Văn mẫu lớp 12 Tập 2

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề bài: Tóm tắt truyện (đoạn trích) “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng.

Bài làm

    Chiều 30 Tết năm Bính Tuất, chị Hoài đi bộ khá xa mới đến được cổng nhà cụ Bằng. Chị là vợ anh Tường liệt sĩ, con trưởng của cụ Bằng, nay chị đã phải đi bước nữa. Các em trai, em dâu anh Tường (Đông, Lý, Luận, Phượng) mừng rỡ, vồn vã, tíu tít đón người chị dâu cũ về thăm gia đình.

    Chị Hoài nay đã trạc năm mươi, người thon gọn, mặc áo bông chần hạt lựu, cặp mắt đằm thắm, cái miệng cười tươi, Chị Hoài đà có một gia đình riêng, chồng chị làm ở Uỷ ban xã, chị làm chủ nhiệm hợp tác xã đan dệt thảm ngô, vợ chồng chị có bốn đứa con, đứa đầu đi bộ đội, ba đứa em còn đi học.

    Tay nải chị Hoài mang đến có bao thứ quà quê, nào là gạo nếp tăng sản, nào là giò thủ, nào là bột sắn dây,… và một gói hạt giống mướp hương…

    Chị em nói chuyện, hỏi thăm, mừng vui vì đã lâu ngày mới gặp gỡ. Ông Bằng từ trên gác xuống cẩu thang, mắt chớp chớp liên hồi, môi ông lật bật, ông sắp khóc oà. Chị Hoài chạy đến, cất tiếng chào: “Ông!” sau tiếng nấc. Ông Bằng giọng bỗng khê đặc, khàn rè: “Hoài đây ư, con?”. Nhìn cảnh ấy, Phượng nghẹn ngào, mắt ngấn lệ. Ông Bằng nén xúc động, rút khăn tay, chấm kẽ mắt: “Anh ấy và các cháu vẫn khỏe cả chứ, con?”.

    Khi câu chuyện cảm động giữa ông Bằng và người con dâu cũ đang diễn ra, thì mâm cỗ cúng gia tiên đã bày biện xong. Lý rất ý tứ mời ông Bằng khấn cho lễ cúng gia tiên bắt đầu. Bàn thờ mờ ảo khói hương. Ngọn đèn dầu lim dim. Hai cái bánh chưng bọc lá tươi xanh, buộc lạt điều xếp cạnh mâm ngũ quả, những chén rượu xinh xinh. Ảnh song thân ở chính giữa, bên trái là ảnh bà Bằng mặt hoa da phấn, bên phải là ảnh anh cả Tường, áo trấn thủ, mũ ca lô, nét đã phôi pha.

    Ông Bằng tóc bạc lầm rầm khấn. Chị Hoài đăm đắm ngước lên bàn thờ, rồi chị thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực…

    Mâm cỗ ngày Tết thật là sang. Mọi người vào mâm, hân hoan khác thường.

Đề bài: Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn Ma Văn Kháng.

Bài làm

   Ma Văn Kháng đã từng nói: “Không ai chọn thời đại, hòan cảnh để sinh ra và sống với nó cả”. Ông từng được mệnh danh là người khuấy động văn đàn hiện đại Việt Nam, đại biểu tinh anh của văn học Việt với nhiều tác phẩm đặc sắc vẫn đang miệt mài cống hiến cho sự nghiệp văn chương cho nước nhà dù tuổi đã cao. “Mùa lá rụng trong vườn” là một cuốn tiểu thuyết đặc sắc của ông, xuất bản năm 1985. Truyện lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra nhiều thay đổi tốt có, xấu có. Truyện đã phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình – tế bào của xã hội.

   Thật vậy, đọan trích là chương II của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn kể về chiều 30 Tết năm Bính Tuất, chị Hòai – vợ anh Tường liệt sĩ con trưởng của cụ Bằng nay đi bước nữa. Tuy chị đã có gia đình riêng nhưng chị vẫn không quên về quê. Đón nhận tình yêu thương của gia đình ông Bằng, sự hỏi han của người em trai, em dâu gia đình chồng cũ không khỏi khiến chị nghẹn ngào. Khi câu chuyện cảm động giữa ông Bằng và chị diễn ra thì mâm cỗ cúng gia tiên cũng bày xong. Mâm cỗ ngày Tết thật là sang.. Qua câu chuyện trên, Ma Văn Kháng bày tỏ lòng trân trọng trước sự ăn ở đầy tình nghĩa thủy chung và những truyền thống tốt đẹp của người dân Hà thành.

