đạn giặc . Nhưng rừng xà nu vẫn kiên trì đứng vững bảo vệ cho con người . Và điều đó khiến rừng xà nu rộng lớn là vậy nhưng hầu hết cây nào cũng bị thương: “ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”. Cái chết không thể đàn áp sự sống của rừng xà nu, chúng vẫn mạnh mẽ vươn lên. Cạnh những cây đã ngã xuống lại có bốn năm cây lớn vươn lên: “từng luồng lớn thẳng tắp, long lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mơ màng”. Rừng xà nu kiên cường, bất khuất “đạn đại bác không giết nổi chung, cây vẫn vươn mình lớn ưỡn tấm ngực che chở cho làng…”. Rừng xà nu chinh là biểu tượng cho mảnh đất Tây Nguyên.

   Rừng xà nu còn là biểu tượng cho số phận của con người Tây Nguyên. Những gì mà rừng xà nu phải hứng chịu, những làn mưa bom bão đạn ngày ngày dội xuống rừng xa nu cùng chính là những gì con người nơi phải đối mặt hàng ngày. Mỗi một nhành cây ngọn cỏ, mỗi lứa cây xà nu đều là biểu tượng cho con người nơi đây. Nhưng trước bao nhiêu đau thương, mất mát con người nơi đây vẫn không bao giờ gục gã, họ vẫn tin tưởng vào Đảng vào cách mạng, vẫn kiên cường, bền bỉ chiến đấu, không ngừng kế tiếp truyền thống vẻ vang của cha anh.

   Cụ Mết là biểu tượng cho những cây xà nu lớn, vươn mình ưỡn thân bảo vệ dân làng. Cụ cũng là biểu tượng quật khởi của truyền thống đánh giặc hào hùng. Cụ Mết là người đã chỉ huy, lãnh đạo dân làng đối kháng với địch. Cụ là người đã đem đến chân lí, chúng nó đã cầm súng thì ta phải cầm giáo. Phải sử dụng bạo lực cách mạng để đấu tranh lại bạo lực phản cách mạng. Cụ là người truyền và giữ truyền thống cho thế hệ mai sau. Vẻ đẹp của cụ cũng là vẻ đẹp được hun đúc từ núi rừng Tây Nguyên, từ những cây xà nu, đó là cái ngực căng “như một cây xà nu lớn, là nét từng trải của đôi bàn tay” , giọng nói hùng vĩ mang âm thanh của núi rừng: “ồ ồ thanh âm quen thuộc dội vang trong long ngực”.. Mỗi lời cụ nói không chỉ là mệnh lệnh mà còn là đuchs kết kinh nghiệm, sự từng trải trong cuộc sống: “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã, cây con mọc lên”.

   Những cây con mọc lên cũng chính là hình ảnh của Tnú, Mai, Dít, của Heng – thế hệ tiếp bước cha anh. Từng cây xà nu không ngừng ngày đêm bảo vệ dân làng, cũng như những đứa trẻ kia, sự khôn lớn, dũng cảm của chúng cũng chính là đem sức lực để bảo vệ dân làng, để bảo vệ nơi họ được sinh ra.

   Tnú là người sinh ra và lớn lên trong sự bao bọc, bảo vệ của dân làng. Tnú coi người làng như chính người thân ruột thịt của mình, anh gắn bó mật thiết với con người và mảnh đất nơi đây. Sớm được Đảng giác ngộ cách mạng, từ nhỏ Tnú đã góp sức mình vào nhiệm vụ cứu nước bằng cách nuôi giấu cán bộ trong rừng, tìm được khó mà đi thay vì đường bằng, sẵn sang nuốt thư vào bụng. Lớn lên cả gia đình nhỏ của anh bị giặc giết hại, bản thân bị bắt giam, bị hành hạ nhưng như một cây xà nu không bao giờ chịu khuất phục, Tnú đã vượt ngục, hoạt động cách mạng. và dung chính đôi bàn tay của mình để giết chết quân thù.

   Rừng xà nu mang trong mình vẻ đẹp bất diệt, không bao giờ lụi tàn, cũng như con người Tây Nguyên kiên cường, không bao giờ gục ngã. Hình tượng câu xà nu là hình tượng nổi bật xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, làm nên vẻ đẹp mạnh mẽ của thiên nhiên và con người nơi đây.

   Với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã mang đến cho bạn đọc những xúc cảm mới mẻ về con người Tây Nguyên. Rừng xà nu là biểu tượng đẹp đẽ về con người Tây Nguyên, về cuộc đời anh dũng, kiên cường của họ. Rừng xà nu và những người anh hùng Tây Nguyên mãi tỏa rạng vẻ đẹp muôn đời.

Đề bài: Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành

Bài làm

    Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Truyện “Rừng xà nu” của ông viết vào năm 1965, là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về cuộc “đồng khởi” của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Cụ Mết, một già làng, một thủ lĩnh quân sự đã lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo, mác, dụ, rựa… quật khởi đứng lên đánh lũ ác ôn, tay sai của đế quốc Mĩ để giải phóng buôn làng và núi rừng thiêng liêng. Họ đã chiến đấu vì sự sống còn, vì chân lí cách mạng ngời chói: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.

    Ngoài những nhân vật cho ta nhiều ấn tượng như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng, anh Quyết,… thì hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn được tác giả khắc hoạ và ngợi ca như một dũng sĩ oai hùng.

    Ngày ấy…, cách mạng miền Nam đang trải qua những năm dài đen tối, đầy thử thách khó khăn. Lũ giặc kéo tới, lùng sục, phục kích, không đêm nào chó và súng của chúng không sủa vang cả rừng. Buôn làng bị bao vây, dân làng bị kìm kẹp và khủng bố dã man. Đầu rơi máu chảy, tang tóc và đau thương: giặc treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng; chúng giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng! Cùng chung số phận, chung chịu đau thương với dân làng Xô Man là rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của giặc. Chúng bắn ngày, bắn đêm, bắn vào lúc sáng sớm và xế chiều, hoặc lúc đứng bóng và sẩm tối, hoặc lúc nửa đêm và trở gà gáy. Tang tóc bao trùm rừng xà nu. Hàng vạn cây “không cây nào không bị thương”. Đạn giặc chặt đứt ngang thân mình, “cây xà nu đổ ào ào như một trận bão”; nhựa cây đọng lại, tụ lại “bầm lại đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”. Rừng xà nu chịu bao tổn thất nặng nề như con người. Biết bao cây non trúng đạn giặc, vết thương “cứ loét mãi ra” sau năm, mười hôm thì cây chết!