   Trước tiên, chị Hòai – đứa con tinh thần mà ông yêu quý đã được nhà văn chắp bút tô điểm. Chị là người vợ của một liệt sĩ. Mặc dù chị tái giá nhưng chị vẫn giữ tình nghĩa với nhà chồng cũ. Chị về thăm lại gia đình đúng vào 30 Tết. Ma Văn Kháng đã miêu tả chị rất tỉ mỉ, chi tiết. Hòai là một người phụ nữ nông thôn, trạc 50 tuổi. Người chị thon gọn trong chiếc áo bông trần hạt lựu. Chị có một khuôn mặt rộng với cặp mắt đằm thắm và cái miệng tươi. Chỉ với việc khắc họa đôi nét về nhân vật, ta có thể thấy chị hòai hiện lên một cách giản dị với vẻ đẹp tươi tắn, sáng sủa. Từng là dâu trưởng trong gia đình ông bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ, bộn bề lo toan riêng nhưng chị vẫn luôn dành một chút góc nhỏ trong trái tim cho gia đình ông Bằng. Trong tiềm thức mỗi người trong gia đình đầm ấm ấy luôn “vẫn sống động một chị Hòai đẹp người đẹp nết”. Về thăm gia đình ông Bằng, chị mang quà quê với gạo nếp và giỏ thủ do chồng hiện tại chị làm. Lúc gặp ông Bằng mà mình kính trọng, yêu thương, chị “gần như không chủ động lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản.. kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa”. Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng nấc “Ông!”. Chị hòa chắp tay trước bàn thờ tổ tiên ngay sau khi ông Bằng lui gót, chị tíu tít hỏi han mọi người trong gia đình.

   Với những hành động trên, ta thấy chị rất quan tâm, chăm sóc mọi người. Chị ấy sống nặng tình nghĩa thủy chung son sắt. Chị coi gia đình chồng cũ như những người thân thích. Đó cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

   Ma Văn Kháng cũng lia ngòi bút của mình một cách điệu nghệ để khắc họa nhân vật ông Bằng với ngọai hình cao gầy hơn mọi ngày nhưng trang trọng và chỉnh tề hơn, gương mặt ánh lên cảm xúc của con người trước ngưỡng của năm mới. Khi nghe tin hòai lên, “ông sững khi nhìn thấy Hòai, mặt thóang một chút ngơ ngẩn. Rồi mắt ông chớp liên hồi, môi ông bật không thành tiếng có cảm giác ông sắp khóc òa”, giọng ông bỗng khê đặc, khàn rè: “Hòai đấy ư, con?”. Nỗi vui mừng khôn tả của ông khi gặp lại đứa con dâu trưởng mà ông rất mực yêu thương đã được miêu tả một cách chân thực.

   Khi mâm cỗ thịnh sọan được đưa lên, mọi người quây quần bên nhau, ông Bằng đứng trước bàn thờ tổ tiên như quên hết mọi thứ xung quanh, trôi ngược về quá khứ để tri ân cha mẹ, tổ tiên, ông tâm tình với vợ và con trai cả đã hi sinh của mình: “Trong giây lát, nhập vào dòng xúc động tri ân cùng tiên tổ và những người đã khuất, ông bẰng lâng lâng trong những hoài niệm hư ảo, thóat trần. Nhưng ông chỉ ở trong dòng tình cảm trôi lững lờ đó trong giây phút. Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách rời với con cháu. Tất cả liên kết thành một mạch bền chặt thủy chung. Bởi vậy, ông lại trở về với những ngày đang sống, với những người đang sống, mắt ông bỗng cay xè”. Có thể thấy, ông bằng là gạch nối giữa quá khứ với hiện tại của gia đình trong giây phút thiêng liêng ấy. Ông là kiểu nhân vật trong đạo đức gia đình.

   Tóm lại, qua đọan trích “Mùa lá rụng trong vườn”, Ma Văn Kháng đã khéo léo xây dựng kết cấu truyện hợp lý để giúp người đọc cảm nhận được nét đẹp tuyền thống gia đình của người Việt Nam để không đánh mất mình trước tác động của nền kinh tế thị trường, giúp mỗi người càng yêu thêm những nét đẹp trong tâm hồn người Hà thành. Truyện như một thước phim ngắn về một gia đình có truyền thống trọng đạo ân tình, tình nghĩa thủy chung son sắt.

Đề bài: Cảm nhận về tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng.

Bài làm

   Điều đúng nhất khi đọc sách văn học là nên tìm hiểu thật kĩ về tác giả và tác phẩm cùng hoàn cảnh ra đời, diễn tiến xã hội xung quanh nó. Tất cả những yếu tố đó giúp người đọc phần nào đến được với nhãn quan tác giả dùng để sáng tạo nên tác phẩm. Nhưng trong nghệ thuật nói chung và trong văn học nói riêng, còn một điều, có vẻ đúng hơn, chính là không có một nguyên tắc nào làm định tính hay định lượng cho chúng. Vì sao vậy? Vì tác phẩm, dù là hư cấu hay tả thực, đồ sộ hay giản tiện, thì một khi nó được tác giả viết nên bằng lòng chân thành chiêm nghiệm, bằng sự tôn kính đối với giá trị thể hiện, thì nó vẫn là tác phẩm đáng đọc, để từ đó, độc giả, bằng một thái độ thưởng thức nghiêm túc, sẽ thấy được một phần cuộc sống, một tâm hồn hay hoàn cảnh của mình trong đó.

   Hơn thế nữa, độc giả sẽ được thấy cả những chiều kích tâm hồn, cuộc sống mà mình chưa từng thấy, chưa từng trải qua. Mục đích cuối cùng của tác giả, khi viết, và độc giả, khi thưởng thức, là “cái có ích”. Cái có ích đó có thể là bất cứ điều gì, bởi chăng, người ta vẫn nói không gì là không có ích, chủ yếu là gần hay xa, trước mắt hay lâu dài mà thôi.

   Khi đọc Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, tôi chỉ biết tác giảlà nhà văn nổi tiếng của Văn học Việt Nam, không rõ giai đoạn, không biết về xu hướng, về phong cách, cũng chỉ vì vốn không là nhà nghiên cứu. Về tác phẩm, tôi khi còn bé đã được xem bộ phim truyền hình dài khoảng hơn mười tập. Ấn tượng duy nhất còn lại trong trí nhớ là một bộ phim hay về tình cảm gia đình,(chưa đủ khả năng đánh giá về diễn xuất của diễn viên). Phim hay vì màu vàng của bộ phim cứ ám ảnh tâm tư mỗi lần nghĩ đến, đó là màu lá, đó còn là màu một mái nhà xưa cũ đã không còn hợp với một xã hội đang nhộn nhạo bước vào thời kì thay da đổi thịt.

   Mùa lá rụng trong vườn của phim đưa tôi đến với tác phẩm viết một cách tình cờ, nhưng những trang đầu tiên đã đủlàm tôi ngỡ ngàng khi nhớ về cái thời mình còn ngây ngô, còn tươi vui trong cái vô lo của kẻ không biết gì ngoài chuyện học hành. Nhưng cũng từ cái khoảnh khắc đáng quí đó của sự hồi tưởng, tôi đã được về với chính “căn nhà nơi góc phố” của cái thời sau giải phóng. Nếu như xem văn minh, tiện nghi hay cái hào nhoáng của cuộc sống hiện đại là đủ, không bao giờ người ta cứ đưa những hàng quán rêu phong xưa cũ làm đối tượng để sáng tạo hay đơn giản là nơi tìm về. Thế thì, căn nhà đó đã là thứ hấp lực làm tôi trở nên sướng vui như tìm lại được điều gì đó quen xưa lắm.