    Gần 20 lần, nhà văn nói đến rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, cành xà nu, ngọn và lá xà nu, nhựa xà nu, khói và lửa đuốc xà nu,… Mỗi lần xuất hiện, cây xà nu mang một dáng vẻ kì lạ, tất cả đều mang ý nghĩa tượng cho phách mãnh Hệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên cường bất khuất!

    Người Strá đã hiên ngang trong lửa đạn, người trưóc ngã, người sau tiến lên. Rừng xà nu cung vậy, cạnh một cây bị bắn ngã gục đã có bốn, năm cây mọc lên, sinh sôi nảy nở “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Nếu như cây kơ-nia có bóng cây tỏa rợp nương rẫy và lòng người biểu trưng cho sự thủy chung tình nghĩa, thì cây xà nu là một loại cây “ham ánh sáng mặt “, hương cây nhựa cây “bay ra thơm mỡ màng”. Ba lần Nguyễn Trung Thành tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo, kì vĩ ca ngợi tầm vóc cây xà nu: lúc thì ngọn cây như một mũi tên lao thẳng lên bầu trời, lúc thì những cây con xà nu mới nhú khỏi mặt đất “nhọn hoắt như những mũi lê”, lúc thì rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Rõ ràng hình tượng cây xà nu mang tầm vóc và khí phách của một dũng sĩ đích thực trong máu lửa.

    Có lúc rừng xà nu được miêu tả dưới cặp mắt của Tnú trong hai thời điểm chiều và sáng, lúc anh về thăm làng và lúc anh lại ra đi. Sau ba năm trời anh đi “lực lượng”, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù, anh vể thăm quê, thăm lũ làng, gặp lại rừng xà nu như gặp lại người bạn chiến đấu, anh bồi hồi tự hào và say mê ngắm nhìn: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Và buổi sáng anh lên đường, cùng cụ Mết và Dít còn có rừng xà nu trùng điệp tiễn anh với bao trìu mến và lưu luyến. Anh đã mang theo hình bóng quê hương để ra đi với một sức mạnh mới: “Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”.

    Hình tượng rừng xà nu đem đến cho ta nhiều liên tưởng sâu sắc về thế trận chiến tranh nhân dân, về người người lớp lớp, về biểu tượng rừng một về sự hi sinh và đóng góp xương máu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong kháng chiến. Chính vì thế mà trong lúc gặp lại Tnú, cụ Mết đã hào hùng khẳng định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức: “Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy, không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”.

    Nét đặc sắc của truyện ngắn “Rừng xà nu” là nghệ thuật tả cảnh, tả người rất độc đáo. Rừng xà nu không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, không chỉ là cảnh tượng chiến trường bi tráng, mà còn là biểu tượng cho chí khí anh hùng của đồng bào Tây Nguyên, của nhân dân miền Nam anh hùng. Cụ Mết chẳng khác nào dùng sĩ trong sử thi “Bài ca chàng Đam Săn”! Là một già làng 60 tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực, mắt sáng vết sẹo của chiến tích sáng bóng, cụ Mết ở trần “ngực căng như một cây xa nu lớn”.

    Nói đến hình tượng cây xà nu không thể không nói tới ngọn lửa xà nu. Tác giả đã tạo nên ba nét vẽ về ngọn lửa xà nu, gợi ra một không khí huyền thoại thiêng liêng. Dưới ngọn lửa xà nu, Tnú đã đọc thư “tuyệt mệnh” của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh hi sinh. Lần thứ hai, hình ảnh ngọn lửa xà nu rực cháy trên mười ngón tay Tnú, đó là ngọn lửa uất hận, căm thù “máu kêu trả máu, đầu van trả đầu” (Tố Hữu). Lần thứ ba, ánh lửa đuốc xà nu bừng sáng đỏ rực, lấp loáng ánh giáo mác, với tiếng hô: “Chém! Chém hết!” của cụ Mết, đã soi tỏ xác mười tên giặc, trong đó có thằng Dục ác ôn, nằm sóng soài giữa vũng máu trên nhà ưng. Cây xà nu đã chia ngọt sẻ bùi với đồng bào Xô Man trong những năm dài đánh Mĩ và lũ tay sai bán nước!

    Nếu như nhà thơ Thu Bồn lấy cánh chim chơ-rao, một nhà thơ khuyết danh đã lấy cây kơ-nia làm biểu tượng cho lòng dân và sức mạnh quật khởi của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thành công khắc hoạ vẻ đẹp tráng lệ của rừng xà nu để nóỉ lên khí phách anh hùng của dân làng Xô Man, của chủ nghía anh hùng Việt Nam. Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc thẩn kì, không khí thiêng liêng, phong vị những sinh hoạt truyền thống của núi rừng và con người Tây Nguyên được thể hiện một cách hào hùng qua hình tượng rừng xà nu vậy.

    Truyện “Rừng xà nu” là một thành công lớn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh. Cảnh vật và con người được chiếu sáng dưới ngọn lửa thiêng liêng thần kì. Nó đã giúp người đọc sống lại một thời kì lịch sử vô cùng đau thương và oanh liệt của dân tộc.

Đề bài: Phân tích hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu

I. Mở bài

– Giới thiệu một số nét về tác giả: Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này.

– Rừng xà nu được đánh giá là khúc sử thi của Tây Nguyên thời kì chống Mĩ, tái hiện con đường đấu tranh của dân làng Xô Man.

– Bên cạnh hình tượng con người anh dũng, nổi bật là hình tượng cây xà nu.

II. Thân bài

– Đây là hình ảnh trung tâm xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

– Gợi màu sắc, không gian núi rừng Tây Nguyên, gắn với cuộc sống sinh hoạt và những sự kiện trọng đại của dân làng Xô Man:

    + Dân làng Xô Man lấy gỗ xà nu, khói xà nu nhuộm đen bảng để học chữ, lửa xà nu chiếu sáng mỗi gian nhà.

    + Đuốc xà nu chiếu sáng cho nhân dân chuẩn bị vũ khí để đòng khởi.

    + Cả rừng xà nu ưỡn thân mình để bao bọc, bảo vệ buôn làng khỏi những trận bom của địch, hàng vạn cây, không có cây nào là không thương tích.

– Hình tượng cây xà nu mang vẻ đẹp tương ứng, song hành với các thế hệ cách mạng tiếp nối của dân làng Xô Man.

    + Những cây cổ thụ đại diện cho lớp người già như cụ Mết: chúng không thể bị quật ngã bởi gió bão, như cụ Mết chính là chỗ dựa tinh thần cho cả buôn làng.

    + Những cây xà nu trưởng thành như Tnú, Mai, Dít: vết thương bom đạn mau lành như trên thân thể cường tráng (hình ảnh lưng Tnú bị chém ngang dọc nhưng cũng lành lại thành sẹo rất nhanh).

    + Những cây xà nu mới mọc tượng trưng cho hình ảnh thiếu niên như bé Heng: “cây xà nu mới mọc lên khỏi mặt đất đã nhọn như mũi tên, mũi lê”, như bé Heng tuy còn nhỏ đã dũng cảm bước tiếp cha anh.

– Nhận xét: thế hệ này ngã xuống đã có thế hệ khác đứng lên đấu tranh giành tự do “bên cạnh một cây xà nu ngã gục đã có 4,5 cây con mọc lên”.

– Những nỗi đau cây xà nu phải chịu cũng mà con người nơi đây phải trải qua: “có những cây bị chặt ngang mình … ở chỗ vết thương nhựa ứa ra rồi dần bầm lại rồi đặc quyện thành từng cục máu lớn …”:

    + Như hình ảnh anh Xút, bà Nhan bị chặt đầu treo lên cây vả

    + Mai và đứa con bị tra tấn bằng gậy sắt đến chết

    + Hình ảnh 10 đầu ngón tay Tnú bị đốt bằng nhựa xà nu đến mức chỉ còn 2 đốt.

– Là kiểu ẩn dụ độc đáo về sức sống bất diệt, tinh thần bất khuất, sức mạnh vùng dậy của dân làng Xô Man trong phong trào đấu tranh vũ trang.

    + Cả ngọn đồi xà nu hàng trăm cây gắn bó với nhau như cộng đồng người Tây Nguyên đoàn kết đánh giặc.

    + Cả cánh rừng bạt ngàn không bao giờ sẽ bị khuất phục: “cây mẹ ngã xuống, cây con mọc lên, đố nó giết hết cánh rừng này”.

    + Cây xà nu sinh sôi nảy nở, ham ánh sáng mặt trời như người Tây Nguyên chân chất khao khát tự do.

– Kết cấu đầu cuối tương ứng: ở đầu và kết thúc câu chuyện đều là hình ảnh rừng xà nu bạt ngàn, tạo ra không gian sử thi cho tác phẩm.

III. Kết bài

– Cảm nhận hình tượng cây xà nu.

– Khái quát giá trị nghệ thuật: ngòi bút giàu chất sử thi, ngôn ngữ giarn dị, đậm chất Tây Nguyên, âm hưởng trang trọng, …

– Khái quát giá trị nội dung: Rừng xà nu là một khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

   Theo tâm sự của nhà văn Nguyễn Trung Thành, điều để lại cho ông ấn tượng sâu đậm nhất đi đặt chân đến mảnh đất Tây Nguyên chính là hình ảnh những rừng xà nu bạt ngàn. Với tình yêu đặc biệt với loài cây này, ông đã lấy nó đặt nhan đề cho tác phẩm nổi tiếng của mình “Rừng xà nu”. Và vượt lên trên ý nghĩa về vẻ đẹp tự nhiên, thì rừng xà nu đã trở thành hình tượng trung tâm, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.

    Ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng, tác phẩm mở đầu và kết thúc đều bằng hình ảnh của những rừng xà nu bạt ngàn. Với kết cấu đầu cuối tương ứng đã tạo nên tính logic cho tác phẩm. Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, với những biến thể khác nhau: gỗ, nhựa,… tạo nên bộ khung vững chắc để liên kết toàn bộ tác phẩm thành một thể thống nhất. Như vậy, rừng xà nu có vai trò chủ đạo trong việc tạo nên tính logic, mạch lạc cho tác phẩm.

    Hình tượng cây xà nu vừa là chứng nhân, nạn nhân của chiến tranh, vừa là biểu tượng cho những đau thương mà người dân Tây Nguyên phải gánh chịu. Trước hết, rừng xà nu là chứng nhân, nạn nhân của chiến tranh. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã mở ra khung cảnh bất bình thường “làng trong tầm đại bác của đồn giặc” tức làng liên tục bị giặc ném bom phá hoại. Nhưng điều không bình thường ấy đã trở thành bình thường quen thuộc với con người nơi đây: “Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và buổi xế chiều hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy”. Đặt trong hoàn cảnh bất thường ấy tác giả đã ghi lại hình ảnh đầy sức ám ảnh về những đau thương mà rừng xà nu phải gánh chịu: “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Với con mắt quan sát tinh tường, Nguyễn Trung Thanh đã bao quát được những đau thương, mất mát mà rừng xà nu phải oằn mình gánh chịu. Đó không chỉ dừng lại ở nỗi đau riêng lẻ, cá thể mà đó là nỗi đau của cả tập thể, cộng đồng. Sau khi đã quan sát toàn cảnh ông dung cái nhìn cận cảnh để ghi lại những hình ảnh đau xót, kinh hoàng nhất: “Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão” hình ảnh vô cùng đau đớn, xót xa. Cây xà nu đang sinh sôi, phát triển mạnh mẽ bỗng bị bom đạn chiến tranh chặn đứng lại. Đặc biệt ông nhấn mạnh vào hình ảnh: “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, trần trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Bằng hình ảnh hết sức chân thực, cụ thể, tác giả đã biến rừng xà nu thành những sinh thể sống. Chúng phải gánh chịu nỗi đau đớn như con người. Chỉ bằng những chi tiết ít ỏi mà đắt giá tác giả đã làm cho nỗi đau, những mất mát mà rừng xà nu phải gánh chịu được thể hiện rõ ràng cả trên bề mặt và bề sâu. Dường như không chỉ con người mà thiên nhiên Tây Nguyên của phải gồng mình để chống trọi lại bom đạn chiến tranh.

    Không chỉ vậy rừng xà nu còn là biểu tượng cho những đau thương mà người dân Tây Nguyên phải gánh chịu. Tất cả những đau đớn mà rừng xà nu phải gánh chịu, hoàn toàn đồng điệu với những đau thương, mất mát mà dân làng Xô Man phải trải qua. Đó là bà Nhan bị chặt đầu treo lên cây xà nu, Mai và đứa con chết dưới sự tra tấn của kẻ thù, là mười đầu ngón tay Tnú bị đốt bằng nhựa cây xà nu,… Chiến tranh đã tàn phá tất cả, không trừ một ai, từ người già đến trẻ nhỏ, chồi non bé nhỏ, chưa kịp được sống đã phải chết dưới sự tra tấn của kẻ xâm lăng.

    Rừng xà nu vừa là chứng nhân vừa là nạn nhân trực tiếp của chiến tranh, đồng thời cũng là biểu tượng cho những đau thương mà tội ác kẻ thù gây ra. Tác giả đã khắc họa đau thương này ngay từ đầu tác phẩm tạo nên sự đồng điệu và chuẩn bị cho sự xuất hiện, làm nổi bật những đau thương của dân làng Xô man được tác giả khác họa sau đó. Việc đi sâu miêu tả cây xà nu, là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác của kẻ thù.