   “…Ở đây có thể nghe thấy dép lê của khách bộ hành, tiếng trục xe ba gác lăn khục khịch, cót két bên vệ đường. Ở đây, mùa hè inh ỏi tiếng ve và lao xao vòm lá rậm gọi gió đùa. Mùa động cảm nhận được tiếng sương rơi và hơi gió lướt của tàu lá liệng rơi trên mặt đất…Ở đây, lúc này tất cả dường như đã ổn thỏa, ngay ngắn, trật tự, không còn phải lo toan, sắp xếp hoặc bàn bạc, cũng chẳng phải tính toán nghĩ suy, hoặc đề phòng một tai biến nào đó có thể bất thình lình xảy ra…”.

   Chủ đề chính của tác phẩm là mối quan hệ gia đình truyền thống trước những biến động của xã hội thời chuyển đổi, cho đến cùng của câu chuyện, dường như lời giải xác đáng vẫn chưa được đưa ra và những trở trăn vẫn còn đó. Thế nhưng, thông điệp được đưa ra, có lẽ là thông điệp đúng nhất và toàn diện nhất trong mọi hoàn cảnh, chính là lòng bao dung và tình yêu thương sẽ cứu rỗi tất cả mọi thứ lỗi lầm, mọi toan tính nhỏnhen, mọi ích kỷ cá nhân, mọi dày vò về vật chất và tinh thần. Có lẽ không cần và không nên nói nhiều về thông điệp dường như quá cũ kỹ và có vẻ như được đề cập đến quá nhiều. Riêng đối với bản thân, đểđưa ra một thông điệp có sức lay động và lan tỏa đó, không thểnào không xúc động trước hình ảnh căn nhà trong khu vườn lá rụng và sự cao vời về nhân cách của hai nhân vật, Phượng và Luận. Dẫu biết rằng bỏ qua một chi tiết, dù nhỏ, không nói đến một nhân vật, dù phụ, là điều tối kỵ khi nhìn nhận tác phẩm, nhưng lại là điều không thểmột khi đó là truyện dài. Hơn nữa, khi không có được sựtìm hiểu vềngọn nguồn của tác giảvà tác phẩm thì bản thân chỉ còn biết lấy cảm nhận chung nhất, và chủ quan nhất của mình để thêm một lần tìm được sự đồng cảm giữa những gì tác giả viết nên và những gì mình có thấy được.

Đề bài: Phân tích cuộc gặp gỡ giữa chị Hoài với cụ Bằng và những người em chồng trong chiều ba mươi Tết.

Bài làm

    Truyện “Mùa lá rụng trong vườn” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Ma Văn Kháng đã để lại ấn tượng khá đẹp trong lòng độc giả thời đổi mới cuối thế kỉ XX.

    Cuộc gặp gỡ giữa chị Hoài với cụ Bằng và những người em chồng trong chiều ba mươi Tết thật là cảm động. Phượng về làm dâu nhà cụ Bằng đã hơn chín năm. Ngày cưới của Luận – Phượng, chị Hoài có lên mừng hai em. Đã lâu, Phượng chưa được gặp lại chị dâu cả trong gia đình. Người phụ nữ mà Phượng và Lý cùng ao ước đã hiện ra như thật ngay trước cổng nhà, vào đúng lúc cả gia đình cụ Bằng đang tíu tít buổi cúng tất niên chiều ba mươi Tết. Sự gạp gỡ ấy trong khoảnh khắc ấy càng trở nên cảm động thiêng liêng.

    Phượng như một “chiếc gương thần” mà tác giả dùng để phản chiếu, để soi tỏ bao cảnh tình đáng nhớ đó.

    Trước mắt Phượng, bên ngoài cánh cổng sắt là một phụ nữ nông thôn xa lạ “trạc năm mươi, người thon gọn trong cái áo bông chần hạt lựu”. Chiếc khăn len nâu thắt ôm khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng tươi. Chị ta lại đeo một cái tay nải nặng, dáng vẻ không “ngác ngơ lạ lẫm, nhưng hơi mắt đậm nỗi bồi hồi”.

    Ma Văn Kháng thật tinh tế gợi tả hình ảnh chị Hoài đọng lại trong tâm hồn Phượng; chỉ là sơ cảm nhưng thật đậm, đúng là “cầu được, ước thấy”.