    Nhấn mạnh vào nỗi đau của rừng xà nu, tác giả không chỉ dừng lại ở phê phán, tố cáo tội ác của chúng mà mục đích là dùng những đau thương đó để làm nổi bật vẻ đẹp sức mạnh của thiên nhiên, con người Tây Nguyên. Rừng xà nu đã trở thành biểu tượng đầy đủ, toàn vẹn nhất cho vẻ đẹp của con người nơi đây.

    Dựa vào khả năng sinh sôi, nảy nở mạnh mẽ của cây xà nu, “trong rừng ít có loài cây sinh sôi, nảy nở khỏe như vậy, cảnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình mũi tên, lao thẳng lên bầu trời”. Tác giả đã vẽ được cả chiều dài đấu tranh bền bỉ, hào hùng và vô cùng kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây Nguyên, người này ngã xuống đã có thể hệ sau tiếp bước đứng lên ngăn bước chân kẻ thù. Có sự tương ứng kì lạ giữa thế hệ các cây xà nu với thế hẹ dân làng Xô Man: Bà Nham như một cây xà nu lớn bị bị giết hại đã có Dít, Heng tiếp bướcc. Bởi vậy, đồi xà nu nối nhau chạy tới tận chân trời không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên bạt ngàn mà còn là biểu tượng của truyền thống anh hùng của người dân Tây Nguyên.

    Đặc biệt tác giả còn sử dụng hình ảnh cây xà nu với tất cả đặc điểm của nó để biểu tượng cho sức mạnh, khả năng chịu đựng phi thường, sự kiên cường của người dân Tây Nguyên. Bởi vậy, bên cạnh những cây ngã xuống, có những cây khác trỗi dậy mạnh mẽ, vượt cao hơn đầu người, cành lá sum sêu mà đạn đại bác cũng không giết nổi chúng. Hình ảnh cây xà nu trưởng thành với sức sống dẻo dai, mãnh liệt như thách thức của bom đạn kẻ thù cũng như hình ảnh Tnú, mặc dù bàn tay đã bị nhựa xà nu đốt cháy, nhưng anh vẫn tiếp tục tham gia cách mạng, dùng chính bàn tay đó giết chết kẻ thù. Cây xà nu đã viết lên bản anh hùng ca về sức sống cũng như sự kiên cường, bất khuất của con người Tây Nguyên

    Đặc điểm, dáng vẻ, tính chất của cây xà nu đã thể hiện đầy đủ cuộc đời cũng như phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Đó là vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường, bền bỉ, chống lại bom đạn kẻ thù. Có thể nói cây xà nu là hình tượng quan trọng, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất trong tác phẩm này.

   Viết về mảnh đất gắn bó với một phần cuộc sống của mình không phải là đề tài hiếm gặp trong các tác phẩm văn học.Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một tác phẩm như vậy. Đây có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về thiên nhiên Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trở thành biểu tượng của mảnh đất và con người tây Nguyên.

    Trong tác phẩm này, những cây xà nu đóng một vai trò vô cùng quan trọng, bản thân cây xà nu và những biến thể của nó đã lặp lại hai mươi lần trong tác phẩm. Bởi vậy nó trở thành một hình tượng quan trọng trong câu chuyện.

    Cây xà nu hiện lên qua lời văn của tác giả hiện lên thật hùng vĩ, tràn đầy nhựa sống, chúng có sức sống vô cùng kiên cường, dẻo dai, mãnh liệt, không gì có thể hạ gục chúng. Cây này ngã xuống đã có cây khác lớn lên, không ngừng sinh trưởng, phát triển. Những cây xà nu sống trong tầm đại bác của giặc, thường phải chịu sư công kích dữ dội của bom đạn giặc . Nhưng rừng xà nu vẫn kiên trì đứng vững bảo vệ cho con người . Và điều đó khiến rừng xà nu rộng lớn là vậy nhưng hầu hết cây nào cũng bị thương: “ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”. Cái chết không thể đàn áp sự sống của rừng xà nu, chúng vẫn mạnh mẽ vươn lên. Cạnh những cây đã ngã xuống lại có bốn năm cây lớn vươn lên: “từng luồng lớn thẳng tắp, long lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mơ màng”. Rừng xà nu kiên cường, bất khuất “đạn đại bác không giết nổi chung, cây vẫn vươn mình lớn ưỡn tấm ngực che chở cho làng…”. Rừng xà nu chinh là biểu tượng cho mảnh đất Tây Nguyên.

    Rừng xà nu còn là biểu tượng cho số phận của con người Tây Nguyên. Những gì mà rừng xà nu phải hứng chịu, những làn mưa bom bão đạn ngày ngày dội xuống rừng xa nu cùng chính là những gì con người nơi phải đối mặt hàng ngày. Mỗi một nhành cây ngọn cỏ, mỗi lứa cây xà nu đều là biểu tượng cho con người nơi đây. Nhưng trước bao nhiêu đau thương, mất mát con người nơi đây vẫn không bao giờ gục gã, họ vẫn tin tưởng vào Đảng vào cách mạng, vẫn kiên cường, bền bỉ chiến đấu, không ngừng kế tiếp truyền thống vẻ vang của cha anh.

    Cụ Mết là biểu tượng cho những cây xà nu lớn, vươn mình ưỡn thân bảo vệ dân làng. Cụ cũng là biểu tượng quật khởi của truyền thống đánh giặc hào hùng. Cụ Mết là người đã chỉ huy, lãnh đạo dân làng đối kháng với địch. Cụ là người đã đem đến chân lí, chúng nó đã cầm súng thì ta phải cầm giáo. Phải sử dụng bạo lực cách mạng để đấu tranh lại bạo lực phản cách mạng. Cụ là người truyền và giữ truyền thống cho thế hệ mai sau. Vẻ đẹp của cụ cũng là vẻ đẹp được hun đúc từ núi rừng Tây Nguyên, từ những cây xà nu, đó là cái ngực căng “như một cây xà nu lớn, là nét từng trải của đôi bàn tay” , giọng nói hùng vĩ mang âm thanh của núi rừng: “ồ ồ thanh âm quen thuộc dội vang trong long ngực”.. Mỗi lời cụ nói không chỉ là mệnh lệnh mà còn là đuchs kết kinh nghiệm, sự từng trải trong cuộc sống: “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ ngã, cây con mọc lên”.

    Những cây con mọc lên cũng chính là hình ảnh của Tnú, Mai, Dít, của Heng – thế hệ tiếp bước cha anh. Từng cây xà nu không ngừng ngày đêm bảo vệ dân làng, cũng như những đứa trẻ kia, sự khôn lớn, dũng cảm của chúng cũng chính là đem sức lực để bảo vệ dân làng, để bảo vệ nơi họ được sinh ra.

    Tnú là người sinh ra và lớn lên trong sự bao bọc, bảo vệ của dân làng. Tnú coi người làng như chính người thân ruột thịt của mình, anh gắn bó mật thiết với con người và mảnh đất nơi đây. Sớm được Đảng giác ngộ cách mạng, từ nhỏ Tnú đã góp sức mình vào nhiệm vụ cứu nước bằng cách nuôi giấu cán bộ trong rừng, tìm được khó mà đi thay vì đường bằng, sẵn sang nuốt thư vào bụng. Lớn lên cả gia đình nhỏ của anh bị giặc giết hại, bản thân bị bắt giam, bị hành hạ nhưng như một cây xà nu không bao giờ chịu khuất phục, Tnú đã vượt ngục, hoạt động cách mạng. và dung chính đôi bàn tay của mình để giết chết quân thù.

    Rừng xà nu mang trong mình vẻ đẹp bất diệt, không bao giờ lụi tàn, cũng như con người Tây Nguyên kiên cường, không bao giờ gục ngã. Hình tượng câu xà nu là hình tượng nổi bật xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, làm nên vẻ đẹp mạnh mẽ của thiên nhiên và con người nơi đây.

    Với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành đã mang đến cho bạn đọc những xúc cảm mới mẻ về con người Tây Nguyên. Rừng xà nu là biểu tượng đẹp đẽ về con người Tây Nguyên, về cuộc đời anh dũng, kiên cường của họ. Rừng xà nu và những người anh hùng Tây Nguyên mãi tỏa rạng vẻ đẹp muôn đời.

   Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Truyện “Rừng xà nu” của ông viết vào năm 1965, là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về cuộc “đồng khởi” của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Cụ Mết, một già làng, một thủ lĩnh quân sự đã lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo, mác, dụ, rựa… quật khởi đứng lên đánh lũ ác ôn, tay sai của đế quốc Mĩ để giải phóng buôn làng và núi rừng thiêng liêng. Họ đã chiến đấu vì sự sống còn, vì chân lí cách mạng ngời chói: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.

    Ngoài những nhân vật cho ta nhiều ấn tượng như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng, anh Quyết,… thì hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn được tác giả khắc hoạ và ngợi ca như một dũng sĩ oai hùng.

    Ngày ấy…, cách mạng miền Nam đang trải qua những năm dài đen tối, đầy thử thách khó khăn. Lũ giặc kéo tới, lùng sục, phục kích, không đêm nào chó và súng của chúng không sủa vang cả rừng. Buôn làng bị bao vây, dân làng bị kìm kẹp và khủng bố dã man. Đầu rơi máu chảy, tang tóc và đau thương: giặc treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng; chúng giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng! Cùng chung số phận, chung chịu đau thương với dân làng Xô Man là rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của giặc. Chúng bắn ngày, bắn đêm, bắn vào lúc sáng sớm và xế chiều, hoặc lúc đứng bóng và sẩm tối, hoặc lúc nửa đêm và trở gà gáy. Tang tóc bao trùm rừng xà nu. Hàng vạn cây “không cây nào không bị thương”. Đạn giặc chặt đứt ngang thân mình, “cây xà nu đổ ào ào như một trận bão”; nhựa cây đọng lại, tụ lại “bầm lại đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”. Rừng xà nu chịu bao tổn thất nặng nề như con người. Biết bao cây non trúng đạn giặc, vết thương “cứ loét mãi ra” sau năm, mười hôm thì cây chết!

    Gần 20 lần, nhà văn nói đến rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, cành xà nu, ngọn và lá xà nu, nhựa xà nu, khói và lửa đuốc xà nu,… Mỗi lần xuất hiện, cây xà nu mang một dáng vẻ kì lạ, tất cả đều mang ý nghĩa tượng cho phách mãnh Hệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên cường bất khuất!

    Người Strá đã hiên ngang trong lửa đạn, người trưóc ngã, người sau tiến lên. Rừng xà nu cung vậy, cạnh một cây bị bắn ngã gục đã có bốn, năm cây mọc lên, sinh sôi nảy nở “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Nếu như cây kơ-nia có bóng cây tỏa rợp nương rẫy và lòng người biểu trưng cho sự thủy chung tình nghĩa, thì cây xà nu là một loại cây “ham ánh sáng mặt “, hương cây nhựa cây “bay ra thơm mỡ màng”. Ba lần Nguyễn Trung Thành tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo, kì vĩ ca ngợi tầm vóc cây xà nu: lúc thì ngọn cây như một mũi tên lao thẳng lên bầu trời, lúc thì những cây con xà nu mới nhú khỏi mặt đất “nhọn hoắt như những mũi lê”, lúc thì rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Rõ ràng hình tượng cây xà nu mang tầm vóc và khí phách của một dũng sĩ đích thực trong máu lửa.

    Có lúc rừng xà nu được miêu tả dưới cặp mắt của Tnú trong hai thời điểm chiều và sáng, lúc anh về thăm làng và lúc anh lại ra đi. Sau ba năm trời anh đi “lực lượng”, đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù, anh vể thăm quê, thăm lũ làng, gặp lại rừng xà nu như gặp lại người bạn chiến đấu, anh bồi hồi tự hào và say mê ngắm nhìn: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Và buổi sáng anh lên đường, cùng cụ Mết và Dít còn có rừng xà nu trùng điệp tiễn anh với bao trìu mến và lưu luyến. Anh đã mang theo hình bóng quê hương để ra đi với một sức mạnh mới: “Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”.

    Hình tượng rừng xà nu đem đến cho ta nhiều liên tưởng sâu sắc về thế trận chiến tranh nhân dân, về người người lớp lớp, về biểu tượng rừng một về sự hi sinh và đóng góp xương máu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong kháng chiến. Chính vì thế mà trong lúc gặp lại Tnú, cụ Mết đã hào hùng khẳng định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức: “Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy, không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”.

    Nét đặc sắc của truyện ngắn “Rừng xà nu” là nghệ thuật tả cảnh, tả người rất độc đáo. Rừng xà nu không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, không chỉ là cảnh tượng chiến trường bi tráng, mà còn là biểu tượng cho chí khí anh hùng của đồng bào Tây Nguyên, của nhân dân miền Nam anh hùng. Cụ Mết chẳng khác nào dùng sĩ trong sử thi “Bài ca chàng Đam Săn”! Là một già làng 60 tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực, mắt sáng vết sẹo của chiến tích sáng bóng, cụ Mết ở trần “ngực căng như một cây xa nu lớn”.