    Chỉ nửa chừng câu hỏi xã giao, Phượng đã nhận ra người chị thân yêu của mình: “Bác… bác hỏi ai ạ? A, có phải bác là… là chị Hoài không ạ?” Chị Hoài vẫn nhớ đứa em dâu, dù đã gần mười năm không gặp. Một câu hỏi, một câu nói xiết bao ân tình: “Cô Phượng đấy như?” Một tiếng “như” dân dã mà nghe thật ý vị, đậm đà.

    Sau tiếng reo lên của Phượng: “Chị Hoài! Chị Hoài lên, anh Đông, chị Lý, anh Luận ơi!” thì em trai, em dâu chồng túa ra, ùa ra đón chị Hoài. Đông, Lý, Luận đều ngơ ngơ ngác ngác, nửa tin nửa ngờ”. Thật ngoài sức tưởng tượng. Chị Hoài lên! Lên đúng chiều ba mươi Tết! Chị Hoài, vợ anh cả Tường liệt sĩ.

    Sau một thời gian dài đau khổ để tang chồng, chị Hoài được phép bố mẹ chồng “đi bước nữa”. Nhưng tâm hồn chị vẫn gắn bó thuỷ chung với gia đình cụ Bằng. Chuyện vui, buồn trong gia đình cụ Bằng, chị Hoài đều san sẻ.

    Chị Hoài trở về thăm “gia đình cũ” đúng chiều ba mươi Tết đã làm dấy lên bao tình cảm bồi hồi của những đứa em trai, em dâu liệt sĩ Tường. Hình ảnh chị Hoài vẫn in đậm trong tâm ức họ: “Chị Hoài, dâu trưởng, nết na, thùy mị. Trong tiềm thức vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết”.

    Ngòi bút của Ma Văn Kháng không chỉ tinh tế khi phân tích tâm lí con người mà ngòi bút của ông còn thật đằm thắm, thật sâu nặng ân tình:

    “Nhưng bây giờ chị Hoài đã có một gia đình riêng với những quan hệ riêng, lo toan riêng, nên vẫn nhớ, vẫn quý, vẫn yêu chị đấy, mà lại không dám, không nỡ níu chị về mình. Quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ. Kỉ niệm của chị ở đây đẹp nhưng buồn. Chị có quyền quên mà không ai được trách cứ”.

    Dù đã có một gia đình riêng ở nơi xa, nhưng chị Hoài không bao giờ quên gia đình cụ Bằng. Ngày mẹ chồng mất, chị vẫn về chịu tang. Ngày cưới của Luận và Phượng, chị cũng đến mừng và chia vui. Chị vẫn về thắp hương và dâng hoa lên bàn thờ gia tiên. Chị vẫn thương nhớ anh Tường đi đánh giặc, đi mãi không về. Nhận được tin Cừ, đứa em trai chồng “di tản” ra nước ngoài, chị sợ cụ Bằng buồn, dù việc nhà, việc hợp tác xã bận bịu, lại năm hết Tết đến, nhưng chị Hoài vẫn lên, lên đúng chiều ba mươi Tết.

    Chị Hoài và những đứa em chồng vẫn gắn bó thuỷ chung, vẫn son sắt nghĩa tình. Đúng như ông bà, cha mẹ ta vẫn nhớ, vẫn nhắc:

    Cho dù xuôi ngược về đâu,

    Tình xưa nghĩa cũ vẫn sâu vẫn bền.

    Cho dù vật đổi sao dời,

    Tình sâu nghĩa cả lòng người khắc ghi.

           (Ca dao)

    Thật cảm động, khi Phượng sôi nổi,nồng hậu nói: “Em mừng quá, chị Hoài ơi. Để em xách tay nải cho”.

    Thật mừng mừng tủi tủi,Thi Lý nức nở, ôn chầm lấy chị dâu trưởng ngày xưa: “Đúng là có linh tính nhé. Chị xem lời em nói có thiêng không? Em vừa nói: ước gì chị Hoài hiện ra bây giờ nhỉ”.

    Thật là mong mỏi đợi chờ, khi Luận nói với chị dâu: “Hơn chục năm nay chị Hoài chưa lên Hà Nội rồi đấy”.

    Câu hỏi của chị Hoài cất lên: “Ông có khỏe không, hai cô?” chứa đựng biết bao ân tình ân nghĩa. Chị có bao giờ quên được bố mẹ chồng, từng coi chị như đứa con ruột rà thương yêu của mình.