    Nói đến hình tượng cây xà nu không thể không nói tới ngọn lửa xà nu. Tác giả đã tạo nên ba nét vẽ về ngọn lửa xà nu, gợi ra một không khí huyền thoại thiêng liêng. Dưới ngọn lửa xà nu, Tnú đã đọc thư “tuyệt mệnh” của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh hi sinh. Lần thứ hai, hình ảnh ngọn lửa xà nu rực cháy trên mười ngón tay Tnú, đó là ngọn lửa uất hận, căm thù “máu kêu trả máu, đầu van trả đầu” (Tố Hữu). Lần thứ ba, ánh lửa đuốc xà nu bừng sáng đỏ rực, lấp loáng ánh giáo mác, với tiếng hô: “Chém! Chém hết!” của cụ Mết, đã soi tỏ xác mười tên giặc, trong đó có thằng Dục ác ôn, nằm sóng soài giữa vũng máu trên nhà ưng. Cây xà nu đã chia ngọt sẻ bùi với đồng bào Xô Man trong những năm dài đánh Mĩ và lũ tay sai bán nước!

    Nếu như nhà thơ Thu Bồn lấy cánh chim chơ-rao, một nhà thơ khuyết danh đã lấy cây kơ-nia làm biểu tượng cho lòng dân và sức mạnh quật khởi của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thành công khắc hoạ vẻ đẹp tráng lệ của rừng xà nu để nóỉ lên khí phách anh hùng của dân làng Xô Man, của chủ nghía anh hùng Việt Nam. Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc thẩn kì, không khí thiêng liêng, phong vị những sinh hoạt truyền thống của núi rừng và con người Tây Nguyên được thể hiện một cách hào hùng qua hình tượng rừng xà nu vậy.

    Truyện “Rừng xà nu” là một thành công lớn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh. Cảnh vật và con người được chiếu sáng dưới ngọn lửa thiêng liêng thần kì. Nó đã giúp người đọc sống lại một thời kì lịch sử vô cùng đau thương và oanh liệt của dân tộc.

Đề bài: Tóm tắt truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.

Bài làm

    Sau ba năm đi “lực lượng”, Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con nước lớn đẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai tráng và lũ con gái. Đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái Mai, nay là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú. Dít thay mặt lũ làng xem giấy có chữ kí chỉ huy cho phép Tnú về thăm làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên: ‘Tốt lắm rồi!” “Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá”. Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ làng nghe. Tiếng nói rất trầm. “Anh Tnu đó, nó đi Giải phóng quân đánh giặc… Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Anh Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nó và em Mai đi vào rừng nuôi anh Quyết cán bộ. Anh dạy nó học chữ. Nó học chữ thì hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó vượt thác, xé rừng mà, lọt tất cả vòng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc Nông thì bị giặc bắt, bị tra tấn, bị giặc đày đi Kông Tum. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về, lung đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân làng Xô Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem vẻ một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xô Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy đồn Đắc Hà đưa lũ ác ổn về vây ráp làng. Tiếng kêu khóc vang dậy. Cụ Mết và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết chết mẹ con Mai. Tay không, nhảy ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy mười ngón tay anh. Cụ Mết và 10 thanh niên từ rừng xông ra, dùng mác, và rựa chcm chết tất cả 10 tên ác ôn. Thằng Dục ác ôn và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa xà nu trên nhà ưng. Từ đó, làng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đó, Tnú ra đi tìm cách mạng…”

    Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xông xuống hầm ngầm dùng tay bóp chết thằng chỉ huy… thằng Dục, “đúng chớ… chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục!”. Mưa rơi nặng hạt. Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hôm sau cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời…

Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong tác phẩm “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyên Ngọc.

Bài làm

    “Tây Nguyên ơi! Hoa rừng bao nhiêu thứ

    Cánh hoa đẹp nhất rừng

    Tây Nguyên ơi! Anh có nhớ buôn làng

    Nhớ người con gái…

    … Nhớ cánh hoa Pơ-lang đẹp nhất rừng Tây Nguyên…”

           (Ca khúc “Em là hoa Pơ-lang” – Đức Minh)

    Ai đã từng lắng nghe tiếng hát ấy trong những tháng ngày sôi sục thời đánh Mĩ? Ai đã từng biết hoa Pơ-lang báu vật của Trời có hàng ngàn cánh, nở tươi thơm ngát hàng vạn năm được nói đến trong “Bài ca chàng Đam Săn”? Tiếng hát ấy còn đem đến cho ta bao xúc động bồi hồi khi nghĩ tới những phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, một kiệt tác viết về đề tài Tây Nguyên thời đánh Mĩ.

    Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc thời đánh Mĩ. Truyện “Rừng xà nu” của ông lần đầu tiên được đăng trên tạp chí Văn Nghệ Quân giải phóng miền Trung. Trung Trung bộ, số 2 năm 1965. Truyện mang đậm tính sử thi, gợi lên một không khí núi rừng thiêng liêng huyền thoại. Cuộc đấu tranh vũ trang của dân làng Xô man chống Mĩ – Diệm diễn ra vô cùng ác liệt đầy máu và nước mắt, sáng bừng ngọn lửa và chiến công. Những con đường, dốc núi, bờ suối chằng chịt hầm chỏng, hố chông, giàn thò lưỡi “sắc lạnh”. Nhà ưng nơi tụ hội của người Strá đã có lúc biến thành pháp trường, chiến trường dữ dội, bi tráng.

    Cả dân làng Xô Man, từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà, ai cũng có trong tay một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, cậy rựa sáng loáng mài bằng đá mài núi Ngọc Linh do anh Tnú gùi về, ai không có giáo mác thì có 500 cây chông. Mỗi người dân là một chiến sĩ, một dũng sĩ nhen nhóm bằng ngọn lửa cách mạng và niềm tin mà anh Quyết cán bộ Đảng hoạt động bí mật đem lại cho dân làng Xô Man: “Đánh Mĩ phải đánh lâu dài”, “cán bộ là Đảng; Đảng còn, núi nước này còn”,…

    Trong những năm dài đen tối khi quân Mĩ – Diệm kéo tới, suốt đêm ngày, chó của nó và súng của nó “sủa vang cả rừng”, thì dân làng Xô Man vẫn thay nhau vào rừng tiếp tế, bảo vệ cán bộ Đảng. Anh Xút bị giặc bắt treo cổ lên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc chặt đầu, cột tóc treo đầu súng. Nhưng chẳng ai sợ! Người già, trẻ con, Mai và Tnú,… lại thay nhau vào rừng nuôi giấu, bảo vệ cán bộ. Suốt 5 nãm trời, chưa hề có một cán bộ nào bị giặc bắt hay bị giặc giết trong rừng của làng Xô Man. Đó là niềm tự hào, và đó là phẩm chất anh hùng, trung dũng của những người Strá.

    Mỗi người dân làng Xô Man là một chiến sĩ. Cụ Mết già làng, oai phong lẫm liệt. Mắt sáng và xếch. Râu dài tới ngực mà vẫn đen bóng. Ông cụ ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Đã 60 tuổi mà tiếng nói vẫn ồ ồ vang dội trong lồng ngực! Một lời khen “được” của ông cụ làm cho cả làng ai cũng hả dạ. Bàn tay nặng trịch “như một kìm sắt”. Lúc cụ nói, mọi người đều im bặt, trẻ con im lặng thin thít. Cụ Mết đầy uy tín, là một thủ lĩnh quân sự tài ba, quyết đoán. Để chuẩn bị cho cuộc chiến đâu, cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô Man đêm đêm thức mài vũ khí, ban ngày đi phát hết các rẫy cũ, trồng pom-chu và sắn xanh mượt cả núi rừng. Trong những giờ phút nghiêm trọng nhất giữa cái sống và cái chết, cụ Mết đã chỉ huy đội du kích từ trong rừng bất ngờ xông lên nhà ưng tiêu diệt lũ ác ôn. Tiếng hô của cụ Mết vang lên: “Chém! Chém hết!”. Những cây rựa sáng loáng vung lên. Dưới lưỡi mác của cụ Mết, thằng Dục chỉ huy nằm gục trên vũng máu. Mười tên giặc bị giết chết, xác ngổn ngang quanh đống lửa xà nu giữa nhà ưng. Chính ” đêm ấy”, tiếng chiêng nổi lên, lửa cháy khắp rừng. Và “cả rừng Xô Man ào ào rung động”. Chính đêm ấy, cụ Mết già làng, người anh hùng bộ tộc trong tư thế lẫm liệt của người chiến thắng đã truyền hịch đánh Mĩ – Diệm vang vọng núi rừng: “Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.

    Cụ Mết trong truyện “Rừng xà nu” được miêu tả và ngưỡng mộ như một vị anh hùng dân tộc. Cụ đã thắp sáng ngọn lửa chiến đấu và chiến thắng vì chân lí lịch sử: “Chúng nó đã cầm súng, mình phả cầm giáo!”. Cụ đã nhắc nhở mọi người Strá phải giữ lấy truyền thống “thương núi, thương nước” kể lại cho con cháu nghe sau này. Nhân vật cụ Mết, một già làng, một lão du kích phi thường là một thành công đặc sắc của Nguyễn Trung Thành trong nghệ thuật khắc họa tính cách anh hùng sử thi huyền thoại.

    Tnú là một trai làng dũng mãnh, là niềm tự hào của bà con dân làng Xô Man. Cụ Mết đã nói về anh với tất cả tình yêu thương, tự hào: “Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Cuộc đời Tnú đầy máu và nước mắt như bao cuộc đời của người dân làng Xô Man dưới súng đạn của Mĩ – Diệm. Con đường chiến đấu của Tnú là con đường quật khởi của quê hương anh. Hai lần Tnú đi bộ 3 ngày lên núi Ngọc Linh để lấy một xà lét đá trắng về làm phấn, lấy một gùi đá mài đem vể mài vu khí, hành động ấy nói lên lòng khao khát ánh sáng cách mạng và tự do của anh. Phẩm chất anh hùng của Tnú được tôi rèn trong máu lửa chiến tranh. Thuở nhỏ, Tnú vào rừng tiếp tế và bảo vệ anh Quyết, cán bộ “nằm vùng” để học chữ, với niềm tin sắt đá: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Đi giao liên, lúc thì Tnú “xé rừng mà đi” lọt qua các vòng vây của giặc, lúc thì anh cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình, tạo nÊn sự bất ngờ. Bị giặc bắt, Tnú nuốt ngay thư bí mật. Bị giặc tra tấn dã man, bắt khai ai là cộng sản, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói: “Ở đây này!”. Lưng anh đầy vết chém, anh vẫn bất khuất, hiên ngang giữ vững lòng trung thành với cách mạng.

    Khi làng Xô Man quật khởi đứng lên mài vũ khí chống Mĩ – Diệm thì Tnú trở thành chỉ huy đội du kích. Với bọn giặc ở đồn Đắc Hà, anh là “con cọp… làm loạn rừng núi”… Tnú căm thù sôi sục quân giặc khát máu. Mắt anh trở thành khi lũ ác ôn giáng “trận mưa cây sắt” xuống vợ con anh. Anh coi bọn thằng Dục là “đồ ăn thịt người!”. Tnú đã nhảy xổ vào lũ giặc để cứu vợ con, “hai cánh tay rộng lớn như hơi cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Hình ảnh Tnú bị giặc tra tấn, đốt cháy mười ngón tay thành mười ngọn đuốc, mắt anh trừng trừng, anh cắn nát mòi, nghe lửa cháy trong lồng ngực… “anh không thèm kêu van”, đã làm cho chúng ta vô cùng cảm phục. Anh đã nêu cao một tư thế lãm liệt hiên ngang. Con người anh tường như được đúc bằng thép! Khí phách của Tnú là khí phách của người anh hùng sử thi. Tình tiết Tnú xông xuống hầm ngầm giặc, không dùng súng, không dùng dao mà chỉ giết thằng chỉ huy ác ôn bằng mười ngón lay, ngón nào cũng bị cháy mất một đốt – đã nói lên ý chí căm thù giặc không bao giờ nguôi trong lòng anh. Lòng căm thù đã cho Tnú sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.

    Nguyễn Trung Thành đã khắc hoạ đôi bàn tay Tnú để tô đậm phẩm chất anh hùng của đứa con yêu làng Xô Man. Nếu ngọn lửa thần A-nhi đã soi sáng lòng kiên trinh của nàng Si-ta trong sử thi Ra-ma-ya-na, thì ngọn lửa xà nu trên mưòi ngón tay đã làm sáng bừng lên dũng khí và tinh thần bất khất của nhân vật Tnú anh hùng. Dưới ngòi bút Nguyễn Trung Thành, nhân vật Tnú mang vẻ đẹp huyền thoại.