    Cuộc gặp gỡ cuối năm giữa chị dâu và mấy đứa em chồng thật vui mừng, vồn vã, cảm động. Phượng nhắc lại kỉ niệm gần mười năm về trước mà vẫn còn roi rói trong lòng: “Hôm cưới em, chị mặc áo vét như cán bộ kia”. Luận đi cạnh chị Hoài, nghiêng nghiêng đầu, hỏi đủ chuyện dưới quê. Vợ chồng Lý – Đông “vui vẻ quá mức”, Lú cùng Đông đưa chị vào phòng khách. Chị Hoài kể lại đủ chuyện, chuyện công tác, chuyện làm ăn, chuyện cô Phượng được chuyển công tác, chuyện cậu Cừ… Nhận được thư ông, biết bao chuyện vui buồn trong gia đình, nên chị Hoài “suốt ruột phải lên ngay”. Chị “sợ ông buồn”.

    Phượng xúc động vì cô cảm thấy “Người phụ nữ đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống của gia đình này”.

    Đúng Phượng là “chiếc gương thần” để soi sáng tình sâu nghĩa nặng trong lòng chị Hoài, trong tâm hồn những đứa em trai và em dâu của anh cả Tường liệt sĩ.

    Đọc chương II “Mùa lá rụng trong vườn”, ta thấy ngòi bút đằm thắm của tác giả khi nói về bài ca tình nghĩa, về sự thuỷ chung son sắt ở đời.

    Chiếc tay nải mà chị Hoài mang theo cũng là một phần tuyệt đẹp của bài ca tình nghĩa. Chiếc tay nải đựng đầy những món quà quê. Chị Hoài vừa lấy ra vừa nói. Chị chất phác và đôn hậu quá, chồng con chị chu đáo và tình nghĩa quá. Giá trị vật chất thời bao cấp thật đáng quý, giá trị tinh thần thì không thể kể hết được. Chị Hoài xởi lởi nhắc lại lời hai đứa con cứ nhét quà vào tay nải và giục: “Mẹ đi đi, không ông buồn, các chú, các cô mong!”.

    Cây nhà lá vườn thôi, nhưng thật vô giá: “Đây là gạo nếp tăng sản của nhà. Cái giò thủ anh ấy gói đấy, ông thích ăn giò thủ lắm đấy, cô Lý ạ. Còn bọc này là sắn dây. Trẻ em nó giã, nó rây đấy”. Chị Hoài thật chu đáo mang lên cả một gói hạt giống mướp hương “thơm ngon mà quả to lắm”; chị nhắc cô Lí đem gieo ở bờ ao, gieo vào đêm nay…

    Chị Hoài quan tâm đến mọi người. Chị hỏi thăm ông thợ mộc. Chị khen “chú Đâng tóc bạc nhưng vẫn khoẻ nhỉ!” Chị hỏi thăm cháu Dư. Chị khen cô Lý (vợ Đông) “trẻ như gái mười tám ấy”.

    Lòng chị Hoài dào dạt niềm vui được trở về. Lòng các em cũng dào dạt niềm vui được gặp lại người chị dâu cả, mặc dầu “quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ”…

    Tình tiết cái tay nải đựng quà được Ma Văn Kháng mô tả làm ánh lên chất nhân văn – vẻ đẹp của tình người.

    Cảnh cụ Bằng gặp lại chị Hoài, người con dâu cũ sau nhiều năm vật đổi sao dời là một tình tiết rất sống, rất thực, rất cảm động.

    Ông Bằng chống ba toong lịch kịch đi xuống cầu thang. Phượng và Luận chạy lại chân cầu thang đón. Cụ Bằng xuống để cúng và cũng là lúc ông nghe thây xôn xao tin chị Hoài lên. Ông đã già nua, hai bẽn cằm nếp da xệ, trên trán còn ghi vết tàn lụi và nỗi ưu tư. Ông Bằng vẫn giữ nếp phong lưu và trang trọng, chỉnh tề “mặc dầu vẫn là bộ com lê đen, kẻ sọc mờ, cài khuy chéo”. Thoáng nhìn thấy người con dâu cả lên thăm, cụ Bằng xúc động quá, “sững lại”, mặt “thoáng một chút ngơ ngẩn”, mắt ông “chớp liên hồi”, môi ông “lật bật không thành tiếng”, ông “sắp khóc òa”.

    Thời gian như ngừng trôi, không gian như vắng lặng. Khi chị Hoài lao về phía người bố chồng, thốt lên tiếng như tiếng nấc “Ông!”, thì cụ Bằng bỗng khê đặc, khàn rè: “Hoài đấy ư, con?”. Xiết bao thương cảm và quý mến. Cụ Bằng đã khóc, người con dâu cũ cung đã khóc. “Cảnh gặp gỡ vui mừng nhiễm một nỗi tiếc thương đau buồn, ê nhức cả tim gan”.

    Phượng vẫn là “chiếc gương thần” phản chiếu soi sáng giây phút cảm động giữa ông bố chồng già nua, phúc hậu gặp lại chị Hoài, người con đâu cũ vô cùng quý mến của hai ông bà. Phượng xúc động, “mắt ngấn lệ không nỡ gặp gỡ… “, và rồi ngực cô “dội lên những cơn sóng nghẹn ngào và hai cánh mũi se se cay”.

    Ông Bằng phúc hậu quá, khi ông nén xúc động rút khăn tay lau nước mắt, nhẹ cất tiếng hỏi chị Hoài: “Anh ấy và hai cháu vẫn khoẻ cả chứ, con?” Với ông Bằng thì vợ chồng chị Hoài và những đứa con vẫn là con, là cháu của òng bà.

    Chị Hoài lễ phép kể lại chuyện chồng con mình với tất cả sự cởi mở của một tấm lòng tình sâu nghĩa nặng…. “Lẽ ra, anh ấy thu xếp công việc được cũng lên kính thăm ông dịp này. Cả các cháu nữa, bốn đứa, đứa nào cũng đòi đi. Nhất là thằng lớn, nó cứ bảo mấy lần nó qua Hà Nội mà chưa được vào nhà thăm ông, lần này rỗi rãi nó phải đi…”.

    Tôi cứ tự hỏi, tại sao nhiều bạn trẻ chúng ta khi đọc đoạn văn nói về giây phút gặp gỡ giữa cụ Bằng và chị Hoài không ngăn được dòng nước mắt? Trái tim của tác giả “Mùa lá rụng trong vườn” hồn hậu quá, dạt dào tình yêu thương.

    Lễ cúng tất niên chiều ba mươi Tết thể hiện một nét đẹp văn hoá truyền thống của các gia đình nơi kinh kì Thăng Long, phản ánh phong tục đẹp của con người Việt Nam chúng ta.

    Cái bàn thờ gia tiên trong mỗi gia đình Việt Nam đã nói lên đầy đủ tất cả những gì đã có, đang có và những gì mong ước mai sau. Cái bàn thờ của gia đình ông Bằng cũng thế. Một nếp nhà bền vững đáng trọng. Chắc là có nhiều đổ thờ quý giá. Bàn thờ là cõi thiêng. Hương khói ảo mờ. Ngọn đèn dầu lim dim… Bốn tấm ảnh đặt sát tường?: ở giữa là ảnh song thân, bên trái là ảnh bà Bằng “mặt hoa da phấn, tóc vấn khăn nhung”, bên phải là ảnh anh cả Tường “áo trấn thủ ô quả trám, mũ ca lô nghiêng, nét đã phôi pha”. Mâm ngũ quả, cặp bánh chưng xanh buộc lạt điểu, những chén rượu xinh xinh xếp hàng ngang trước bàn thờ.

    Cụ Bằng, mái đầu hói, diềm tóc lơ thơ đã bạc hết, chắp tay khấn trước ngực. Tâm trí ông phiêu diêu lãng đãng gần xa,… chập chờn như trong chiêm bao”. Ông thì thầm và thành kính khấn nguyền: “Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con văng vẳng nghe đâu đây giáo huấn của ông cha tiên tổ. Con vẫn đinh ninh ghi khắc công ơn sinh thành dưỡng dục của thầy mẹ, gia tộc, ông bà, tổ tiên…”. Rồi ông Bằng khấn vợ con: “Và em, cùng con trai cả của ba mẹ. Em cùng con đã mất và vẫn hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, đỡ nâng dìu dắt tôi cùng các cháu, các con, các em…”.

    Lời khấn của ông Bằng cho ta thấy “quá khứ không cắt rời với hiện tại; tổ tiên không tách rời với con cháu; tất cả liên kết một mạch bền chặt thủy chung”. Lúc cúng, lúc khấn, tâm hồn ông Bằng ” lâng lâng”, tình cảm ông “trôi lững lờ”, mắt ông “cay sè”, lòng ông “bồn ngộn”, lời cầu khẩn của ông “thành kính và run rẩy”. Cụ Bằng không hề nhắc đến Cừ, “ông cụ đã gạt tên thằng Cừ”. Các con xúc động lắng nghe lời cha khấn. Còn chị Hoài “đăm đắm ngước lên bàn thờ”. Khi người cha chồng vừa buông tay chắp, lau nước mắt, lui ra, thì chị “liền thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực”.

    Ta đã từng nghe ông Tám Xẻo Đước khấn nguyền trước bàn thờ gia tiên trước khi quyết tử với thằng Đởm – chánh cống ác ôn (Truyện Đất của Anh Đức). Và chiều ba mươi Tết năm Bính Tuất, ta lại được nghe, được chứng kiến ông Bằng cúng và khấn gia tiên.

    Tâm hồn của con người Việt Nam sao đẹp thế! Phong tục của dân tộc ta sao đẹp thế! Bản sắc nền văn hoá Việt Nam thật đáng tự hào. Ông Bằng và con cháu ông đã và đang lưu giữ trong tâm hồn bao nét đẹp của con người Hà Nội, đã và đang sống, đang lưu truyền, giữ gìn truyền thống tốt đẹp và lâu đời văn hoá Tràng An.

    Mâm cỗ ngày Tết thời bao cấp khó khăn của gia đình ông Bằng vẫn thịnh soạn. Lý, cô gái Hà Nội là “bếp trưởng” của mâm cỗ này. Trên mâm cỗ “la liệt bát đĩa, ngồn ngộn các món ăn”. Chắc là có 18, 24 hay 36… món cao lương mĩ vị, ta chỉ đếm qua đã cảm thấy ngon, thấy thèm: gà luộc, giò, chả, nem, măng hầm chân giò, miến nấu lòng gà, súp lơ xào thịt bò,… đặc biệt là các món gà quay ướp húng lìu, vịt hầm hạt sen, chả chìa, mọc, vây… Món vịt tần, vây, và mọc, nhất là món mọc đã được Lý “rất tỉ mỉ, và kĩ tính hết sức khi chế biến món này”.

    Lý không chỉ muốn bộc lộ năng khiếu của một cô gái Hà Nội về nữ công gia chánh mà còn muốn bày tỏ một tấm lòng thành kính với gia tiên.

    Qua mâm cổ chiều ba mươi Tết của gia đình ông Bằng, nhà văn Ma Văn Kháng tự hào khẳng định và ngợi ca một nét đẹp văn hoá trong cách sống của người dân Thăng Long-Hà Nội.

    Ai đã từng đọc tác phẩm “Miếng ngon Hà Nội” của Vũ Bằng sẽ cảm nhận sâu hơn, đầy đủ hơn ý vị mâm cỗ cúng gia tiên ngày Tết của gia đình ông Bằng.

    Chương II tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong là những trang văn đẹp. Đẹp về tình nghĩa thuỷ chung trong đạo lí, trong cách sống, trong cách ứng xử, đẹp ở tâm hồn và nếp sống văn hoá của người Hà Nội. Đẹp ở những tình tiết cảm động, ấm áp tình người của những con người nhân hậu.

    Hình ảnh cụ Bằng, chị Hoài, cô Phượng, cô Lý… đã để lại trong tâm trí chúng ta bao tình cảm đẹp. Chương II này, theo tôi nghĩ, đó là bài ca tình nghĩa của những người thủy chung.

 

Bài giải này có hữu ích với bạn không?

Bấm vào một ngôi sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 4 / 5. Số lượt đánh giá: 930

Chưa có ai đánh giá! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

--Chọn Bài--

Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!

Tải xuống