    Mai và Dít là hình ảnh người phụ nữ mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Thuở bé, Mai đã vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Mai học chữ rất giỏi, ba tháng đọc được chữ, sáu tháng làm được toán hai con số. Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai đã dũng cảm lấy thân mình để bảo vệ đứa con thơ, và chị đã bất khuất hi sinh trước trận mưa cây sắt của thằng giặc khát máu. Dít là em gái của Mai. Cái mũi hơi tròn, đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Lớn lên, Dít càng giống Mai. Dít cũng bị giặc bắt khi Dít đi vào rừng tiếp tế cho đội du kích. Lũ giặc đã biến Dít thành “tấm bia sống”, bắn sượt qua tai, sém tóc, váy rách tượt từng mảnh. Từ viên đạn thứ mười trở đi, Dít chùi nước mắt, im bặt, “nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng!”. Thật là gan dạ, lẫm liệt. Chỉ 3 năm sau, Dít đã trở thành Bí thư chi bộ kiêm Chính trị viên xã hội, linh hồn cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Có thể nói Mai và Dít tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”, đã gắn bó cuộc đời mình với sự sống còn, với đau thương và uất hận, với nhục và vinh của dân tộc trong thời đánh Mĩ.

    Đọc truyện “Rừng xà nu”, ta không thể nào quên được bé Heng, mặc dù tác giả chỉ phác hoạ một vài nét. Đó là một chú bé nhanh nhẹn, thông minh, thuộc mọi con đường, những hầm chông, những giàn thò, những ác chiến điểm của làng mình như thuộc lòng bàn tay mình. Người nhỏ bé, đóng khố, áo bà ba dài phết đít, đầu đội một cái mũ sụp xin được của anh Giải phóng quân nào đó. Một khẩu súng trường mát đeo chéo ngang lưng “ra vẻ một người lính thực sự”. Khi thì Heng nhắc Tnú không được uống nước lã. Khi thì Heng giới thiệu về chị Dít. Heng giục Tnú đi nhanh, “sắp tối rồi!”. Nó hất hàm ra hiệu, thân mật nói với Tnú: “Lâu ngày về, chân không leo nổi cái dốc nữa à!”. Em báo cho Tnú biết: “Chông đấy! Có chông đấy!…”. Heng tháo cây súng chống xuống đất và gọi to; “Người già ơi, có khách đấy!”. Heng chỉ là người dẫn đường, chỉ là người dẫn chuyện, xuất hiện trong khoảnh khắc. Thế mà đầy ấn tượng, đó là cái tài của Nguyền Trung Thành trong miêu tả nhân vật. Bé Heng đã trưởng thành cùng cuộc chiến đấu vũ trang của dân làng Xô Man. Con người em đã hình thành bao phẩm chất anh hùng. Em là một cây xà nu, một cây con mới mọc “vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…” trong bom đạn giặc!

    Thời kháng chiến, cây tre, cây dừa, cây đước đã được một số nhà văn, nhà thơ dành cho một địa vị sang trọng: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.Tre hi sinh để bảo vệ con người” (“Cây tre Việt Nam” – Thép Mới). Với Nguyễn Trung Thành, cây xà nu, một loại cây “man dại mà cao quý đáng yêu” đã trở thành một biểu tượng, một nhân vật mang bao phẩm chất tốt đẹp, anh hùng. Trong truyện, cây xà nu, đồi xà nu, rừng xà nu, cành lá xà nu, ngọn xà nu, nhựa xà nu, lửa xà nu,… được nhắc đến rất nhiều lần, đầy ấn tượng. Cây xà nu là cảnh quan, là vẻ đẹp hùng vĩ của làng Xô Man: “… trông ra xa, hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Đồi xà nu trùng điệp ấy gợi cho ta liên tưởng về người người lớp lớp trong thế trận chiến tranh nhãn dân, trong cuộc diễu binh hùng vĩ. Mưa đại bác của giặc giội xuống suốt đêm ngày đà hơn ba năm nay, cây xà nu cùng chung số phận đau thương tang tóc với người Strá. Hàng vạn cây xà nu không có cây nào không bị thương. Đại bác giặc chặt đứt ngang nửa thân mình, cây xà nu “đổ ào ào như một trận bão”. Một cảnh tượng dữ dội, một tư thế lẫm liệt hiên ngang. Cây xà nu bị thương, nhựa ứa ra tràn trề “đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Cũng như những em bé – những nạn nhân trong chiến tranh, những cây xà nu vừa lớn ngang tầm ngực, nhựa còn trong, dầu còn loãng, bị trúng đạn, vết thương cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Cây xà nu được nhân hóa; nỗi đau của rừng xà nu mãi mãi là vết thương lòng của con người trong nhiều năm tháng. Cây xà nu cố một sức sống phi thường, vồ cùng mãnh liệt. Nó là loại cây ham ánh sáng mặt trời nhất trong rừng. Ở một gốc cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Một so sánh rất đẹp thể hiện một tư thế hiên ngang dũng mãnh trong lửa đạn. Nhựa xà nu “thơm mỡ màng”, “thơm ngào ngạt”, đó là phẩm chất cao quý để lại cho đời. Rừng xà nu, đồi xà nu mang tầm vóc dũng sĩ. Nếu cây tùng trong thơ Ức Trai có tài đống lương “nhà cả đòi phen chống khỏe thay”, để lại hổ phách, phục linh “dành còn để trợ dân này”, thì rừng xà nu đã hai ba năm nay, “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Qua đó, ta thấy thời chiến tranh, cây cỏ đã cùng con người chung sức, chung lòng đánh giặc để giữ làng giữ nước. Đọc truyện “Rừng xà nu”, một ấn tượng sâu sắc đối với mỗi chúng ta là đống lửa xà nu rực cháy trên nhà ưng đă làm cho lưỡi mác của cụ Mết, mũi giáo của đội du kích them sáng loáng, đã soi tỏ xác lũ ác ôn ngổn ngang trên những vũng máu. Cây xà nu, lửa xà nu đã cùng dân làng Xô Man chan hòa trong niềm vui thắng trận.

    Cụ Mết đã nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”. Đó là lời thách thức! Đó là niềm tự hào của già làng, của người dân làng Xô Man về rừng xà nu yêu quý. Nguyễn Trung Thành đã viết nên những trang văn xuôi tráng lệ nhất, mang âm hưởng anh hùng ca về cây xà nu. Cây xà nu là một hình tượng kì vĩ, cũng là một nhân vật sử thi thần kì.

    Truyện “Rừng xà nu” là một kiệt tác văn chương. Cảm xúc dồn nén, sự kiện dồn nén, đúng là “truyện của một đời người được kể trong một đêm, đó là cái đêm dài như cả một đời người”. Từ cây xà nu đến con người, tất cả đều phi thường, đều mang theo bao phẩm chất anh hùng. Tất cả đều tượng trưng cho khí phách và sự sống phi thường của con người, của thicn nhiên núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Có người đã ca ngợi thiẽn truyện “Rừng xà nu” là “khúc tráng ca về tự do” thời đánh Mĩ.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số lượt đánh giá: 1120

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống